Hà Vũ Trọng
Niên đại 736, sử kí Nhật Bản công nhận sự du nhập âm nhạc Đông Dương,
chủ yếu từ Chămpa do tăng sĩ Phật Triết truyền vào Nhật Bản. Phật Triết
(âm Nhật là Buttetsu) sang Nam Ấn học với cao tăng Bồ Đề Tiên Na
(Bodhisena), sau đó cả hai du hành sang Trung Quốc truyền đạo. Tới năm
736, Phật Triết và thầy qua Nhật Bản thể theo thỉnh cầu của các vị tăng
của xứ này, họ trú ở Đại An Tự và Đông Đại Tự, và ở đó truyền dạy cho
tới khi qua đời. Phật Triết được suy tôn là tông sư của Gagaku hay Nhã
nhạc Nhật Bản, đặc biệt với loại vũ nhạc gọi là Rinyugaku hay Lâm Ấp
Nhạc (Lâm Ấp vốn là tên gọi Chămpa theo sử sách Trung Quốc từ thế kỉ 2, tới thế kỉ 8 thì gọi là Hoàn Vương) mang sắc thái Phật giáo và Ấn giáo của Chiêm Thành trong biên chế nhã
nhạc cung đình. Gagaku được truyền nhập qua các thời đại, chủ yếu bắt
đầu từ thế kỉ 8 thời Nara (Nại Lương), lên đến cực thịnh giữa những thế
kỉ 9 đến 11 trong thời Heian (Bình An). Ta cần lưu ý, loại âm nhạc trong
đời Đường từ Trung Quốc và Hàn Quốc du nhập vào cung đình Nhật Bản thực
chất là Yến nhạc (Engaku), trong khi loại Nhã nhạc đúng nghĩa nhạc lễ
Nho giáo thì chưa từng được du nhập vào nước Nhật, như vậy khác với Việt
Nam, có lẽ do nước Nhật đã có sẵn loại nhạc tế lễ của Thần Đạo. Cho đến
thế kỉ 8, khi nghệ thuật vũ đạo và âm nhạc Phật giáo do Phật Triết
truyền thụ trong các ngôi chùa lớn dưới sự bảo trợ của cung đình, thì
sau đó mới thực sự được khai triển để thiết lập thể chế âm nhạc cung
đình Gagaku.
Năm 752, trong ngày lễ lịch sử và trọng đại là Đại Hội Khai Nhãn Tượng
Đại Phật Như Lai tại Đông Đại Tự (Tōdai-ji) do cao tăng Bồ Đề Tiên Na
chủ trì buổi lễ và làm khai nhãn đạo sư. Triều đình muốn cử hành lễ cúng
dường vào dịp này để đánh dấu 200 năm Phật giáo du nhập vào Nhật Bản,
chùa Đông Đại Tự mời tới 25 ngàn tăng lữ ngoại quốc tới tham dự đại lễ,
chủ yếu từ Đông Dương (gồm các nước Đông Nam Á và Ấn Độ). Vào dịp này,
trước sự hiện diện của Hoàng đế và tất cả bá quan văn võ, trong lễ khai
mạc Phật Triết là nhạc sư truyền thụ và cúng dường bằng Lâm Ấp Nhạc với
những vũ điệu như Bồ Tát, Bạt Đầu, Bội Lư… Nhạc Lâm Ấp cũng được diễn
tấu trong những sự kiện quan trọng khác như Đại Hội Cúng Dường Tu Sửa
Đầu Tượng Đại Phật tại Đông Đại Tự, các buổi khánh yến của triều đình
hay những trai hội ở các tự viện,… Vào năm 809, đã chọn ra ban nhạc công
từ xứ Lâm Ấp ở Đại An Tự lên tới 107 người.
Những vũ điệu do Phật Triết truyền dạy được khai triển thành Nhã nhạc
dưới triều Bình An (Heian) đã qua sự cải cách, trong nhạc chế gồm 8 khúc
gọi là Lâm Ấp Bát Nhạc (Rinyu hachi gaku), có thể liệt kê:
1)
Bosatsu (Bồ Tát)
2) Karyobin (Ca Lăng Tần)
3) Ryō-ō (Lăng Vương hoặc Long
Vương)
4) Anma (An Ma Nhị Vũ)
5) Bairo (Bội Lư)
6) Bato (Bạt Đầu - phối hợp
với vũ khúc khác là Hoàn Thành Nhạc còn gọi là Kiến xà nhạc)
7)
Koinju (Hồ Ẩm Tửu)
8) Manjuraku (Vạn Thu Nhạc)
Dưới đây, ta hãy lướt
qua từng vũ khúc trong Lâm Ấp Bát Nhạc.
Vũ điệu thứ nhất là Bồ Tát, từ thế kỉ 13 thực tế không còn thịnh hành và
đã mai một trong cung đình, tuy nhiên vũ điệu Bồ Tát đeo mặt nạ
(Gyoudoumen) ngày nay còn thấy trong những lễ rước cúng dường ở các chùa
Phật giáo, đặc biệt tại Đương Ma Tự (Taima-dera) ở Nara, hằng năm chùa
này đều diễn hí kịch và ca múa cảnh 25 vị Bồ Tát tiếp dẫn vãng sanh sang
cõi Tịnh độ. Khúc Bồ Tát được cho là xưa kia vũ chung với vũ khúc thứ hai
là Ca Lăng Tân, sau này được tách ra.
Karyōbin hay Ca Lăng Tần Già
(phiên âm từ tiếng Phạn: Kalaviṅka), là tên một loài chim quý của Ấn Độ
có tiếng hót tuyệt hay. Kinh điển Phật giáo thường lấy âm thanh của loài
chim này để ví cho tiếng vi diệu của chư Phật và Bồ Tát, hoặc xem như
là loài chim của thế giới Cực Lạc. Trong nghệ thuật, hình tượng chim
thần Ca Lăng Tần Già thường được thể hiện dưới hình dạng đầu người mình
chim có đuôi dài, hoặc như là những thiên thần nhạc công (gandharva hay kinnari) múa
vỗ trống bồng và dâng hoa mà ta thấy trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa đặc biệt trên tháp Mẫm, hoặc chùa Phật Tích (thời Lí) và chùa Thái Lạc
(thời Trần), đây chính là những vết tích của vũ điệu Chiêm Thành chim
thần Ca Lăng Tần Già một thời thịnh hành trong các ngôi chùa thời
Lí-Trần. Vũ khúc Ca Lăng Tần Già truyền qua Nhật Bản thường do 4 bé trai hay
gái diễn, đeo vành hoa trên đầu và y phục mang đôi cánh chim tuyệt đẹp.
Đôi chân của chúng nhảy dậm thoăn thoắt thật duyên dáng, vừa lắc đuôi
chim theo từng bước vừa đánh cặp chũm choẹ bằng cả hai bàn tay, tiếng vo
vo cao vút thật lạ kì như mô phỏng khúc ca diệu âm của chim Ca Lăng Tần
Già.
Khúc thứ ba, Lăng Vương hay Long Vương, danh khúc này với phong cách
lữ luật tuyệt đẹp đặc trưng cho Lâm Ấp Nhạc, vũ điệu này trội bật
trong những điệu vũ tương đối nhanh gọi là tẩu mã (hashiri-mai) trong Tả
nhạc. Long Vương là điệu múa độc diễn, người diễn mặc y phục gồm áo dài
thắt ngang lưng có dải tua, quần chẽn bó ống, đeo mặt nạ rồng với cái
mũi nhọn, cặp mắt lồi “động nhãn” và hàm răng to có thể cử động khi diễn,
tạo vẻ mãnh liệt hùng hậu cùng những nếp nhăn trên khuôn mặt và những
gợn tóc dập dờn được khắc trên trán. Long Vương cũng như các vũ điệu
Gagaku khác, bắt nguồn từ những động tác múa Nata của Nam Ấn. Qua so
sánh về động tác vũ đạo của Long Vương, nhà nghiên cứu văn hoá Vũ Ngọc
Liễn đã cho rằng sự hình thành sân khấu hát bội Bình Định sau này vốn
bắt nguồn từ hình thái nghệ thuật sân khấu ‘Phạn hí’ hay Kịch Nhà Chùa
của Chămpa mà ngay từ thế kỉ thứ 8 đã đạt đến trình độ có kịch bản thành
văn. Vũ điệu Long Vương rút từ vở tuồng nổi tiếng của Ấn Độ là
Nagananda (Xà hỉ) về câu chuyện Bồ tát Đằng Vân đã hi sinh thân mình để
cứu con rồng (naga), hay là những hình tượng về Hộ Pháp Vương hay Bát
Đại Long Vương từ sự tích trong kinh Jataka (Bảo Sanh). Những lễ hội dân
gian ở Nhật từ thời Bình An, thường phối hợp điệu vũ Long Vương với
chức năng để cầu mưa, vì rồng là vị thần coi về nước, mưa và phương
Đông.
Vũ khúc thứ tư, An Ma Nhị Vũ, là vũ điệu một cặp vũ công (nam nữ lớn
tuổi) đeo mặt nạ bằng lụa trắng vẽ bằng mực đen trên đó những hình dạng
trừu tượng. Hai nhân vật tương tự các vị thần A-tu-la thờ trong các đình
miếu và mang sắc thái pháp thuật, tay cầm cái hốt làm những động tác
vừa phất vừa ngâm xướng.
Vũ khúc thứ năm Bội Lư (Bairo - từ tên vị thần Ấn giáo là Bairava biểu
hiện cho cơn thịnh nộ và huỷ diệt của thần Shiva) là vũ khúc nhóm bộ tứ,
tương tự những điệu múa kiếm và là vũ khúc chiến binh.
Vũ khúc thứ năm Bạt Đầu (Batô) là vũ khúc đơn mà Phật Triết truyền
thụ cho các nhạc công ở Tứ Thiên Vương Tự (Shitennoji). Hình ảnh chính:
một vũ công đang quỳ như thể tuyệt vọng, mái tóc rũ xuống che kín mặt.
Cái mặt nạ biểu hiện tâm trạng hoàn toàn cô độc và u sầu của người con
trai đang khóc thương Cha bị hổ vồ chết. Truyền thuyết kể, để báo thù
cha, người con lang thang trong rừng cho tới khi gặp được con hổ. Sau
một trận chiến kịch liệt, người con nhảy một vũ điệu chiến thắng. Theo
nhà nhạc học Tanabe Isao, trong nhạc chế cung đình thời Bình An, vũ khúc
Bạt Đầu chia thành hai khúc, nửa đầu là Bạt Đầu nửa sau là Kiến Xà nhạc
tức Hoàn Thành nhạc (Genjoraku) với nhân vật khuất phục một con rắn, cả
hai đều có những điểm tương tự về vũ đạo, nhân vật, y phục của Tây Vực.
Vũ khúc thứ bảy Hồ ẩm tửu (Koinju) đeo mặt nạ màu đỏ tượng trưng sự say sưa, cái mũi to tướng đặc trưng cho người Hồ hay Tây Vực. Tiếp theo 7 khúc vũ nhạc Lâm Ấp nói trên do Phật Triết làm nhạc sư truyền thụ ở Đại An Tự, 10 năm sau, trong Lễ hội ở Đại Phật điện của Đông Đại Tự, ngài công khai truyền thụ vũ nhạc thứ 8 là Vạn Thu Nhạc, đây là một đại khúc, vũ công gồm 6 hoặc 4. Âm nhạc vốn là bộ môn giáo dưỡng bắt buộc của giới quý tộc và cung đình mà trong đó Vạn Thu Nhạc là vũ nhạc tiêu biểu và là bí khúc được bảo lưu riêng.
Như vậy, suốt mười mấy thế kỉ, nước Nhật tàng chứa một kho báu nghệ thuật vô giá và đa văn hoá, đó là nền vũ nhạc cung đình gọi chung là Nhã nhạc hay Gagaku, ngoài bản địa ra còn bao gồm nhiều nền vũ nhạc quốc tế như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Mãn Châu, Thái Lan, Ba Tư…. đặc biệt quan trọng là vũ nhạc Chămpa (hay Đông Nam Á) với công trạng của Phật Triết. Qua thời gian với những biến thiên và thăng trầm, Gagaku hiện vẫn tồn tại như một điểm hội tụ và hợp lưu giữa những truyền thống vũ nhạc châu Á cổ điển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét