Thưa quý vị!
Trong dịp nhận Giải Nobel này, ban đầu
tôi muốn chia sẻ với quý vị những suy nghĩ của mình về chủ đề hi vọng, nhưng vì
kho hi vọng của tôi hẳn nhiên cuối cùng cũng đã cạn kiệt, nên giờ tôi sẽ nói về
các thiên thần.
I.
Tôi đi loanh quanh và nghĩ về về các
thiên thần, ngay cả bây giờ tôi vẫn đang đi, nên bạn đừng tin vào mắt mình – trông
như thể tôi đang đứng và nói vào micro, nhưng không, thực ra tôi đang đi loanh
quanh, hết góc này sang góc nọ, rồi quay trở lại nơi tôi bắt đầu, cứ thế, loanh
quanh, và đúng vậy, tôi đang nghĩ về các thiên thần, về những thiên thần mà tôi
có thể tiết lộ với bạn rằng họ là một loại thiên thần mới, những thiên thần
không có cánh, vì vậy chúng ta không cần phải thắc mắc về việc hai cánh mọc ra
từ lưng họ, thật vậy, nếu đôi cánh to lớn này dang ra đến mức vượt ra ngoài chiếc
áo choàng của họ, không biết những thợ may trên xưởng may thiên đường có bí quyết
nào mặc áo vào cho họ trong khi cả hai cánh dang ra, tất nhiên là bên ngoài
thân thể phi vật lí, nhưng đôi cánh thò ra ở đâu bên ngoài thân thể phi vật lí ấy,
và chiếc áo choàng quấn quanh họ một cách mềm mại cũng che cả đôi cánh, hoặc giả,
nếu họ không thò đôi cánh ra, thì làm thế nào chiếc áo thiên đường này che phủ được
cả cơ thể lẫn đôi cánh của họ? Ôi, đáng thương cho Botticelli, Leonardo, Michelangelo,
thậm chí Giotto và cả Fra Angelico nữa!
Nhưng giờ thì không còn quan trọng nữa,
câu hỏi này đã tan biến cùng với những thiên thần xưa, những thiên thần mà tôi
đang nói đến là những thiên thần mới, điều đó rất rõ ràng khi tôi bắt đầu đi
quanh phòng mình, nơi mà
giờ đây bạn chỉ có thể thấy tôi đang đứng trước micro và tuyên bố, với tư cách
là người nhận Giải Nobel Văn học năm nay, rằng tôi muốn nói về hi vọng, nhưng tôi
sẽ không nói về nó
bây giờ, thay vào đó, tôi sẽ nói về các thiên thần, tôi sẽ bắt đầu từ điểm đó, khi trong tâm trí tôi chỉ có những phác thảo mơ hồ lúc
tôi bắt tay vào việc, với tư thế trầm ngâm trong không gian làm việc không quá
lớn, tổng cộng chỉ 4m x 4m trong một
căn phòng tháp mà diện tích cầu thang dẫn lên xuống tầng trệt cần được trừ đi,
tất nhiên, đừng nghĩ đến
một loại tháp ngà lãng mạn nào đó, căn phòng tháp này, được xây dựng từ những tấm
ván vân sam Na Uy rẻ tiền nhất và
nằm
ở góc bên phải của một tòa nhà gỗ một tầng, nổi bật hơn mọi thứ khác vì mảnh đất
của tôi nằm trên một con dốc, vì toàn bộ tòa nhà đứng trên đỉnh đồi, tức là
toàn bộ lô đất nằm trên một sườn dốc và hơn nữa, nó dốc xuống một thung lũng,
điều đó có nghĩa là tôi muốn xây thêm một phần rất cần thiết cho các phòng ở tầng
trệt, và tôi muốn điều này khi những cuốn sách đang chiếm hết mọi không gian, rồi
sau một khoảng thời gian nhất định, nhiệm vụ này trở nên không thể trì hoãn được,
và vì độ dốc này, căn phòng được xây thêm đã vươn lên như một tòa tháp phía
trên tầng trệt, đè nặng lên nó, à, mà
ở
đây tôi chỉ muốn nói về các thiên thần, và không phải về hi vọng, và không phải
về những thiên thần cũ, bởi vì những thiên thần cũ, những thiên thần có cánh –
hãy nghĩ tới những thiên thần nổi tiếng
nhất trong số các bức tranh về Thiên thần Truyền tin, được vẽ ra vô số trong thời
Trung
cổ và Phục hưng – họ mang
đến một thông điệp, thông điệp về Đấng Sẽ Ra Đời sẽ được giáng sinh; đây là những thiên thần
thời xưa, những sứ giả trên trời liên tục mang theo thông điệp này hoặc thông
điệp khác, và theo những phát hiện của thiên thần học, phần lớn họ
truyền đạt thông điệp này đến người nhận thông qua lời nói, hoặc đôi khi, như mô tả trong các bức tranh từ thế kỉ 9 và 10, họ đọc
trực tiếp từ một dải ruy băng giấy
gợn sóng những câu chữ,
trong những cảnh mô tả này, chữ được coi là có ý nghĩa phi thường; ngay cả khi
trong các nhiệm vụ khác, những thiên thần này cũng truyền đạt – hay đúng hơn
là họ đã truyền đạt – thông điệp
của Đấng Tối Cao cho những người được chọn, lời
được
che giấu trong ánh sáng hoặc thì thầm vào tai, nghĩa là, bất kể những mô tả
này, không thể phân biệt được thiên
thần với lại thông
điệp của họ – chính xác hơn là họ không thể phân biệt được với thông điệp của họ
– đến
mức chúng ta thực sự nên nói rằng thiên
thần thời xưa bản
thân là thông điệp, bản thân họ là thông điệp luôn đến từ Đấng Không Thể Khẩn Cầu, Ngài đã gửi họ,
Ngài đã gửi các thiên thần đến với chúng ta, những người vật lộn trong bụi đất,
những người lang thang, bị kết án phải
chịu
Hậu Quả Khôn Lường, ôi, đó là những
thời điểm đẹp đẽ! Nói tóm lại, mỗi thiên thần xưa là một thông điệp từ người
này đến người khác, một thông điệp mang tính chất của một mệnh lệnh hay một tường
trình, nhưng tôi không có ý định bàn về vấn đề này ở đây, khi đang đứng trước mặt
các bạn trong khi đi loanh quanh trong
căn phòng tháp của tôi, mà như các bạn biết đấy, được làm bằng gỗ vân
sam rẻ tiền, hầu như không thể sưởi ấm, và đó là một tòa tháp chỉ vì độ dốc lớn
của mảnh đất, vậy thì, tôi sẽ không nói về những thiên thần xưa, ngay cả khi những
bức tranh sống trong chúng ta – nhờ những thiên tài thời Trung cổ và thời tiền
Phục hưng, từ Giotto đến Giotto –ngay cả
khi những thiên thần xưa với những nét tuyệt vời, cao cả và gần gũi của họ cho đến ngày nay vẫn
liên tục chạm đến tâm hồn chúng ta, thật không thể tin được, vì chắc chắn họ là
những thiên thần duy nhất, trong suốt nhiều thế kỉ, nhờ sự xuất hiện trong những dịp hiếm hoi, cho
phép chúng ta suy ra sự tồn tại của Thiên đường, và với điều đó, chúng ta cũng
có thể suy ra chiều hướng
đã tạo ra bên trong chúng ta cấu trúc của vũ trụ như một chiều hướng, bởi vì nơi nào
có chiều hướng thì nơi đó có khoảng
cách, tức là có không gian, và nơi nào có chiều
hướng
thì cũng sẽ tồn tại khoảng cách giữa hai điểm, tức là có thời gian, và do đó,
trong nhiều thế kỉ nay – ôi! và trong hàng thiên niên kỉ! – thế giới được tin
là đã được tạo ra, nơi những cuộc gặp gỡ với họ, với những thiên thần xưa kia,
đã cho chúng ta một cách để cảm nhận một cách dứt khoát về thế giới bên trên và
bên dưới như một điều gì đó chân thực và có thật, và vì vậy, nếu tôi muốn nói
chuyện với bạn về những thiên thần xưa, tôi sẽ đi vòng quanh từ một góc, rồi
quay trở lại góc đó, nhưng
không, những thiên thần xưa không còn nữa, chỉ có những thiên thần mới, và đối
với bản thân tôi, tôi không đi vòng quanh từ một góc rồi trở lại góc đó và nghĩ
về họ khi tôi đứng đây trước sự chú ý của bạn, bởi vì, như tôi có lẽ đã đề cập, những thiên thần mới của chúng ta là những
thiên thần đã mất đi đôi cánh, họ không còn những chiếc áo choàng mềm mại quấn quanh người nữa, họ
đi lại giữa chúng ta trong những
bộ quần áo giản dị, chúng ta không biết có bao nhiêu thiên thần, nhưng theo một gợi ý
mơ hồ nào đó, số lượng của họ vẫn không thay đổi, và, giống như những thiên thần
xưa kia, những thiên thần mới này cũng xuất hiện một cách kì lạ đây đó, họ xuất
hiện trước mặt chúng ta trong cùng những tình huống đời sống giống như những
thiên thần xưa, và trên thực tế, thật dễ nhận ra họ nếu họ muốn, nếu họ không
che giấu những gì họ mang trong bản thân, thật dễ dàng vì như thể họ đang bước
vào sự tồn tại của chúng ta với một nhịp độ khác, một nhịp điệu khác, một giai
điệu khác so với nhịp độ chúng ta đang bước tới, chúng ta, những người
đang vật lộn và lang thang chốn hồng trần ở đây, hơn nữa, chúng ta thậm chí còn
không thể chắc chắn rằng những thiên thần mới này đến từ một nơi nào đó trên
cao kia, bởi vì chắc gần như không
còn gì ở trên đó nữa, như thể chính nó
cũng vậy – cùng với những thiên thần xưa – đã nhường chỗ cho một NƠI NÀO ĐÓ vĩnh hằng, nơi mà
giờ đây chỉ còn những công trình điên rồ của Elon Musk của cái thế giới này thiết lập không
gian và thời gian, và từ đó, có thể thấy rằng trong bạn vẫn chỉ nhìn thấy và nghe
thấy một ông già trước mặt, nói bằng thứ
ngôn
ngữ ít ai biết đến của mình nhân dịp nhận Giải Nobel Văn học, một ông già tất
nhiên đang đi đi lại lại không thay đổi và trong chính căn phòng tháp thiếu sưởi ấm này, giữa những vách gỗ vân sam Na Uy, bước đi loanh quanh, chính là tôi, người
lúc này đang bước nhanh hơn như thể muốn bày tỏ rằng những suy nghĩ của mình về
những thiên thần mới này cần một kiểu bước chân khác và một loại tốc độ khác so với người
đang nghĩ về họ, và thực sự, lúc này khi tôi bước nhanh hơn, tôi chợt nhận ra rằng
những thiên thần mới này không chỉ không có cánh mà họ còn không có thông điệp
gì, không có gì cả, họ chỉ ở đây giữa chúng ta trong những bộ quần áo giản dị thường ngày, không thể
nhận ra nếu họ muốn, nhưng nếu họ muốn được nhận ra, thì họ sẽ chọn một trong số
chúng ta, họ bước
đến, và rồi đột nhiên, chỉ
trong một khoảnh khắc, cườm thủy tinh thể bong khỏi mắt chúng ta, mảng bám động mạch rơi khỏi tim chúng ta,
nghĩa là một cuộc gặp gỡ diễn ra, chúng ta bị sốc, ôi trời ơi, đó là một thiên
thần, họ đang đối diện trước chúng ta, chỉ có điều... họ không truyền đạt bất cứ
điều gì, không có lời nào gợn sóng xung quanh họ, không có ánh sáng nào để họ
có thể thì thầm vào tai chúng ta, tức là họ không nói một lời nào, như thể họ
đã câm lặng, họ chỉ đứng đó và nhìn chúng ta, họ đang tìm kiếm ánh mắt của
chúng ta, và trong cuộc tìm kiếm này có một lời cầu xin chúng ta hãy nhìn vào mắt
họ, để chính chúng ta có thể truyền tải một thông điệp cho họ, chỉ có điều thật
không may, chúng ta không có thông điệp nào để truyền tải, bởi vì chúng ta chỉ
có thể nói để đáp lại ánh mắt khẩn cầu ấy những gì từng là lời đáp, khi vẫn còn
một câu hỏi, nhưng giờ đây không còn câu hỏi hay câu trả lời nào nữa, vậy thì, đây là cuộc
gặp gỡ kiểu gì, đây là cảnh tượng thiên đường và trần thế kiểu gì, họ chỉ đứng
đó trước mặt chúng ta, nhìn chúng ta, và chúng ta cũng chỉ đứng đó nhìn họ, và
nếu họ hiểu được điều gì từ toàn bộ sự việc này, thì chắc chắn chúng ta không
hiểu chuyện
gì đang diễn ra, người câm nói với người điếc, người điếc nói với người câm,
làm sao có thể có một cuộc trò chuyện, làm sao có sự hiểu biết nào, chưa kể đến
sự hiện diện thiêng liêng, nhưng
rồi đột nhiên có
điều gì gì đó trở nên rõ ràng với mỗi tâm hồn cô
đơn, mệt mỏi, đau buồn và nhạy cảm, như đang xảy ra ngay lúc này – nếu tôi có
thể kể mình trong số đó – tôi, người dường như đang đứng đây trước mặt các bạn
và nói vào micro, nhưng thực ra tôi
đang
ở trong phòng tháp, như các bạn biết đấy, giữa những tấm ván vân sam Na Uy rẻ
tiền và cách nhiệt tồi tệ, nhận ra rằng những thiên thần mới này trong sự câm lặng
vô hạn của họ có lẽ không còn là thiên thần nữa, mà là những vật hiến tế, vật hiến tế
theo nghĩa nguyên thủy, thiêng liêng của Lời, tôi nhanh chóng rút ống nghe ra,
vì tôi luôn mang nó theo mình, và bây giờ tôi cũng có nó, khi tôi nói từ căn
phòng tháp đó, đi đi lại lại, và rất nhẹ nhàng tôi đặt màng nghe và chuông lên
ngực tất cả các bạn, và ngay lập tức tôi nghe thấy âm thanh của số phận, tôi
nghe thấy số phận của các bạn, và với điều này tôi bước vào một số phận như vậy,
tôi cảm thấy một nhịp đập của số phận như vậy ngay lập tức biến đổi khoảnh khắc
này, nhưng chủ yếu là khoảnh khắc tiếp theo sẽ diễn ra trước mắt tôi, bởi vì
không, khoảnh khắc dường như có thể xảy ra tiếp theo không phải là khoảnh khắc
tiếp theo, một khoảnh khắc hoàn toàn khác xảy ra, khoảnh khắc sốc và sụp đổ ập
xuống tôi, bởi vì ống nghe của tôi phát hiện ra câu chuyện kinh hoàng về những
thiên thần mới đang đứng trước mặt tôi, câu chuyện rằng họ là những sinh vật hiến tế, những sinh vật hiến tế: và không
phải cho chúng ta, mà bởi vì
chúng ta, cho mỗi người chúng ta, bởi
vì
mỗi người chúng ta, những thiên thần không có cánh và những thiên thần không có
thông điệp, và trong khi đó biết rằng có chiến tranh, chiến tranh và chỉ có chiến
tranh, chiến tranh trong tự nhiên, chiến tranh trong xã hội, và cuộc chiến tranh này đang được tiến hành
không chỉ bằng vũ khí, tra tấn, và hủy diệt: tất nhiên, đây là một đầu của cán
cân, nhưng cuộc chiến tranh này
cũng diễn ra ở đầu đối diện của cán cân, bởi vì chỉ cần một lời nói tệ hại là đủ, chỉ cần một lời
nói tệ hại ném vào một trong những
thiên thần mới này, chỉ cần một hành động bất công, thiếu suy nghĩ, thiếu phẩm
giá là đủ, chỉ cần một vết thương về thể xác và tâm hồn, bởi vì khi họ sinh ra,
họ không dành cho điều này, họ không có khả năng tự vệ trước điều này, không có
khả năng tự vệ trước sự nghiền nát, không có khả năng tự vệ trước sự hèn hạ,
trước sự tàn nhẫn cay độc đối với tính vô hại và trong trắng của họ, chỉ cần một
hành động là đủ, nhưng ngay cả một lời tồi tệ cũng đủ để họ bị tổn thương mãi
mãi – điều mà tôi không thể chữa lành ngay
cả bằng một vạn lời, bởi vì nó vượt quá mọi phương thuốc
chữa trị.
II.
Ồ thôi,
nói về thiên thần đủ rồi!
Thay vào đó, hãy nói về phẩm giá con người.
Con người – một sinh vật kì diệu – bạn là ai?
Bạn đã phát minh ra bánh xe, bạn đã phát
minh ra lửa, bạn khám phá ra rằng hợp tác là phương tiện duy nhất để sinh tồn,
bạn đã phát minh ra việc
ăn xác chết để trở
thành chủ nhân của thế
giới dưới quyền cai trị của mình, bạn đã có được một trí thông minh đáng kinh
ngạc, và bộ não của bạn rất lớn, rất nhiều nếp nhăn và rất phức tạp đến nỗi thực
sự nhờ bộ não này, bạn đã có được quyền lực mặc dù còn hạn chế đối với thế giới
này, thế giới cũng do chính bạn đặt tên, dẫn bạn đến những nhận thức mà sau này
hoá ra là không đúng, nhưng chúng đã giúp bạn tiến bộ trong quá trình tiến hoá của mình, và sự tiến bộ của bạn, tiến
triển theo những bước nhảy vọt, đã củng cố giống loài của bạn trên Trái Đất và
khiến nó gia tăng, bạn đã tập hợp thành
từng bầy đàn, bạn xây dựng xã hội, bạn tạo ra nền văn minh, bạn cũng có khả
năng làm nên điều kì diệu là không bị tuyệt chủng, mặc dù khả năng đó hoàn toàn
có thể, nhưng một lần nữa bạn tự đứng trên đôi chân của mình, sau đó, với tư
cách là homo habilis, bạn đã chế tạo công cụ bằng đá
và bạn cũng biết cách sử dụng chúng, sau đó với tư cách là homo erectus, bạn phát hiện ra lửa, và sau đó nhờ một chi tiết nhỏ
giúp bạn khác biệt với loài tinh tinh, đó
là thanh quản và vòm miệng mềm của bạn không chạm vào
nhau – bạn đã có thể tạo ra ngôn ngữ, song song với sự điều chỉnh của trung tâm
ngôn ngữ trong não; bạn đã ngồi xuống với Chúa tể các tầng trời, nếu chúng ta
có thể tin vào những chương im lặng của Cựu Ước, bạn đã ngồi xuống với Ngài, và
những gì Ngài đã chỉ cho bạn từ giữa muôn vật được tạo dựng, bạn đặt tên cho
chúng, và sau đó bạn đã phát minh ra chữ viết, nhưng đến lúc này bạn đã có khả
năng diễn đạt các chuỗi suy nghĩ triết học, trước tiên bạn kết nối các sự kiện,
sau đó bạn tách chúng ra khỏi niềm tin tôn giáo của mình liên quan đến kinh nghiệm của
riêng bạn, bạn đã phát minh ra thời gian, bạn đã chế tạo ra phương tiện và tàu thuyền, bạn đã du hành
đến Vùng Đất Chưa Biết trên trái đất, cướp bóc mọi thứ có thể cướp bóc được, bạn
nhận ra ý nghĩa của việc tập trung sức mạnh và quyền lực của mình, bạn đã lập bản
đồ các thiên thể được cho là không thể tiếp cận, và đến giờ bạn không còn coi Mặt
trời là một vị thần và các vì sao điều khiển số phận nữa, bạn đã phát minh ra,
hay đúng hơn là bạn đã phân loại giới tính, vai trò của đàn ông và đàn bà, và rất
muộn, mặc dù không bao giờ là quá muộn, bạn đã khám phá ra tình yêu dành cho họ,
bạn đã phát minh ra cảm xúc, sự đồng cảm, các thứ bậc khác nhau của việc tiếp
thu kiến thức, và cuối cùng bạn đã bay vào không gian, bỏ lại đàn chim, rồi bạn bay
lên Mặt trăng, và bạn đã để lại những bước chân
đầu
tiên của mình ở đó, bạn đã phát minh ra những vũ khí có thể thổi bay toàn bộ
Trái đất nhiều lần, và sau đó bạn đã phát minh ra khoa học ở mức độ linh hoạt đến
mức ngày mai được ưu tiên hơn và làm xấu
hổ những gì chỉ có thể tưởng tượng ngày hôm nay, và bạn đã tạo ra nghệ thuật từ
những bức vẽ trong hang động cho đến Bữa tiệc li của Leonardo, từ sự mê hoặc kì diệu của nhịp điệu cho đến Johann Sebastian Bach, cuối cùng, theo tiến
trình lịch sử, bạn đột nhiên bắt đầu không
còn tin vào bất cứ điều gì nữa, và với sự trợ của những thiết bị do chính bạn
phát minh ra, đang phá
hủy trí tưởng tượng, giờ đây bạn chỉ còn lại trí nhớ ngắn hạn, và vì vậy bạn đã
từ bỏ quyền sở hữu cao quý và phổ biến về tri thức, cái đẹp và điều thiện đạo
đức, và giờ bạn đã sẵn sàng bước ra vùng đất bằng phẳng, nơi đôi chân bạn sẽ
lún sâu xuống, đừng di chuyển,
bạn sắp lên sao Hỏa sao? thay vào đó: đừng di chuyển, bởi vì bùn này sẽ nuốt chửng
bạn, đầm lầy sẽ kéo bạn
xuống, nhưng nó thật đẹp, con đường tiến hóa của bạn thật ngoạn mục, chỉ tiếc
là: không thể đảo ngược.
III.
Thôi, nói về phẩm giá con người thế là đủ.
Hãy nói về sự nổi loạn.
Tôi đã cố gắng đề cập đến vấn đề này
trong cuốn sách The World Goes On (Thế
giới đang chuyển động) của mình,
nhưng vì tôi không hài lòng với những gì mình viết, tôi sẽ thử lại. Vào đầu những
năm 1990, trong một buổi chiều ẩm ướt, oi bức, tôi đang ở Berlin, đang đợi tàu ở một tầng thấp của một ga tàu điện ngầm.
Các
sân ga, giống như mọi nơi khác trong mạng lưới tàu điện ngầm, được thiết kế sao
cho ngay phía trước theo hướng di
chuyển, vài mét trước khi tàu tiếp
tục vào đường hầm, có gắn một tấm gương lớn được trang bị đèn tín hiệu, một phần
để hỗ trợ người soát vé nhìn thấy toàn bộ chiều dài của tàu và một phần để chỉ
ra chính xác vị trí, chính xác đến từng centimet, phần đầu tàu phải dừng lại tạm
thời trong khi hành khách xuống và lên tàu sau khi đã đến nơi. Gương dĩ nhiên
là dành cho người lái tàu, trong khi đèn đỏ chỉ ra điểm vuông góc với đường ray
nơi người lái tàu phải dừng lại để hành khách lên và xuống tàu an toàn, và khi
đèn chuyển sang màu xanh, tàu U-Bahn có thể tiếp tục đi trong đường hầm – trong
trường hợp của tôi – hướng tới Ruhleben. Ngoài một biển báo cảnh báo về sự cần
thiết phải tránh tai nạn và tuân thủ các quy tắc, một vạch vàng dày rất dễ thấy
đã được sơn trên mặt đất trước cột đèn tín hiệu và lối vào đường hầm, vạch vàng
này có tác dụng chỉ ra rằng ngay cả khi sân ga tiếp tục thêm vài mét nữa, như
đã xảy ra, hành khách không được bước qua vạch vàng này trong bất kì trường hợp
nào để ở đây – như ở mọi nhà ga – có một
khu vực bị nghiêm cấm nằm giữa vạch vàng này và lối vào đường hầm, nơi một người,
cụ thể là hành khách, không được phép, trong bất kì trường hợp nào, đặt chân
vào. Tôi đợi chuyến tàu
đến từ hướng Kreuzberg, và đột nhiên tôi nhận thấy có người ở trong khu vực cấm
này. Đó là một gã vô gia cư, lưng còng xuống vì đau đớn, mặt hơi nghiêng về
phía chúng tôi, như thể đang trông chờ sự thông cảm của ai đó, đang cố gắng tiểu
lên lối đi phía trên đường ray. Rõ ràng việc tiểu tiện này gây ra cho gã rất
nhiều đau khổ, vì gã chỉ có thể tự giải thoát ra từng giọt một. Đến lúc nhận ra
chuyện gì đang xảy ra ở đây, những người xung quanh tôi cũng nhận ra một sự cố
bất thường nào đó đang làm xáo trộn buổi chiều hôm đó. Đột nhiên, và gần như rõ
ràng, ý kiến chung được nhất trí rằng đây là một vụ công xúc tu sỉ, và nó phải
được chấm dứt ngay lập tức,
gã vô gia cư này phải bị tống đi, và hiệu lực của vạch vàng phải được khôi phục.
Sẽ không có vấn đề gì nếu gã vô gia cư có thể làm xong việc, và lê mình vào giữa chúng tôi, rồi
leo lên các bậc thang lên tầng trên, nhưng gã lang thang này đã không hoàn
thành, nhưng có lẽ là vì hắn không
thể, và điều khiến sự việc này trở nên rắc rối hơn nữa là trên sân ga đối diện
đột nhiên xuất hiện một cảnh sát, người này hét lớn từ bên kia, gần như đối diện
với gã lang thang, yêu cầu cho kẻ vi phạm lập tức phải dừng hanh vi gã đang làm. Những ga tàu
điện ngầm này – một
lần nữa, vì lí do an ninh – được xây dựng sao cho các đoàn tàu chạy ngược chiều
nhau, đến một điểm dừng nhất định rồi tiếp tục đi tiếp, được tách biệt với
nhau, cụ thể là hai đường ray tàu được đặt trong một rãnh rộng khoảng mười mét
và sâu gần một mét, do đó, nếu một hành khách đổi ý hành trình của mình, muốn
đi từ sân ga phục vụ các đoàn tàu đến theo một hướng đến sân ga khác, nơi các
đoàn tàu đi theo hướng khác, thì hành khách này chỉ có thể bằng cách đi bộ đến
cầu thang ở cuối sân ga, leo lên cầu thang tầng trên, rồi đi vòng qua hành lang phía trên
đường ray sang phía bên kia, sau đó đi xuống cầu thang, và chỉ bằng cách này,
người ấy mới có thể đến sân ga của đoàn tàu đang chạy theo hướng mà người ấy đột
nhiên mong muốn, nhưng
tất nhiên người ấy không bao giờ có thể nhảy xuống rãnh có hai đường ray rồi đi
qua mười mét đó bằng cách vượt qua những
đường
ray, không, điều này, nếu có thể phân biệt các mức độ cấm, thậm chí còn bị cấm nghiêm ngặt hơn, cũng như tất
nhiên là đe dọa đến tính mạng, và tôi bày tỏ sự thật hiển nhiên này chi tiết
như vậy, bởi vì viên cảnh sát đã nói ở trên tỏ ra tức giận – phần nào giữ được phẩm giá của
mình, nhưng dùng thẩm quyền và
sự phán đoán tốt của mình – chắc chắn sẽ phải đi theo cùng một tuyến đường, cụ
thể là ông ta sẽ phải đi về phía cầu thang dẫn đến lối đi phía trên ở sân ga
bên kia, sau đó, leo lên những cầu thang này, và sẽ phải chạy sang phía bên này
và đi xuống cầu thang, cuối cùng đến nơi chúng tôi đang đứng.
Đây là tiền lệ, buộc viên cảnh sát cũng
phải làm theo, bởi vì ngay từ lúc nhận ra gã vô gia cư, ông đã hét lên vài lần
bằng giọng khàn khàn,
nhưng vô ích vì gã lang thang không hề
để ý đến ông, đầu hắn vẫn ngoảnh về phía chúng tôi, nhìn chúng tôi với vẻ mặt phản
ánh cơn đau không hề thay đổi,
trong khi những giọt nước tiểu vẫn tiếp tục rơi xuống đường ray: đây thực sự là một sự xúc phạm vô song đối với các quy định,
trật tự, luật pháp và lẽ thường, cụ thể là gã lang thang không để ý đến viên cảnh
sát, hoặc theo cách lí giải có thể có của viên cảnh sát:
gã giả vờ điếc, khiến viên cảnh sát này đặc biệt bị tổn thương.
Dĩ nhiên, gã vô gia cư cũng đã tính đến cả viên cảnh
sát, vì lợi thế đau đớn của đối phương, viên cảnh sát sẽ nhanh hơn gã, và gã
không thể nào – dù là ý muốn của gã hay ý muốn của tự nhiên – chấm dứt kịp thời
hành động bị cấm đoán này. Do đó, khi gã nhận thấy viên cảnh sát đang vội vã,
thực ra là sẽ chạy
dọc theo sân ga bên kia để lên tầng
trên cùng xa xa ở đầu cầu thang, băng qua lan can, rồi chạy xuống sang phía
chúng tôi để véo tai gã, trong khi
gã thang thang rên rỉ vô cùng
khó khăn, bỏ dở việc đang làm và bắt đầu chạy về phía chúng tôi để đến cầu
thang gần nhất hướng lên trên càng nhanh càng tốt, rồi sẽ biến mất ở đâu đó.
Đó là một cuộc chạy đua kinh hoàng. Mọi
người trên sân ga của chúng tôi đều im bặt khi gã vô gia cư bắt đầu chạy, bởi
vì rõ ràng là cuộc chạy trốn này sẽ chẳng dẫn đến đâu, bởi vì gã vô gia cư già nua bắt đầu run rẩy toàn
thân; đôi chân và bộ não đang điều khiển đôi chân của gã dường như không còn hoạt
động bình thường nữa, nên trong khi thấy sát viên cảnh sát bên kia đang tiến tới
lối đi phía trên – từng mét một! –
thì
gã vô gia cư, trên sân ga của chúng tôi, chỉ có thể tiến lên khó nhọc từng cm một trong sự căng thẳng khủng khiếp với cánh tay vung vẩy, trong khi
viên cảnh sát cũng vậy, ông cũng đang nhìn vào mười mét ngăn cách họ. Mười mét
này là một cực hình đối với viên cảnh sát, một sự cản trở trừng phạt không đáng
có, trong khi ở phía chúng tôi, cũng mười mét này đồng nghĩa với sự trì hoãn, một
sự trì hoãn tự nó mang theo sự khích lệ
vô nghĩa rằng gã vô gia cư vẫn có thể trốn
tránh
được sự buộc tội hiển nhiên.
Nhìn vấn đề từ góc độ của viên cảnh sát, chính ông ta đại diện cho luật pháp,
Cái Thiện được tất cả mọi người chấp thuận và do đó là bắt buộc đối với kẻ vi
phạm, kẻ chối bỏ lí trí này bị tất cả phán xét – nói cách khác, là Cái Ác.
Vâng, viên cảnh sát đại diện cho Cái Thiện bắt buộc, nhưng trong khoảnh khắc
này, ông ta bất lực, và trong tôi, khi đã chứng kiến cuộc chạy đua vô nhân đạo
này giữa mét đấu với xentimét, thì sự chú ý của tôi đột nhiên bị trì hoãn, và khoảnh
khắc đó dừng lại. Khoảnh khắc đó dừng
lại đúng lúc họ nhận ra nhau: viên cảnh sát tốt lành nhận ra rằng gã vô gia cư
xấu xa đang tiểu tiện trong
vùng cấm, còn gã vô gia cư thấy
rằng, thật không may cho gã vì viên cảnh sát tốt lành đã nhìn thấy những gì
gã làm. Chỉ có mười mét giữa họ,
viên cảnh sát chộp lấy dùi cui, và trước khi bắt đầu chạy, ông dừng lại, ôi, có
một sức mạnh vô hạn nhưng bị đình trệ trong chuyển động này, các cơ bắp của ông căng cứng, như sẵn sàng nhảy, bởi vì
trong khoảnh khắc đó lóe lên trong ông: điều gì sẽ xảy ra nếu ông chỉ cần nhảy
qua mười mét đó, trong khi ở phía bên kia, được
mười
mét đó bảo vệ, gã vô gia cư đang phải mò mẫm và run rẩy trong sự bất lực gấp
đôi của mình. Ở đây sự chú ý của tôi dừng lại, và nó vẫn ở đó cho đến ngày hôm
nay khi tôi nghĩ về bức tranh đó, khoảnh khắc khi viên cảnh sát giận dữ, vung
dùi cui, bắt đầu chạy đến chỗ gã vô
gia cư, tức là khoảnh khắc khi Cái Thiện bắt buộc lên đường chạy về phía Cái Ác,
một lần nữa lại xuất hiện dưới lốt một gã vô gia cư, hơn nữa, không chỉ đơn giản
là về phía Cái Ác, mà, vì ý thức và ý định của hành động này, về phía chính Cái
Ác, và theo cách này, trong bức tranh đông cứng này, tôi liên tục nhìn thấy, và
tôi vẫn nhìn thấy ngày hôm nay, ngưới đang vội vã trên sân ga xa, những bước
chân nhanh nhẹn đưa ông tiến về phía trước từng mét một, và, về phía chúng tôi,
tôi thấy kẻ có tội, rên rỉ, run rẩy, bất lực, gần như tê liệt vì đau đớn, vì ai
biết còn bao nhiêu giọt nước tiểu trong cơ thể đó, tiến lên từng cm một – vâng,
tôi thấy rằng trong cuộc thi này, Cái Thiện không bao giờ bắt kịp Cái Ác chỉ trong mười mét, bởi
vì mười mét đó không bao giờ có thể vượt qua, và ngay cả viên cảnh sát này có
thể tóm được gã vô gia cư này cùng lúc chiếc tàu điện đang lao vào ga, trong mắt tôi, mười mét đó vẫn là vĩnh cửu và không thể
khuất phục, bởi vì sự chú ý của tôi chỉ nhận thấy rằng Cái Thiện sẽ không bao
giờ bắt kịp Cái Ác đang vùng vẫy, bởi vì giữa Thiện và Ác không hề có hi vọng, hoàn toàn
không có.
Chuyến tàu đưa tôi về phía Ruhleben, và tôi không
thể ngăn được sự run rẩy và quằn quại đó ra khỏi đầu mình, và đột nhiên, như một
tia chớp, câu hỏi lóe lên trong tôi: khi
nào gã vô lại
này và tất cả những kẻ bị ruồng bỏ khác sẽ nổi loạn – và cuộc nổi loạn này sẽ
diễn ra như thế nào. Có lẽ sẽ đẫm máu, có lẽ sẽ tàn bạo, có lẽ sẽ khủng khiếp,
như khi một con người này tàn
sát một con người kia – rồi tôi gạt bỏ suy nghĩ đó, bởi vì tôi tự nhủ, ôi không,
cuộc nổi loạn mà tôi đang nghĩ đến sẽ khác, bởi vì cuộc nổi loạn đó sẽ liên
quan đến toàn thể.
Thưa quý vị, mọi cuộc nổi loạn đều liên
quan đến toàn thể, và giờ đây, khi tôi đứng trước mặt quý vị, và những bước
chân của tôi bắt đầu chậm lại trong
căn phòng trên tháp ở nhà, chuyến đi Berlin một lần trên tàu điện ngầm về phía
Ruhleben lại lóe lên trong tôi. Từng ga tàu sáng đèn nối tiếp nhau, tôi không
xuống ga nào cả, kể từ đó tôi cứ đi tàu điện xuyên qua đường hầm, vì chẳng có
điểm dừng nào để xuống, tôi chỉ đơn giản ngắm nhìn những ga tàu lướt qua, và
tôi cảm thấy mình đã suy nghĩ về mọi thứ, đã nói hết những gì tôi nghĩ về sự nổi
loạn, về phẩm giá con người, về các thiên thần, và vâng, có lẽ là tất cả mọi thứ
– thậm chí cả về hi
vọng.
___
Hà Vũ Trọng dịch theo bản dịch
tiếng Anh của Ottilie Mulzet
Nguồn từ trang của Hội đồng Nobel, Diễn văn Nobel Văn học 2025 công bố ngày 8.12.2025

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét