Pages - Menu

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

Chú bé câm đi tìm tiếng nói

Cố Thành 顾城
Hà Vũ Trọng dịch



Về nhà thơ Cố Thành (1956 - 1993)
Ngày 8 tháng 10 năm 1993, Cố Thành, một trong những nhà thơ đương đại lẫy lừng nhất của Trung quốc, đã chém chết vợ rồi treo cổ tự tử. Cái chết của Cố Thành kết liễu một sự nghiệp văn học trỗi dậy từ đống tro tàn cuộc Cách mạng Văn hoá và đánh dấu sự thức tỉnh của chủ nghĩa trữ tình ở Trung quốc trong thập niên 1980. 

     Cố Thành (sinh năm 1956) là một trong những cây bút cách tân của nhóm "Mông lung thi", xuất hiện ngay những năm đầu thời hậu-Mao sau 1976. Sức quyến rủ và tài hùng biện của Cố Thành đã thu hút và làm say mê biết bao độc giả Trung quốc vào đầu những năm 1980. Vai trò của anh như là mũi nhọn cuộc vận động dân chủ ở Trung quốc cũng đã thu hút sự chú í của các học giả phương Tây và được biết tới nhiều ở châu Âu nhất là ở Ðức (cùng với hai nhà thơ quan trọng khác là Bắc Ðảo [định cư ở Pháp] và Dương Luyện [định cư ở New Zealand]). Trong thập niên 90, sau biến cố Thiên an môn ngày 4 tháng 6/1989, phong trào vận động dân chủ bị dập tắt tàn bạo, chủ nghĩa trữ tình của thời hậu-Mao ngày càng nhường chỗ cho cảm quan rã rời và thương mại hoá: truyền hình thay thế đại tự báo và điện thoại di động thay thế thơ. Vào biến cố thảm sát Thiên an môn, Cố Thành đang sống ở nước ngoài (anh rời Trung quốc năm 1987). Năm 1968, Cố Thành bị theo gia đình "hạ phóng" xuống nông thôn và đi chăn heo. Chính khung cảnh tự nhiên này đã đánh thức tâm hồn thơ của Cố Thành và sau anh cũng chọn lối sống này khi nhập cư và kết thúc cuộc đời ở New Zealand, nơi anh sống với tự nhiên theo kiểu Henry David Thoreau cùng với vợ, tình nhân và con trai - một dạng thức tự "hạ phóng"

     Tập thơ đầu của Cố Thành Ðôi tròng mắt đen (Hắc nhãn tình) chỉ được phép xuất bản năm 1986. Sau cái chết của Cố Thành, năm 1995, cha anh là Cố Công đã biên tập và xuất bản ở Thượng hải cuốn Cố Thành toàn biên dày trên 800 trang. Trong những năm cuối đời đi tìm một thi pháp mới, Cố Thành đã thử nghiệm ngôn ngữ một cách triệt để, tạo nên những ẩn ngữ và mê ngữ khó nắm bắt, điển hình là tập thơ lạ lùng Quỷ tiến thành (Quỷ vào thành phố). Riêng cuốn "tiểu thuyết" Anh nhi mà anh viết cùng với vợ, được xuất bản sau khi chết, đã được dịch sang tiếng Anh (The Kingdom of Daughters [Nữ nhi quốc]), kể về cuộc đời của anh ở ngoài Trung quốc, dựa trên cuộc tình của anh với người phụ nữ thứ hai trong đời là Anh nhi, việc cô khước từ anh sau đó cũng như tình cảm không nhạt phai của anh đối với người vợ tri kỉ, được viết bằng một ngôn ngữ đầy trí tưởng tượng của thể loại cổ tích, dan dệt nên một thế giới huyễn ảo độc đáo. 
     Về hiện tượng cái chết của Cố Thành cũng như cái chết của những nhà thơ trẻ khác của Trung quốc trong thập niên 1990, theo nhà nữ phê bình và dịch giả Lí Hiệp nói trong phần dẫn nhập cuốn Thi pháp về cái chết [The Poetics of Death] là nên nhìn trong bối cảnh bất an chung về văn hoá và sự vỡ mộng gia tăng với lại cái viễn ảnh mĩ học mới trong xã hội Trung quốc.


Bạn có thể làm thơ và rồi bạn lại không thể làm được. Thơ đi vào đời theo thể điệu riêng của nó, không phải bằng ý chí của nhà thơ.

Nhà thơ rất giống với gã thợ săn trong chuyện ngụ ngôn kia, hắn ngủ lim dim dưới tàng cây chờ có con thỏ chạy đâm đầu vào thân cây vỡ sọ ra. Chờ thật lâu nhà thơ phát hiện hắn mới chính là con thỏ.

Cuộc Thơ và cuộc Ðời là một thể, nhưng mỗi cuộc đi theo nẻo riêng của nó. Những bài thơ đầu của tôi làm về diễn biến của đời thường. Sau đó, chúng đánh vòng để hướng tới tự thân cuộc Ðời. Ðời sống thường ngày là sự Hỗn-mang, vô trách nhiệm. Nó ném tất cả mọi thứ cùng lúc lên ta, nó gieo vãi những mảnh vụn của Ðời xuống lòng sông. Những đốm vàng li ti loé dự báo cho những khả thể. Công việc của nhà thơ là góp nhặt những mảnh vụn của cuộc sống từ đời thường rồi phục hồi chúng về lại với cái tính toàn thể tự nhiên của chúng. "Chúng ta sáng tạo nên những gì mà kẻ khác đã hoàn thiện từ rất lâu rồi", sau này tôi có viết như vậy trong bài thơ nhan đề "Cái bàn".

Tôi bắt đầu viết thơ một cách tự phát. Lúc bạn nhìn thấy sương sớm mai hay nghe tiếng côn trùng ca hát. Ðời sẽ tự phát toả ra thanh âm của riêng nó. Ðối với tôi, thanh âm này dường ầm ĩ dễ sợ với mình ở tuổi 12 phải đi sống ở nông thôn. Ngôi làng tôi được gửi tới có tên là Hoả đạo (Con đường lửa). Chẳng có gì khác ngoài đất vàng và rơm rạ. Nhưng khi mùa xuân đến, tất cả biến đổi. Bầu trời bắt đầu xôn xao, rồi một đàn chim bay trên đầu. Tôi chẳng thể nào quên được đàn chim sướng vui ấy sà xuống như dòng mưa lũ bao quanh tôi. Muôn dặm chập chùng tràn ngập tiếng kêu sướng vui của chúng.

Có lẽ đấy là chỗ khởi đầu cuộc sáng tạo thơ tôi. Tôi đã sống tại đó nhiều năm trời. Tôi đã cảm thấy Ðời nặng tình với thiên nhiên. Bất kể con người trần gian này đối xử với bạn ra sao đi nữa, Xuân mãi cứ đến, chim trên trời và ngàn hoa nở rộ trên mặt đất sẽ mãi ở đó để trò chuyện với bạn. Còn bạn hẳn sẽ muốn đáp lời. Trong những khoảnh khắc vô cùng tuyệt vời ấy bạn còn có thể nghe được tiếng thì thầm trò chuyện ngay giữa các tạo vật. Và bạn cũng dự phần vào cuộc chuyện trò ấy. Bạn là người duy nhất có thể nghe thấy cuộc chuyện trò này và nó ban cho bạn một nỗi hân hoan mầu nhiệm.

Tôi viết thơ lên bờ sông bằng nhánh cây. Tôi đã viết bài "Huyền tưởng khúc gửi Ðời". Tôi ca ngợi thế giới này với lời ca vo ve của ong, vũ điệu bươm bướm, và thi ca của các loài hoa. Tôi tẩm hi vọng vào với hương hoa.

Thời băng qua cõi hương Xuân, tôi thấy lác đác bóng người đang khuất dạng khỏi mặt đất. Khi bước vào hạ huyền lần nữa vào tuổi 14, tôi linh cảm có gì đó đang đi tới. Mặt trời cũng đã lặn, nhưng đời tôi hãy còn sáng láng. Cái sáng láng ấy kéo dài suốt đêm thâu. Ðàn gà trống khệnh khạng trên nóc đụn rơm. Bất chợt mặt trời ló dạng. Dòng sông ấm lên.

Tôi đi dọc bờ sông cát, trong khi đang chăn heo. Tôi cảm thấy mọi sự đang đổi thay, như thể mình đang bước đi trên hàng phím dương cầm, mỗi bước chân là mỗi nốt nhạc phát ra bất chợt. Tôi đứng lặng. Gió dâng cát choàng lấy tôi. Một cánh chim thiêm thiếp trên nền trời, từ từ sa xuống, hốt nhiên nó bừng tỉnh khi gần sát mặt nước. Tôi khẽ rùng mình, như thể cũng bừng tỉnh và đang toả lan như những áng mây. Lúc con sông liếm bờ bên kia, tôi cảm thấy như nó cũng liếm láp quả tim tôi, như bàn tay mơn man đầu gối tôi đã bị chấn thương. Tất cả là tôi. Ðôi cánh chim trong suốt và du dương mơn trớn bầu trời. Tôi đã viết,

Cứ bồng trôi
lung linh khắp trời xanh
để thác ánh dương
nhuộm thẫm da tôi...

đêm đen như sơn lũng
ánh ngày như chóp đỉnh
ngủ đi! Nhắm mắt lại
thế giới cùng ta chẳng còn gì chung...

ánh dương nung địa cầu
như mẩu bánh nướng
tôi lê những dấu chân mình
như những ấn tích khắp trái đất
thế giới tan
vào đời tôi từ đó

rồi tôi muốn hát lên
bài ca của loài người
sẽ cộng hưởng đất trời
tới ngàn năm sau nữa

Tôi khởi đầu viết thơ bởi tôi cảm thấy có sự cộng hưởng giữa Thiên-nhiên và tôi. Tiếng nói của thiên nhiên trở thành Ngôn-ngữ trong trái tim tôi. Ðó chính là niềm hạnh phúc. Nhưng vào thời điểm ấy xuất bản thơ tôi là điều không thể.

Tôi trở về thành phố ở tuổi 17. Tôi thấy người thật đông. Tôi không biết cách nói chuyện với họ. Ðiều này khiến tôi bối rối. Tất cả họ nói cùng một thứ tiếng - như thể đấy chẳng phải họ nói mà như có con ma nói thay cho họ. Còn tôi nói một cách khác, họ không hiểu tôi. Thành phố như một cỗ máy lớn, một cái đồng hồ, từng phút từng giây ban ra những mệnh lệnh phải phục tùng. Tôi không thể nào tự thích nghi với nó. Tôi leo lên mái nhà để đọc sách (lúc đó chỉ có một vài cuốn ta có thể đọc được). Tôi nghe thấy nhiều tiếng nói khác nhau trong sách vở, chúng an ủi tôi. Federico Garcia Lorca có nói: "Chú bé câm đi tìm tiếng nói của mình, tiếng nói mà vua dế đã đánh cắp." Tôi khởi đầu đi tìm tiếng nói của mình đã bị đánh cắp. Tôi kết bạn, cũng như đụng vào những bức tường và những nấm mồ. Tôi muốn nắm bắt điều gì đó trong thế giới con người để tránh sự hỗn loạn mà cuộc Ðời gây ra. Giống như nhiều người khác, tôi rút lui vào cõi sách vở, với hi vọng có thể đương đầu được với hiện thực bằng tri thức và lịch sử. Tôi bắt đầu nói như sách. Tôi dùng sách để đẩy lui những bức tường.

Con người và tâm hồn của họ thực là khác nhau trong sách vở. Chúng ban cho tôi sự tự tin, - tới độ ngạc nhiên - chúng mơ hồ nảy nở thành một nhiệt tình mơ hồ nhưng hăng say vì những lí tưởng xã hội kéo dài tới hai hoặc ba năm. Tôi tin rằng mỗi con người đều sống trong cơn ác mộng của mình, và rồi chỉ một câu nói cũng có thể làm thức tỉnh hắn và làm cho thế giới hoàn toàn khác đi. Trong cơn ác mộng lạ lẫm đó thì sự thức tỉnh là chính giấc mơ. Tôi đã cho rằng người ta cần tìm ra một âm thanh mới, một tiếng gọi hoàn toàn khác lạ. Tôi đã ấp ủ niềm thiết tha này cho đến cuối năm 1979 khi chứng kiến vô số mồ mả của Vệ binh Ðỏ nằm giữa đám cây hoang cỏ dại ở tỉnh Tứ xuyên. Và rồi tôi nhận ra rằng biết bao người cũng đã từng bị kích động ngây ngô như tôi rồi. Tiếng hô hào ban đầu và dòng máu ấy là đẹp, nhưng những gì cuối cùng hiện ra là vòm Trời vô tình - "Thiên đạo vô tình". Ðấy là cách mà thế giới loài người nghiền nát nỗi hăng say của tôi. Trong bài thơ "Vĩnh biệt mộ địa" tôi có viết:

Tôi đến đó để mến thương
để tìm những hồn thiết thân
đồng trang lứa tôi.

Năm năm trời, tôi bồng trôi trong cõi mộng và tình iêu. Khi giong buồm trên dòng Trường giang, nhìn những mái ngói đen sạm dưới vầng trăng, nghe tiếng mưa rơi ngoài hiên, tôi cảm thấy cuộc đời tôi bị phân li và được tái hợp.

Giờ tôi biết tôi có hai cuộc đời
một còn dang dở
một chỉ mới khởi đầu

Cuộc đời này sẽ phải là cuộc đời hoàn toàn mới.

Nàng chưa từng thấy bóng mây
Mắt nàng màu trời trong veo

Thời kì này tôi vẫn muốn biến mộng tưởng thành hiện thực. Tôi tiếp tục viết. Ðôi khi tôi có thể làm đến hai mươi hoặc ba mươi bài thơ trong một ngày. Trong tâm tưởng tôi tập diễn một cuộc tranh đấu mang tính ám thị với hiện thực.

Tôi đã thất bại và cũng thắng. Nỗ lực của tôi kết thành một tập thơ và một cuộc hôn nhân. Vợ chồng tôi sống trong một căn phòng nhỏ chỉ thấy một ô trời bé xíu - vẫn là nền trời men lam phương Ðông vô tình mà tôi không thể nào thôi nhìn.

Người Trung quốc có một loại minh triết thiên bẩm khiến họ nhìn thấy cái ảm đạm của vũ trụ ngay từ thuở sơ khai, cái thuở ban đầu đất tách ra khỏi các tầng trời. Con người bé nhỏ quá đỗi nếu sánh với vũ trụ, chỉ như một vốc nước trong đại dương, vô vọng và cô thế. Ðây là í của Lão tử khi ông nói: "Thiên địa bất nhân", "xem tạo vật như đồ chó rơm". Thừa nhận mình thất bại trước Vũ-trụ, con người đại thể có hai cách sinh tồn. Một là thiết lập nên một trật tự tự túc sinh tồn để giữ lấy hình thức, theo cách Khổng tử: "Chớ phạm luật" (bất du củ), kính Trời dẫu biết rằng Trời xa vời vợi. Cách khác, cách mà Trang tử và thiền sư Hàn San sử dụng: "Tránh nhân thế mà hoà mình vào với tự nhiên" (Tại nhân thế chi ngoại, dữ tự nhiên đồng nhất).

Tôi có đọc thiên "Luận về sự bình đẳng của vạn vật" ("Tề vật luận") của Trang tử. Trang tử có một thị kiến rất thú vị về thế giới. Ông nhìn Văn-hoá từ nhãn quan của Tự-nhiên: "Nhìn dưới ánh sáng của Ðạo, sự vật chẳng sang cũng chẳng hèn" (Dĩ đạo quan chi, vật vô quý tiện). Như vậy tất cả những tiêu chuẩn cao-thấp, trên-dưới đều thay đổi. Trang tử dường như đã kế tục tư tưởng vô vi(không cố làm) của Lão tử và đã khai triển thành một loạt những khái niệm nhằm "dứt thánh hiền bỏ trí tuệ" (tuyệt thánh khí tri), đốt sáo thiêu đàn (tuyệt vu sắt), "diệt văn chương, "vứt bỏ quy củ"(khí quy củ), "tước đức hạnh", "kềm ngôn ngữ" (tước hạnh, kềm khẩu). Thực ra Trang tử đang khai triển cái cực đối trọng của tư tưởng Ðạo giáo, qua vô vi ông đã tới cái vô bất vi (đừng cố không làm). Lí thuyết "vạn vật bình đẳng" của ông không có í đem con người xuống ngang hàng với vật thể tự nhiên mà để cho con người có thể đạt được sự tự do lớn hơn trong vị thế giữa Trời và Ðất, để mà đùa chơi cùng nhật nguyệt, trời đất, "đằng vân cưỡi nguyệt, tiêu dao ngoài bốn biển." (thừa vân khí, kị nhật nguyệt, du hồ tứ hải chi ngoại).

Cái truyền thống ấy gọi là vô bất vi. Nghĩa là một người có thể không làm gì mà đồng thời không gì không làm, tới một mình, đi một mình tới "chỗ không thể đo lường" (lập hồ bất trắc). Cái truyền thống từ chỗ cao viễn này đã ảnh hưởng tới dòng chảy văn hoá Trung quốc. Từ Ðạo giáo trong triều đại Nguỵ và Tấn (220 - 420, điển hình là nhóm "Thất lâm trúc hiền"- ND). Hoạ pháp "bát mặc" ("toé mực"), tới Tôn Ngộ không đại náo thiên đình tự xưng là "Tề thiên Ðại thánh" (= vị đại thánh ngang bằng trời) - tất cả đều mang dấu tích của trò du hí này. Cho tới Mao Trạch đông và cuộc Ðại Cách mạng Văn hoá cũng phơi bày cái truyền thống "vô bất vi" này như thể có gì đó đột nhiên là hiện thân của toàn thể xã hội. Nó xuất hiện không phải trong quan hệ giữa Con-người với Tự-nhiên, cũng không phải trong quan hệ giữa Con-người với Lịch-sử và Văn-hoá, mà nó đột hiện trong quan hệ giữa cái cá nhân tuyệt đối với vũ trụ. "Kẻ chí nhân không đi theo luật lệ" (chí nhân vô pháp) - "vô luật và vô thần" (vô pháp vô thiên). Những hình thức tồn tại cố hữu đột nhiên tiêu biến.

Nó như một sự bùng nổ để sinh ra một cái hư không, và tôi đã được sinh ra trong cái hư không nhân tạo này, như dạng một con người cổ sơ, và từng bước tôi chập chững đi tới Văn-hoá - sách vở. Càng học tôi càng đau khổ. Trong thiên "Trả lời đế vương" ("Ứng đế vương") Trang tử có kể một ngụ ngôn: Vua Biển Nam là Thúc. Vua Biển Bắc là Hốt và vua ở Giữa là Hỗn-độn (vô hình thức). Thúc và Hốt gặp nhau trên đất của Hỗn-độn và Hỗn-độn ưu đãi họ. Ðể trả ơn, Thúc và Hốt quyết làm cho Hỗn-độn hoàn hảo bằng cách đục lên mình Hỗn-độn bảy cái lỗ. "Mỗi ngày họ đục một lỗ, đến ngày thứ bảy Hỗn-độn chết". Sự ra đời của con người văn hoá có nghĩa là cái chết của con người tự nhiên.

Tôi cũng thấy cái tiến trình ấy phơi bày trong nền điêu khắc phương Tây khi tôi thăm viện Bảo tàng Anh quốc. Những pho tượng Hilạp thời kì đầu nhìn hướng tới phía trước - tràn đầy hi vọng. Sau đó họ bắt đầu cười - như thể họ biết được điều gì. Rồi nụ cười biến mất. Rồi Chúa Kitô xuất hiện - đau đớn và thống khổ. Rồi chủ nghĩa Hiện đại - tuyệt vọng. Tiến trình này minh hoạ sự kiện rằng con người càng biết nhiều thì tuyệt vọng càng lớn. Sự khác biệt giữa Ðông và Tây liên quan tới nỗi tuyệt vọng này là sự tiến hoá từ kì vọng tới tuyệt vọng kéo một thời gian dài trong phương Tây, trong khi đó lại rất ngắn ở phương Ðông. Những hình tượng trong những tượng đồng của Trung quốc bên ngoài nom rất hung dữ với đôi mắt mở lớn nhưng quả tim thuần khiết. Ðôi mắt họ bộc lộ sự kinh ngạc. Nhưng sự kinh ngạc này sớm biến mất. Rồi đến hình tượng Ðức Phật, đôi mắt hướng xuống nhìn thấu suốt. Văn hoá Trung quốc được xây dựng trên nền tảng là duy trì cái hiện trạng (status quo), vì thế không có những kì vọng cũng không có sự cứu độ nào để mà vươn tới cái "bờ bên kia của bể khổ", hoặc có tính ngoan cường như kiểu trẻ nít nào. Hội hoạ truyền thống của giới văn nhân hoạ đều tĩnh mặc như khói sóng và nước. Những vận luật thơ cổ điển đều nghiêm nhặt tới nỗi không chừa chỗ cho sự thao tác. Tất cả đã được hoàn thiện từ rất lâu rồi. Ðiều này để lại cho tôi cái thế ngặt nghèo. Tôi là một người Trung quốc, tôi cũng có riêng cho mình một mảnh trời trí tuệ.

Trong bài thơ "Bóc lựu" tôi đã viết,

Còn sống được bao lâu nữa những tia sáng kia
đôi tay mềm mại khẩn cầu
bài ca bên kia bờ cứu độ
đã nhẹ khẩy mổ vào vũ trụ chúng ta

Mặt khác, tôi là đứa bé bị cắt đứt khỏi truyền thống. Lớn lên trong hoang địa, tôi không thể nào từ bỏ cái lạc thú và tính ngoan cường. Trong bài thơ "Tôi là đứa bé ngoan cường":

Tôi muốn vẽnhững cửa sổ khắp trần gian
để cho những đôi mắt quen bóng tối
học thói quen của ánh sáng

Trong [trường thi] "Khúc diễn hành Berlin" tôi viết:

Cầm con dao con bước lên hàng đầu
Ðeo một bầu nước và tìm xem
Bờ biển Anh quốc của bạn trên bản đồ 

Tôi cũng viết trong "Khúc bất diễn hành Berlin"

Cho một trăm bé thơ
Chờ lễ sinh nhật
Bánh cầm trong tay
Ðồng loạt trở về.

Cái tâm thái này nó đối lập có tính tự nhiên: bạn không thể tồn tại, cũng không thể không tồn tại. Tôi đã lặn xuống tiềm thức, hi vọng tìm ra chính mình. Nhưng mỗi lần có tia sáng loé lên trong mình lại chỉ dẫn tôi đi vào cái bóng tối âm u hơn. Cái nghịch lí tàn bạo này tự nó thể hiện trong văn tự chúng ta viết. Ðối tượng của nhà thơ là Văn-tự, mà kẻ địch cũng là Văn-tự. Văn tự Trung quốc có một lịch sử lâu đời. Như Trời, nó đòi hỏi bạn phục tùng nó thay vì nó phục tùng bạn. Tôi cảm thấy vô phương. Có gì gần như sai trái.

Tôi rán hết sức
nhưng xiết sợi dây thêm chặt mà thôi

Mọi hiện tượng văn hoá diễn hoài những tiết mục trong tôi. Tôi đã trở nên một sân khấu.

Khi tất cả đi quá mức, tôi ngã bệnh. Tôi ngồi trên một gốc cây trơ cụt nhìn xem lũ trẻ đến trường. Tóc đen của chúng đi đằng trước. Máu của trái đất từng giọt từng giọt truyền lên những đoá hồng. Tôi chợt tìm ra lại tình iêu mình đã cảm nhận từ thời thơ ấu. Tôi đã cảm được mùa Xuân. Tôi không nghe thấy chúng lẩm nhẩm công thức hoá. Tôi lấy tay sờ gốc cây trụi lũi đó. Một tia sáng tinh khôi và mát rượi đánh thức tim tôi. Ở đây mọi con chữ đều thất bại.

Vào khoảnh khắc đó, tôi thấy mình - sau khi trở lại thành phố - như một con côn trùng bị ghim lên tấm bảng mà chân còn múa may. Tôi nhận ra lỗi lầm lớn nhất của mình là đã muốn trở thành một nhà thơ, vồ một nắm khái niệm mà bỏ quên chính mình. Tôi đã cố sức tranh đấu. Tôi đã cố ghì chặt. Nhưng giờ đây tôi buông thả. Khi ngồi ở đó, nhìn lưng lũ trẻ trai gái bước đi và những bông hoa hồng đong đưa. Tôi đã thấy một luồng sáng biến điệu giữa lũ trẻ và hoa hồng. Nhưng không có cách để nắm bắt được những biến điệu đó. Khoảnh khắc bạn tiếp giáp với nó, cuộc Ðời thức tỉnh, tia sáng trắng trong thức tỉnh trong hồn bạn. Bạn có thể đọc chính mình hàng trăm hàng ngàn lần. Bạn có thể chọn quá khứ mình, từng bước đi vào làn sương trắng của thơ ấu, băng qua ngày sinh - trước khi bạn nhận ra - và nhìn thấy một ao đầy hoa sen.

Ðó là nơi bạn phát sinh, những cô gái là những tua nhuỵ bao quanh cái đài hoa bao la, còn bạn chỉ là một chiếc cánh tình cờ đã rơi xuống đất, rồi trôi vào bờ và biến thành một chú bé. Rồi bắt đầu tập đi, tập nói, tập học Chữ. Chừng nào bạn không quên cái tia sáng trắng thuần khiết kia, bạn có thể tìm thấy nẻo về mà không cần đến con đường nào.

Ðấy thực sự là bí ẩn của cái mầu nhiệm bị che khuất trong vạn vất. Bất kể là gì đi nữa, cách mạng hay tình iêu, thi ca, mùa Xuân hay lá vàng khô, xuôi hay ngược, bạn chỉ có thể cảm nhận được chân lí của nó trong khoảnh khắc đó.

Hai giọt nước mưa nhỏ xuống đất song đôi. Chúng biến thành những hình trứng lúc sắp giao nhau. Ngay khoảnh khắc chúng sáp nhập vào thành một, bạn phục hồi lại cõi kí ức kia.

Chúng ta có thể nói rằng tất cả những giọt nước mưa đến từ những đám mây và tất cả những đám mây đến từ biển. Ðây là nguồn gốc chung của bạn.

Tôi nghĩ rằng mọi người, trước khi đến với thế giới này trong tư cách là nam hay nữ, đã từng sống như dòng nước của con sông, như chim chóc bay lượn, và như hàng ngàn tia sáng muôn vẻ. Khi bạn có thể nhìn thấy thế giới và ngửi ra hương mùa Xuân, kí ức đó sẽ thức tỉnh trong đời bạn, và để cho bạn băng qua thành luỹ cuộc Ðời và cái chết, băng qua Văn-tự để thể hiện chính bạn.

Ðây là nơi cư ngụ í nghĩa trùng trùng của chân lí và cái đẹp.

Tôi đã từng nói cho bạn bè hay rằng tôi đã cảm thấy ánh sáng giáng hạ trước mắt tôi như một cánh chim. Có lẽ điều ấy chỉ xảy ra một lần trong trọn kiếp.

Tôi không muốn nắm bắt nó mà đem vào sở thú hay bảo tàng viện. Tôi theo nó, thay vì, nó theo tôi.

______

Tài liệu tham khảo về Cố Thành:

Tiếng Anh:
  • Selected Poems by Gu Cheng, ed. By Sean Golden & Chu Chiyu - an Authorized Translations, A Renditions Paperbacks, published by The Chinese University of Hong kong, 1990
  • Gu Cheng, The Kingdom of Daughters tr. by Li Xia, Dortmund: projekt verlag, 1995
  • Li Xia, ed. With an introduction & translations, Essays Interviews, Recollections and Unpublished Materials of Gu Cheng, the 20th Century Poet: The Poetics of Death, Chinese Studies Vol. 5, the Edwin Mellen Press UK, 1999
  • Barmé, Geremie & John Minford ed. Seeds of Fire. NY, Hill & Wang, 1988
  • Duke, Michael S. ed. Comtemporary Chinese Literature: an Anthology of Post-Mao Fiction and Poetry. Armonk (NY): M E Sharpe, 1985
  • Finkel, Donald & Carolyn Kizer, trans. The Splintered Mirror: Chinese Poetry from the Democracy Movement, San Francisco: North Point, 1991; 39 - 54 
  • Morin, Edward, ed. The Red Azalea: Chinese since the Cultural Revolution, Honolulu: University of Hawaii Press, 1990, 166 - 178

Tiếng Trung:
  • Gu Cheng Quan Bian (Cố Thành toàn biên), Cố Công biên tập, Thượng hải tam liên thư điếm, 1995
Ðiện ảnh:
  • The Poet (Cố thành biệt luyến), Ðạo diễn: Cassey Chan, Hongkong 1998
Nhan đề bài do người dịch đặt từ ý thơ của F. G. Lorca.

Nguồn: Lời Tựa cuốn Selected Poems by Gu Cheng [Thi Tuyển của Cố Thành], do Sean Golden và Chu Chiyu chủ biên, Nxb Renditions Paperbacks, 1990

© 2003 talawas

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét