Mã Kiến
Hà Vũ Trọng dịch
Mã Kiến (Ma Jian) 馬建 sinh năm 1953 tại Thanh Đảo, Trung Quốc. Ông từng làm các nghề như sửa đồng hồ, vẽ bảng tuyên truyền, và phóng viên ảnh. Tuổi 30, ông bỏ việc, như kẻ phiêu bạt suốt ba năm liền, từ 1983-86, đi khắp những vùng xa xôi của Trung Quốc, và viết tác phẩm đầu tay là cuốn du kí Hồng trần 红尘 hay Bụi đỏ: một lối xuyên Trung Quốc (Red Dust: A Path Through China; Nxb Anchor 2001), đem lại giải thưởng cho sách viết về du lịch Thomas Cook Travel Book Award năm 2002. Năm 1987, khi tập truyện Thè lưỡi ra hoặc trống hoác 亮出你的舌苔或空空荡荡 (Stick Out Your Tongue; Vintage 2006) xuất bản trên tạp chí Nhân dân văn học, lập tức bị chính quyền tịch thu, tiêu huỷ và cấm mọi tác phẩm của ông kể từ đó đến nay. Mã Kiến bỏ Bắc Kinh sang Hồng Kông năm 1987 như một người li khai, nhưng ông vẫn tiếp tục quay lại đại lục, và ủng hộ những nhà hoạt động dân chủ Thiên an môn 1989. Ở Hồng Kông, ông viết tập truyện châm biếm chính trị chua chát, Thợ làm mì 拉面者 (The Noodle Maker; Nxb Farrar, Straus and Giroux 2005). Sau khi Hồng Kông được trao trả, vào năm 1997, Mã Kiến sang Đức, và từ 1999, sống ở London với người bạn đời và là dịch giả Flora Dew, và xuất bản cuốn tiểu thuyết Đất thịt 肉之土 hay Bắc Kinh hôn mê (Beijing Coma; Farrar, Straus and Giroux 2008), một giảo nghiệm về sự kiện Thiên an môn và phê phán chứng mất trí của xã hội Trung Quốc hiện thời; câu chuyện chìm trong cơn hôn mê dài suốt mười năm của nhân vật chính sau vụ thảm sát, trong thời gian ấy Trung Quốc đã qua nhiều thay đổi, và sau khi hồi tỉnh, 'Thật vậy, lẽ nào tôi tỉnh dậy sau một giấc ngủ triền miên để lại hoà mình vào với đám đông bên ngoài cũng bị hôn mê?'Truyện ngắn ‘Lễ quán đảnh’ (The Final Innitiation) được dịch dưới đây là truyện cuối trong tập Thè lưỡi ra, gồm năm câu chuyện về một Tây Tạng tàn bạo và bần cùng hoá. Một Tây Tạng mà Mã Kiến phơi mở khác hẳn với cõi Thiên thai Shangrila của những người lãng mạn và chính quyền Trung Quốc tô vẽ; vì thế, tập truyện có thể vượt quá sức chịu đựng của một số độc giả. Ông phê bình người phương Tây có cái nhìn lí tưởng hoá về Tây Tạng như là những con người hiền lành, sùng đạo, chưa bị hư hỏng bởi những tham dục ti tiện. Theo kinh nghiệm của ông, người Tây Tạng cũng có thể đồi bại và tàn bạo như phần còn lại của chúng ta. Lí tưởng hoá họ là khước từ nhân tính của họ. Ông khiển trách lối nhìn của người Trung Quốc xem phần đất này như một tiền đồn cằn cỗi của Đại Hán, và họ ăn phải bả tuyên truyền của Đảng Cộng sản về cuộc 'giải phóng' xứ sở này. Họ không biết gì về sự huỷ diệt mà người Trung Quốc đã trút xuống Tây Tạng, hoặc về sự kiện xâm lăng kể từ 1949, đã có khoảng 1.2 triệu người Tây Tạng chết vì bị bách hại chính trị, tù đày, tra tấn và chết đói. Trong Lời bạt tập truyện, Mã Kiến kể lại, năm 1985, sau ba năm chạy trốn nhà cầm quyền, cuối cùng ông hướng tới Tây Tạng, hi vọng rút cục tìm thấy ở đó một nơi ‘quy y’ xa khỏi một xã hội Trung Quốc đã trở nên vô hồn. 'Tôi muốn trốn thoát vào một quang cảnh và văn hoá dị biệt, và mong đạt được tuệ giác thâm sâu hơn trong niềm tin Phật giáo của mình.' Thế nhưng hi vọng đạt được sự mạc khải tín ngưỡng của ông đã trở nên tiêu tan. Tây Tạng giờ là một xứ sở với quả tim tâm linh bị xé nát. Hàng ngàn đền chùa đã trở thành phế tích. Trước các cổng chùa đều có công an vũ trang đứng canh, và trên những bức tường viết lem nhem những khẩu hiệu dạy các nhà sư phải: 'Yêu nước, yêu Đảng, và học tập theo gương Mác-Lê'. ‘Ở xứ sở linh thiêng này, dường như Phật còn không tự cứu được bản thân, làm sao tôi có thể kì vọng ngài cứu độ tôi? Khi đức tin của tôi sụp đổ, một khoảng trống mở ra trong tôi. Tôi cảm thấy trống rỗng và bất lực, thảm thiết như một con bệnh thè lưỡi ra và cầu xin bác sĩ chẩn đoán xem có gì không ổn với mình.’ Khi trở về Bắc Kinh, Mã Kiến ở trong một trạng thái kiệt quệ đầy bất an. 'Tôi nhốt mình trong cái chòi và bắt đầu viết như lên cơn sốt, tôi muốn thể hiện sự hoang mang và bối rối của mình, nỗi đồng cảm với những con người bị thiệt thòi và bị truất hữu, nỗi tức giận với niềm tin mù quáng, và nỗi đau trước những tổn thất mà chúng ta chuốc lấy trên cuộc hành trình tới cái gọi là 'văn minh'. Tôi muốn viết về Tây Tạng như tôi đã kinh nghiệm nó, vừa là thực tế vừa là trạng thái của tâm.’Người dịch
LỄ QUÁN ĐẢNH
Dãy núi trải dài hàng trăm cây số, trần trụi và lặng im
dưới ánh mặt trời. Khi hoàng hôn xuống, ánh tà dương thấm đẫm những sườn
dốc bằng thứ ánh sáng đỏ máu. Vào lúc mặt trời chìm xuống dưới những
đỉnh lởm chởm và những dải ánh sáng cuối cùng lơ lửng giữa trời và đất,
tôi bắt đầu leo lên. Nơi những quả núi mọc lên như những phế tích một cổ
thành ấy, tôi đã tìm kiếm hoài công một mạch sống. Rặng núi kéo tôi
lên, nhận tôi xuống, rồi biến tôi thành một cái xác rỗng. Khi không còn
có thể đi xa hơn được, tôi ngã sụp xuống đất, vọc bàn tay vào trong đá
và khóc nức như đứa bé. Rồi tôi đứng dậy, mỉm cười, đi trở xuống con
đường.
Đó là cái ngày sau khi tôi rời Raga. Trong túi đeo lưng
của tôi có một cái chén tế lễ làm bằng sọ người mà tôi mua được ở một
khu phố chợ. Sự hiện diện của cái sọ làm tôi xáo trộn và bồn chồn. Tôi
quyết định leo lên những quả núi trọc kia cố làm cho đầu óc mình thư
thái một chút và tính xem nên làm gì với đời mình. Ở cao nguyên Tây
Tạng, tông giáo thấm vào mỗi tấc đất. Ở đây Con người và Thần linh bất
phân, truyền thuyết và thần thoại đan bện vào nhau. Con người ở đó chịu
những thống khổ vượt ngoài sự nhận thức của thế giới hiện đại. Giờ tôi
viết chuyện này xuống với hi vọng bắt đầu quên nó đi.
Bé gái được tìm thấy chín ngày sau cái chết của vị Phật
Sống Tenzin Wangdu. Bé vừa mới sinh ra được chín ngày, nhưng đôi mắt của
nó mở lớn và chăm chú nhìn người và vật xung quanh. Cái lán làm bằng
gạch bùn và rơm. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu bơ chiếu lên manh vải đã sờn
từ cái yếm của người mẹ. Đây là một gia đình nghèo. Khi người mẹ nghe
thấy tiếng động từ bên ngoài, bà nhét đứa bé lại vào trong cái áo khoác
da cừu của mình. Đám khách đứng chật lối ra vào, họ đứng đó như một bầy
cừu đen. Bà mẹ đứng dậy mời họ vào. Họ là những tăng sĩ bậc cao của Tu
viện Tenpa. Lạt ma Tsungma là vị chủ lễ đứng đầu nhóm.
Lạt ma Tsungma nói, 'Chúng tôi nghe nói đứa con bà ra đời
chín ngày trước.' Bà mẹ xác nhận đúng. Đám tăng sĩ tức thì chắp tay
niệm kinh. Lạt ma Tsungma phái người trở về bẩm báo cho các vị bề trên
rằng đã tìm thấy hoá thân mới của vị Phật Sống. Rồi ông quay sang người
mẹ và hỏi, 'Là bé trai hay gái? Tên nó là gì? Sangsang Dolma à? Vậy từ
nay nó sẽ được gọi là Sangsang Tashi[1]
Sau đó một nghi lễ cử hành long trọng mừng sự chuyển sanh
của Phật sống Tenzin Wangdu, và toàn gia đình của Sangsang Tashi cũng
rời cái lán của họ để dọn vào Tu viện Tenpa.
Lên 15 tuổi, Sangsang Tashi đã học xong Ngũ bộ đại luận
và bắt đầu tu học y khoa ở Trường Manrinba. Trường cách Tu viện một giờ
đi bộ. Ban đầu, cô được chở đến trường bằng ngựa hoặc xe. Nhưng sau vài
tháng, cô đòi được tự mình đi bộ tới trường. Cô hi vọng rằng những cuộc
dạo hành một mình giúp cho đầu óc của cô được thanh tịnh. Những cảm xúc
mà cô không thể tả nổi đã bắt đầu quấy rối cô. Tới giờ, tất cả việc cô
đã làm trong mười lăm năm đời mình là học kinh Phật và tu tập du già
công.
Con đường dẫn tới trường cho cô niềm khoái cảm tuyệt vời,
và cô thường mơ thấy nó trong giấc ngủ. Kì thực, cô đã bước đi một nửa
phần đầu của con đường này cả ngàn lần trước đây. Khi cô mở cửa thiền
thất, từ đó có một con đường đá nhỏ uốn quanh dưới sườn núi ở giữa những
học viện khác nhau. Tại khúc quanh đầu tiên là một bức tường đỏ bao bọc
trung tâm tu viện: một ngôi đền cung phụng Đức Thích ca mâu ni và Thập
lục Bồ tát. Quanh bức tường này là lối hành hương, có một bà lão đã đi
vòng quanh suốt hai mươi năm thủ trì quay bánh xe cầu nguyện, bà khẩn
cầu cho kiếp sau được tái sinh làm đàn ông. Hễ mỗi khi nhìn thấy
Sangsang Tashi thì bà lão toàn thân phủ phục và dập đầu lạy xuống đất.
Đối diện bức tường đỏ là một cánh cửa lớn của ngôi nhà vị
sư trưởng. Lũ chó hoang tụ tập trước sân ngoài đuổi theo nhau hoặc giao
cấu. Xa hơn dưới bên phải, người ta có thể thấy con đường dẫn tới đại
môn của tu viện. Trong ngày Lễ Vén Tấm Thảm Đức Phật, con đường tràn
ngập những đoàn người hành hương. Vào những lúc khác, đám thương nhân
cắm lều dọc theo vệ đường và trao đổi hàng hoá. Giữa những cái lều và
khu nhà gạch nhỏ, đám hành khất và đám thợ nề lưu động xây những căn lều
tạm thời từ những viên đá xốp. Sangsang Tashi thường đi xuống con đường
này để mua vòng xuyến và bông tai từ những thương nhân Ấn độ.
Khi đi bộ tới trường y khoa, Sangsang Tashi sẽ rẽ trái
ngay cổng tu viện, rồi bỏ lại con đường và băng ngang qua những cánh
đồng bắp và đậu. Những cây liễu lùn xếp hàng bên đường mòn um tùm đám
rau tần bò leo. Buổi sáng không khí đầy mùi hương hoa dại. Sangsang
Tashi thường dừng lại trên những cánh đồng này và ngoái đầu nhìn cảnh Tu
viện Tenpa. Ở phần chóp của quần thể tu viện, lưng chừng núi, là Phật
đài bằng đá, trên đó trong ngày lễ hội, tấm thảm Đức Phật được phô bày.
Phật đài cao lớn và khiết tịnh. Khi gió thổi, Sangsang Tashi có thể nghe
tiếng cờ nguyện cầu bay phất phới trên mái tu viện. Thanh âm như thể
tiếng vải xé. Hàng trăm ngôi đền nhỏ ôm sát đường viền của núi. Xa hơn
dọc theo những cánh đồng, con đường băng qua một con suối từ trên núi đổ
xuống rồi chảy vào Sông Nyangchu từ xa lấp lánh.
Mỗi lần Sangsang Tashi đi trên con đường này, cô quên
rằng mình là vị Phật Sống, hoá thân của Tenzin Wangdu. Hương đồng nội
làm cô say sưa. Cô thích đứng trên cái cầu gỗ bắc qua Sông Nyangchu ngắm
nhìn đám tảo lay động trong dòng nước. Qua Nyangchu là trường y khoa,
và đằng sau là quả núi hoang sơ.
Ngày mai, Sangsang Tashi sẽ thọ giới Lễ trao truyền quyền năng. Trong nghi lễ truyền pháp quán đảnh[2]
này, Phật A-di-đà sẽ điều phục mọi tham tính và sân tính ra khỏi tâm
hồn cô, và cuối cùng cho phép Phật tính hiển lộ. Đó là vào ngày đầu thu,
những khách hành hương đều đã xuống núi chuẩn bị cho việc bố thí để
tiếp theo đó là cử hành Lễ trao truyền Quyền năng. Sangsang Tashi không
có hứng thú với những hoạt động này. Tất cả những gì cô muốn là thời
gian riêng để nghĩ tới một số sự việc.
Hôm nay, như thường lệ cô tới lớp học của vị thượng sư
nằm ở chính thất của trường y. Một thi thể đặt nằm ở chính giữa gian
phòng rộng thênh. Hôm nay thượng sư giảng về vị trí các điểm khí mạch
của nhân thể tế vi. Đây chính là đề tài mà Sangsang Tashi rất muốn biết.
Khi đã đặt thi thể lên tế đàn, thượng sư cầm con dao lên. Ông xẻ lồng
ngực thi thể, moi ngũ tạng và lục phủ ra ngoài, lôi quả tim ra và chỉ
vào vị trí của tâm nhãn. Mùi hôi thối khiến cho Sangsang Tashi buồn nôn.
Mặc dù đầu của cô cũng cạo như những người khác, nhưng cô là người phụ
nữ duy nhất trong phòng. Đứng cạnh cô là Geleg Paljor, như khoảng một
chục đệ tử khác, đang nhìn chăm chú vào vị thượng sư. Geleg đã thụ giáo
Thời luân kim cương [Kalachakra, tức lễ về vòng thời gian] ở Tu viện
Panam, và được gửi tới trường tiếp tục các môn học. Sangsang Tashi bao
giờ cũng thích đứng gần anh ta trong lớp học.
Thượng sư bảo các đệ tử nhắm mắt lại, tập trung tư tưởng
nhìn vào trong tâm mình. Sau một hồi, bốn tăng sĩ nói rằng họ có thể đọc
được những ý nghĩ của thượng sư. Thượng sư hỏi Sangsang Tashi đã thấy
gì. Cô là đệ tử trẻ tuổi nhất trong lớp, lại là vị Phật Sống. Cô tức
khắc nhập định, nhưng vì cô chỉ tu tập du già công có sáu năm, nên tâm
nhãn của cô vẫn còn mơ hồ. Cô tụng chân ngôn để trấn tĩnh vị bổn tôn của
mình và để điều hoà tâm mạch, nhưng cũng không thể nào quán tưởng được
bốn minh điểm của thân thể vi tế. Cô có cảm giác nóng bỏng nơi những
ngón chân. Dần dần, khí nóng tụ thành một quả cầu lửa từ chân bốc lên
tới tâm nhãn. Cô vội tụng chân ngôn Om Svabhava để làm thanh tịnh thân
và ổn trụ thần thức, từ từ cô nhìn thấy hình ảnh một dòng sông đóng băng
hiện ra trong tâm của vị thượng sư. Vừa khi sự nhập định sắp chuyển cô
sang Cõi Quang minh, thì cô thấy mình đứng trần truồng trong dòng sông
đóng băng này. Cô vội thu tâm, kể cho thượng sư những gì cô nhìn thấy.
Thượng sư nói, 'Hình ảnh con thấy trong tâm ta là hình
ảnh mà ta thấy trong tâm con. Con mắt nhìn thấy vị lai không phải là tâm
nhãn.' Vị thượng sư lại cầm con dao lên rồi lèn vào trong đầu sọ của
thi thể.
Sangsang Tashi trong lòng bối rối. Vị thượng sư đã không
giải thích tại sao cô lại đứng trong dòng băng hà. Cô tự hỏi, phải chăng
đó là tương lai của mình? Cảnh tượng thấy mình loã thể khiến cô ngạc
nhiên. Trông cô giống như một dakini,[3]
vị không-hành-nữ này được miêu tả trong tranh tượng Phật giáo mà cô
nhìn thấy hàng ngày. Vào lúc này, vị thượng sư nạy ra một mảnh sụn nhỏ
từ dưới tuyến yên rồi nói, 'Đây là con mắt của vị lai. Sau những năm tu
luyện, các con có thể dùng con mắt này để nhìn thấy các loại bệnh tật và
ma quỷ tiềm tàng bên trong thân thể con người. Cách đây vài phút, ta đã
nhìn thấy Sangsang Tashi trong dòng băng hà. Đấy là một trong lục đạo
tam độc mà cô ta phải chịu trong hai ngày tới. Nghe đây, Sangsang Tashi,
du già công của con khả dĩ đủ cho con giữ được mạng sống suốt ba ngày
trong dòng băng hà mà không bị tổn thương.'
Sangsang Tashi cảm thấy lo lắng. Dòng băng hà thì ở xa
tít; cô chỉ có thể thấy nó từ chóp một quả núi. Tuy cô có thể ngồi trong
tuyết một vài ngày mà không cảm thấy lạnh, nhưng cô không có ý niệm về
cảm giác ra sao khi đứng trong một dòng băng hà. Cô nghĩ tới hơi nóng
cảm thấy trong những ngón chân cách đây vài phút, mà không phải từ thân
thể phát ra. Cô liếc nhìn quanh và thấy một vầng hào quang lơ lửng trên
đầu Geleg Paljor. Cô mỉm cười vào anh ta. Cô biết rằng du già công của
Geleg đã vượt qua vị thượng sư, nhưng anh đã chọn không tiết lộ điều này
với ai.
Vị thượng sư cầm miếng sụn lên từ thi thể rồi nói, 'Người
đàn ông này vô minh và dại khờ. Y sống một cuộc đời bê bối và bấn loạn.
Vì vậy mà khối sụn này có màu vàng. Nếu các con đạt được tịnh ngộ qua
thiền định, khối sụn này của các con sẽ trở nên trong suốt. Những lối tu
tập Thiền, Hiển và Mật, tất cả đều phụ thuộc vào việc sử dụng con mắt
này. Chỉ có nó cho phép các con nhìn vào Phật giới, làm sáng tỏ nhãn
kiến và biện biệt ra tinh linh của vạn vật.'
Vị thượng sư dùng dao nạy con mắt ra khỏi rồi xuyên thủng
nó. Quan sát thứ chất lỏng màu đục trào ra, ông nói, 'Tục nhân nhìn sự
vật bằng con mắt này. Bởi vì bản thân con mắt này vốn bị vẩn đục, họ bị
đồi bại do ngũ độc nên không thể tịnh ngộ.' Sangsang Tashi nhìn đăm đăm
vào thi thể đã bị phanh thây một nửa. Đó là một người đàn ông trung
niên, với hàm răng lớn và trắng. Một đàn ruồi lượn trên đống lục phủ ngũ
tạng.
Vào buổi chiều, Sangsang Tashi tĩnh toạ một mình trong
phòng. Cô vừa thăm người mẹ bệnh nặng. Suốt mấy tháng qua, Sangsang
Tashi cố gắng trị bệnh cho mẹ bằng kiến thức mà cô có được từ trường y
khoa, nhưng không kết quả. Cách đây vài tuần, cô đã từng chuyển một số
ma bệnh sang thân một con chó, nó chết tức khắc. Nhưng vị thượng sư đã
khiển trách cô về việc này. Ông nói rằng vạn vật đều có linh hồn, vậy
nên suy nghĩ cẩn thận trước khi truyền ma bệnh sang những sinh vật khác.
Khi hình dung mẹ mình đang dần dần khô héo, tâm trí cô lại một lần nữa
bị trôi cuốn.
Ngày mai là ngày lễ quán đảnh của cô, đây là nghi thức
long trọng nhất mà tu viện tổ chức dành cho cô kể từ buổi lễ công nhận
cô là Phật Sống. Tuy vậy, cô không thích nghĩ tới nó. Suốt mấy ngày qua,
cô thấy các trường tu viện treo cờ cầu nguyện trong hành lang. Những
chiếc tù và dài bằng đồng cất trong kho mấy năm nay lại được đem ra tu
sửa, và các tăng sĩ bắt đầu tập luyện. Các điện đường đều đổ đầy dầu bơ
vào những cây đèn để giữ sáng ngày đêm. Sangsang Tashi tiếp tục đăm đăm
nhìn vào cây đèn trước mặt, nhưng không thể nào cho tâm ý khỏi hoảng
loạn.
Cô biết rằng có một đạo tràng mạn-đà-la lớn đã được đặt
tại trung tâm Thiền đường của tu viện. Các Phật tượng và các loại tế
phẩm, gồm ngũ tạng của cái thi thể mà cô đã thấy bị giải phẫu cách đây
vài giờ được đặt ở tế đàn chính. Các lò hương được đặt ở bốn góc
mạn-đà-la. Phía trước mạn-đà-la là những tấm đệm cứng, trên đó Sangsang
Tashi sẽ cử hành nghi lễ Hợp tu Lưỡng thân.[4] Bên dưới bốn vách bích hoạ là hàng trăm ngọn đèn dầu bơ đặt trên những súc vải đỏ.
Lễ Kim cương Quán đảnh này như thường lệ được Labrang
Chantso dẫn đạo. Cứ nghĩ tới việc ngày mai phải cùng với ông cử hành
nghi lễ Hợp tu Lưỡng thân, cô thấy khó thở. Cô cảm thấy Labrang Chantso
không ưa cô, ông căm ghét ý tưởng người anh của ông là Tenzin Wangdu đã
chuyển sinh vào thân thể cô. Thế nhưng Labrang Chantso lại tinh thông
mật pháp. Chính ông là người dạy cô học Ngũ bộ đại luận và dẫn đạo cô
lãnh thụ Tịnh bình quán đảnh.[5]
Sangsang Tashi tưởng tượng ra khuôn mặt của Labrang Chantso. Vầng trán
ông đầy những nếp nhăn nhàu sụp sang một bên khi ông ngước nhìn. Đôi
đồng tử đen to trám đầy đôi mắt nhỏ của ông. Ông cao lớn và nặng nề.
Sangsang Tashi nghĩ tới bức bích hoạ trong Thiền đường vẽ
Kim cương thủ Bồ tát thiền toạ đang cùng với vợ ngài khoá chặt trong
vòng ôm ấp giao hợp. Ngày mai, Sangsang Tangshi sẽ phải hấp thụ tư thế
người vợ và ngồi trong lòng Bồ tát, hai chân quấn quanh eo của ngài. Một
cảm giác nóng, ươn ướt đột nhiên kích động trong cô. Gương mặt của
Labrang Chantso loé lên trước mắt cô. Vẻ mặt ông lạnh lùng và nghiêm
khắc.
Cô vội xua những ý niệm này ra khỏi tâm trí và trở lại
nhập thiền, khẩu niệm thần chú Thích ca mâu ni Như lai. Khi dần dần nhập
tâm khí, cô thấy ba vị dakini xuất hiện trước mặt cô loan báo rằng ngày mai Kim cương thủ Bồ tát sẽ lấy cô làm vợ. Trong khi họ biến mất, vị dakini
áo choàng đỏ quay đầu lại nhìn cô và mỉm cười. Sau đó vị bổn tôn của cô
là Văn thù Bồ tát cũng xuất hiện trước mặt cô và ngồi trên mạn-đà-la.
Cô cảm thấy khí nóng lan khắp thân thể, những mạch điểm sinh khí chạy
qua tim cô như chuỗi hạt ánh sáng. Phần hông, đùi, đầu gối và gót chân
của cô đột nhiên trở nên nhẹ như lông vũ. Rồi gương mặt của Geleg Paljor
loé lên trước mặt cô. Cô cảm thấy trần trụi và hổ thẹn, vội bỏ nhập
định. Tâm niệm cô rối bời. Cô cố gắng hình dung bản thân mình là vị bổn
tôn và bốn phương có bốn vị Bồ tát tiếp dẫn, nhưng cô không thấy được
mình trong hình tượng vị bổn tôn. Đầu óc cô bắt đầu ong ong, ngay cả
tiếng ồn từ ngoài phòng cũng đi vào tâm thức cô. Một lần nữa cô bỏ nhập
định, và tư lự về những điều ba dakini vừa
nói với cô.
Mùi bánh mì chiên thoảng qua cửa sổ. Cô thấy đói bèn gõ
vào mõ, kêu cô hầu đem tới một tách trà bơ rồi đóng cửa lại. Giờ đã là
đêm, trời tối đen. Sangsang Tashi nhìn trừng vào cái bấc cháy đen của
ngọn đèn dầu bơ và cố hình dung ngày mai trông cô sẽ ra sao. Ý nghĩ khi
phải nằm trần truồng trong Thiền đường khiến lòng dạ cô như quặn lên cơn
sợ hãi. Cô cố gắng gạt đi bức tranh bất kính này ra khỏi tâm trí để trở
lại thiền định, nhưng cô không thể nào tập trung được. Cô bồn chồn với
nỗi bất an. Đây là lần đầu tiên cô trong nhiều năm cô không thể để tâm
chuyên nhất được. Ý nghĩ rằng mình đang phạm giới luật tì kheo làm cô
hoảng sợ. Cô thắp lại ngọn đèn mà cô vừa thổi tắt, khẩu niệm thần chú
Ngũ vị bồ tát, và cuối cùng tâm trí cô dần trấn tĩnh.
Sáng sớm hôm sau, cô thức giấc và cảm giác toàn thân
trong mỗi tế bào của mình, cô là một người đàn bà. Bình minh còn chưa hé
rạng, một lớp sương mù nhẹ còn lơ lửng trên trời. Cô cảm thấy một luồng
máu êm ả chảy qua những huyết quản và đôi vú cọ sát vào bộ áo ngủ. Cô
cảm thấy cặp đùi, xương chậu, cái bụng trơn mịn và mềm dẻo. Khi đứng
dậy, cô cảm thấy càng ý thức hơn về nữ tính của mình. Rồi đột nhiên cô
nhớ rằng trong vài giờ nữa cô sẽ phải nằm trần truồng trước hàng trăm
người. Cô đưa hai cánh tay lên bọc lấy đôi vai mình. Với hàm răng nghiến
chặt, cô chằm chằm nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm bầu trời chuyển từ tím
sang lam rồi dần càng lúc càng sáng hơn.
Đám đông gồm mấy trăm tăng sĩ ngồi chật Thiền viện. Tất
cả đèn dầu bơ được thắp sáng. Các loại chuông, tù và, trống và chũm choẹ
khởi tấu. Mặc chiếc áo cà sa, cổ đeo chuỗi hạt châu đỏ, Sangsang Tashi
đi vào đạo tràng, bước tới mấy tấm đệm cứng ở trung tâm rồi ngồi xuống
đối diện Labrang Chantso. Cô xếp chân tư thế kiết già, đặt hai tay lên
đầu gối, lòng bàn tay hướng lên, rồi tụng đại chú Ngũ vị Bồ tát. Tâm cô
còn dao động, hai bàn tay run run. Cô cảm thấy bối rối và thẹn thùng. Để
dịu bớt căng thẳng, cô thọc bàn chân vào đằng sau đầu gối. Khi tiếng tù
và lại vang lên, cô nhận ra mình hãy còn chưa nhập định. Cô vội thì
thầm đọc thần chú Đà la mật để triệu nhập bổn tôn của mình, nhưng ngữ
pháp bị lộn xộn.
Bây giờ đã quá trễ. Cô mở mắt ra và thấy Labrang Chantso
cởi áo cà sa và đang đi về hướng mình. Cô ngước nhìn vào mắt ông như cầu
xin, run rẩy đầy sợ hãi, và để cho ông đẩy cô xuống trên đệm. Chẳng mấy
chốc, cô thấy đau nhói giữa cặp đùi cùng với sức nặng đến nghẹt thở của
một cơ thể đang đè xuống cô. Cô cảm giác rằng người đàn bà đã thức giấc
trong cô chỉ cách đây vài giờ đã dần bị xé thành từng mảnh.
Nỗi đau đớn sớm dịu, cô bắt đầu cảm thấy mồ hôi ở lưng và
cổ. Cô để mặc cho thân thể mình lắc lư trong khi Labrang Chantso chuyển
động tới lui trên mình cô. Cô cảm thấy như thể đang phiêu lạc trong một
cái hố đen. Đôi lúc, một cảm giác ngứa lan khắp hai đùi của cô. Trong
cái hố đen ấy, chỉ có một mình cô, điều này cho phép cô một sát na yên
tĩnh.
Thế rồi cô chợt nhớ rằng mình đang cử hành Pháp tu Nam nữ
Lưỡng Thân. Cô nhớ rằng phải đánh thức các luân xa nếu cô và Labrang
Chantso đều muốn đạt tới sự kết hợp của trí tuệ và từ bi. Nhưng vừa khi
năng lực tâm linh của cô sắp lên tới luân xa trí tuệ thì Labrang Chantso
kéo hai bàn chân cô lên, gập cẳng chân phải cô vào eo của ông, và lắc
mạnh tới nỗi tâm trí cô trở nên trống rỗng.
Cô cảm thấy mình khô héo và hao mòn vì Labrang Chantso
bám vào cô như một thỏi nam châm không ngừng hút tinh khí và cốt tuỷ của
cô. Cuối cùng, cô gục ngã trên sàn. Bơ vơ. Cô không có chọn lựa nào
khác ngoại trừ để Labrang Chantso làm gì cô tuỳ ý. Khi ông ngồi xuống
lại tư thế kiết già, kéo cô về phía ông, cô ngồi sụp vào trong lòng ông
và, như những dakini trên những bích hoạ,
ngoặc hai chân cô quanh lưng ông. Cặp vú nhú lên trên ngực cô lúc bình
minh giờ đây khô quắt lại như của bà già. Sangsang Tashi thở hổn hển
trong khi nỗi đau ê ẩm bên dưới xương mu truyền lên khắp xương chậu và
cột sống.
Cô mở mắt ra, cả đạo tràng ngập ánh mặt trời. Bên trên
những đám mây sẫm từ khói nhang lung linh xung quanh cô, cô nhìn thấy
một nụ cười vàng kim hiện trên gương mặt Thích ca Như lai. Cô quay mặt
tránh cái miệng hôi của Labrang Chantso và, giữa một rừng đầu trọc, cô
bắt gặp Geleg Paljor. Cô vội nhắm mắt lại, vùi mặt vào ngực Labrang
Chantso và nghiến chặt răng.
Đó là vào giữa ngọ trước lúc Lễ Quán đảnh kết thúc.
Khi Sangsang Tashi tỉnh dậy, cô thấy mình trên đệm cứng,
đang quỳ cả tứ chi như chó. Cô vẫn còn run rẩy và đẫm mồ hôi. Bất chợt ý
nghĩ của cô hướng tới người mẹ đang hấp hối. Hai ni cô đi tới, nhấc bổng cô lên, dùng nước trong kim
bát lau chùi thân thể cô khỏi những vết máu và mồ hôi. Cô tê liệt, hai
chân hoàn toàn mất cảm giác.
Cuối cùng cô đứng dậy được, tiếng tù và đồng thanh vang
lên, không trung tràn ngập hương khói cùng tiếng tụng kinh. Cái kim bát
được đặt lên mạn-đà-la làm tế phẩm cho cho các thần. Labrang Chantso
khoác cà sa vào lại rồi trở lại bồ đoàn, mặt ông ánh sắc hồng hào. Đôi
chân của Sangsang Tashi run run trong khi chờ buổi lễ kết thúc. Cô ngạc
nhiên rằng chỉ trong một vài giờ, cô đã mất hết cả công phu tu hành du
già nhiều năm. Thế nhưng cô xem mình là đàn bà, đàn bà trong từng tế bào
thân thể, nên cô không còn ngạc nhiên.
Vào cái đêm thứ hai, Sangsang Tashi đã chết trong dòng
băng hà. Theo nghi thức quy định cô phải toạ thiền trong băng hà ba ngày
liền trước khi Như lai tạng của cô thị hiện. Ba vị lạt ma thay phiên hộ
vệ cô, và đập cho vỡ lớp băng đóng quanh cổ cô. Cô đã gắng niệm chú để
tụ hoả khí nhập vào thân, vốn rất hiệu quả trước đây, nhưng nó đã không
bảo hộ được cho cô khỏi nhiệt độ băng giá.
Vào ngày thứ ba, vừa trước lúc rạng đông, Lạt ma Tsungma,
một tế sư, rời lửa trại đạp tuyết đi tới bờ sông, ông nhìn thấy thân
thể Sangsang Tashi chìm dưới mặt nước. Khi kéo cô lên, ông phát hiện cô
đã trở nên trong suốt như băng. Những chỗ ở đầu gối bị cá rỉa tuyệt
không có vết máu nào. Đôi mắt cô khép hờ, như thể cô hay thường thiền
định trước ánh lửa.
Lúc tảng sáng, một nhóm lạt ma tới để nghênh tiếp vị Phật
Sống thị hiện. Họ mặc lễ phục trang trọng và cưỡi ngựa có phủ lụa màu.
Đối với họ, vị Phật Sống dù còn sống hay chết không quan trọng. Tuy
nhiên, khi họ nhìn thấy thân thể của Sangsang Tashi, họ không kềm được
việc vây quanh đầy kinh ngạc. Cô được đặt nằm ngửa, đã thành băng. Những
tia nắng man mát tắm cô bằng thứ ánh sáng dịu. Mọi người nhìn chằm chằm
vào những bộ phận bềnh bồng trong thân thể trong suốt của cô. Một con
khi cá rỉa rói không biết bằng cách nào đã lọt vào trong thi thể của cô
và đang bơi tới bơi lui qua bộ ruột của cô.
Cái chén lễ được tạc từ chiếc đầu sọ của Sangsang Tashi
giờ đây nằm trên bàn viết của tôi. Người đàn ông bán nó cho tôi nói rằng
ông thừa hưởng nó từ tổ phụ của mình, người từng học vu thuật tại
trường y khoa Manrinba. Cái chén đầu sọ này ở Tu viện Tenpa sử dụng làm
món pháp khí thần thánh, Nó được bày nơi chính điện và chỉ dùng vào
những dịp cử hành lễ quán đảnh trọng đại. Giờ cái sọ này đã ngả màu thời
gian sang màu vàng. Chắc hẳn nó từng bị rơi rớt trong quá khứ vì có một
kẽ nứt bên trái bị cáu bụi. Đường lằn nhỏ đó chạy xuống từ vòm sọ ngoằn
ngoèo như bức điện tâm đồ. Theo người bạn tôi là y sĩ, nó đặc trưng cho
cái sọ thuộc về một thiếu nữ tuổi dậy thì. Ở bên ngoài cái sọ có viền
hoa văn khảm đồng, còn bên trong có đường viền khảm vàng.
Người bán nó đòi giá năm trăm nguyên, nhưng tôi xoay xở
trả xuống một trăm. Ai muốn mua, xin liên hệ tôi. Tôi
chịu bán bất cứ giá nào đặng mà trang trải lộ phí cho chuyến về
đông bắc của tôi.
_________________________
[1]Tashi, tiếng Tây Tạng nghĩa là điềm tốt, điềm lành. (Mọi chú thích đều của người dịch)
[2]Lễ
quán đảnh hay lễ điểm đạo trong Phật giáo kim cang thừa, là nghi thức
trao truyền quyền năng được thực hiện khi bắt đầu vào tiến trình tu tập,
bởi mật giáo rất đặt nặng vấn đề truyền thừa. Người thọ lễ được trao
cho quyền tu tập pháp môn này với tư cách như của vị pháp vương, cùng
nghĩa như lễ quán đảnh trong vương triều Ấn độ xưa khi truyền ngôi báu
qua nghi thức gội nước lên đầu, hay xức dầu.
[3]Dakini
(Phạn ngữ: người đi trong không gian) có nghĩa là 'kẻ mang linh hồn
người chết đến cõi Thiên.' Không-hành-nữ được xem như tiên nữ, thiên
thần, hay đại diện cho lực lượng siêu nhiên trong thiên giới, và là hộ
thần trong tu tập Mật tông Phật giáo.
[4]Tư
thế giao hợp toạ Yab-Um của một số vị hoan hỉ Phật thấy trên
một số tranh tượng mật tông, biểu tượng cho kết quả mong muốn trong
thiền định mật tông, niềm hoan lạc có được từ việc hợp nhất từ hai thành
phần của giải thoát: nam/dương (từ bi) và nữ/âm (trí tuệ).
[5]Pháp đầu tiên trong bốn pháp quán đảnh (của Yoga tối thượng), bao gồm sự khai giảng về năm khía cạnh của năm bộ Phật.
-----------------
Nguồn: Ma Jian, Stick Out Your Tongue, bản dịch tiếng Anh của Flora Drew, Vintage Books 2006.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét