Một nỗi sợ thót tim, một tia lấp lánh, một giọt nước mắt
Thức dậy vào một sớm mai
Tìm lí do người ta thức dậy,
Hít vào một bình minh khác.
[87]
A darting fear — a pomp — a tear —
A waking on a morn
To find that what one waked for,
Inhales the different dawn.
Tôi thấy một đám tang trong tâm trí,
Những người đến viếng tang đi tới đi lui
Rồi tiếng chân bước giậm, bước giậm mãi
Tới lúc dường như giác quan bị phá vỡ
Và khi tất cả họ đã ngồi xuống
Một nghi thức, như cái trống
Cứ gõ nhịp, gõ nhịp, cho đến khi
Thần thức tôi dường như trở nên tê liệt
Và sau đó tôi nghe thấy họ nhấc cái hộp lên
Tiếng cọt kẹt xuyên qua linh hồn tôi
Một lần nữa, cũng với những đôi ủng chì,
Rồi không trung vang lên hồi chuông
Như thể cả bầu trời là một cái chuông,
Và tồn tại chỉ còn là cái tai,
Còn tôi, với sự câm lặng, như một giống loài xa lạ
Bị đắm, bơ vơ, chốn đây
Và rồi một tấm ván lí trí bị nứt gãy,
Và tôi rơi xuống, rơi xuống
Và tôi va vào một thế giới, mỗi lần lao xuống,
Và không còn biết gì nữa sau đó
[280]
I felt a Funeral, in my Brain,
And Mourners to and fro
Kept treading – treading – till it seemed
That Sense was breaking through –
And when they all were seated,
A Service, like a Drum –
Kept beating – beating – till I thought
My Mind was going numb –
And then I heard them lift a Box
And creak across my Soul
With those same Boots of Lead, again,
Then Space – began to toll,
As all the Heavens were a Bell,
And Being, but an Ear,
And I, and Silence, some strange Race
Wrecked, solitary, here –
And then a Plank in Reason, broke,
And I dropped down, and down –
And hit a World, at every plunge,
And Finished knowing – then –
Tôi vô danh! Còn bạn là ai?
Bạn cũng vô danh phải không?
À, vậy chúng ta là một cặp, đừng nói ra!
Họ sẽ tuyên dương chúng ta, bạn biết mà.
Làm người nổi tiếng chán lắm!
Phô trương như con ếch
Oang oang tên tuổi mình suốt ngày
Trước vũng lầy ngưỡng mộ!
[288]
I’m Nobody! Who are you?
Are you – Nobody – too?
Then there’s a pair of us?
Don’t tell! They’d advertise – you know!
How dreary – to be – Somebody!
How public – like a Frog –
To tell one’s name – the livelong day –
To an admiring Bog!
*
[903]
Tôi giấu mình trong đoá hoa mình
Đoá hoa cài trên ngực người,
Người nào ngờ cũng đã cài tôi
Mà những thiên sứ đều biết.
Tôi giấu mình trong đoá hoa mình,
Hoa héo dần trong chiếc bình người,
Người nào ngờ, có thấu được tôi
Cơ hồ một nỗi niềm cô tịch.
[903]
I hide myself within my flower,
That wearing on your breast,
You, unsuspecting, wear me too --
And angels know the rest.
I hide myself within my flower,
That, fading from your vase,
You, unsuspecting, feel for me
Almost a loneliness.
*
[1045]
Thiên nhiên dùng màu vàng
Hiếm hơn những sắc màu khác
Vì màu vàng dành hết cho hoàng hôn
Hào phóng màu xanh lam
Lãng phí đỏ son như đàn bà
Thiên nhiên ban màu vàng
Thật dè sẻn và chọn lọc
Như những lời của người yêu
[1045]
Nature rarer uses Yellow
Than another Hue.
Saves she all of that for Sunsets
Prodigal of Blue
Spending Scarlet, like a Woman
Yellow she affords
Only scantly and selectly
Like a Lover's Words
*
[1068]
Xa hơn tiếng chim hót mùa hè,
Cảm thương chốn cỏ hương đồng nội,
Một vương quốc nhỏ đang cử hành
Một thánh lễ kín đáo lặng lẽ
Chẳng hề thấy một nghi lễ nào
Mà xiết bao ân điển du dương
Đã trở nên một phép chiêm niệm,
Nỗi tịch mịch càng thêm bao la.
Vào giữa trưa rất mực cổ kính
Khi tháng Tám leo lét lụi tàn,
Trỗi lên bài thánh ca chiều u linh,
Biểu hiện cho sự yên nghỉ.
Lời nguyện cầu vẫn chưa tắt lịm
Không một nếp nhăn trên vầng sáng
Thế nhưng một sự biến hoá kì diệu*
Giờ đã thăng hoa vào cõi tự nhiên.
[1068]
Further in Summer than the Birds
Pathetic from the Grass
A minor Nation celebrates
Its unobtrusive Mass.
No Ordinance be seen
So gradual the Grace
A pensive Custom it becomes
Enlarging Loneliness.
Antiquest felt at Noon
When August burning low
Arise this spectral Canticle
Repose to typify
Remit as yet no Grace
No Furrow on the Glow
Yet a Druidic Difference
Enhances Nature now.
*
[1147]
Sau một trăm năm,
Còn ai biết nơi này
Chốn xưa tang thương,
Im lìm tựa như bình yên.
Cỏ dại mọc đắc thắng,
Những người lạ dạo quanh
Nhẩm đọc tên mộ chí
Cô độc của tiền nhân.
Gió đồng hoang mùa hè
Hồi tưởng nẻo xưa,
Bản năng nhặt chìa khoá
Mà kí ức đánh rơi.
[1147]
After a hundred years
Nobody knows the place,—
Agony, that enacted there,
Motionless as peace.
Weeds triumphant ranged,
Strangers strolled and spelled
At the lone orthography
Of the elder dead.
Winds of summer fields
Recollect the way,—
Instinct picking up the key
Dropped by memory.
*
[1263]
Không con tàu nào sánh được với cuốn sách
Đem ta tới những xứ sở xa xôi
Cũng không có tuấn mã nào đuổi kịp
Vó câu của một trang thơ
Đây là chuyến du hành
Ngay cả người nghèo nhất cũng khả thi
Mà không chịu phí tổn nào
Một cỗ xe đơn sơ xiết bao
Chở theo tâm hồn người
[1263]
There is no Frigate like a Book
To take us Lands away
Nor any Coursers like a Page
Of prancing Poetry–This
Traverse may the poorest take
Without oppress of Toll –
How frugal is the Chariot
That bears the Human Soul –
*
Lầu đài dưới ao
Ếch bỏ lại đó
Nó nhảy lên khúc gỗ
Rồi cất giọng tuyên bố
Khán thính giả hai thế giới
Trừ tôi ra
Nhà hùng biện của tháng Tư
Hôm nay khàn giọng
Dưới chân ếch đeo găng
Nó không có tay
Miệng hùng hồn nổi bong bóng
Như bọt danh vọng
Trước tiếng vỗ tay
Khi phát hiện bạn đang rầu rĩ
Desmothenes biến mất
Vào làn nước xanh
His mansion in the pool
The Frog forsakes —
He rises on a Log
And statements makes —
His Auditors two Worlds
Deducting me —
The Orator of April
Is hoarse Today —
His Mittens at his Feet
No Hand hath he —
His eloquence a Bubble
As Fame should be —
Applaud him to discover
To your chagrin
Demosthenes has vanished
In Waters Green —
*
[1463]
Con đường mờ dần
Với bánh xe xoay vần
Một hồi thanh bích ngọc
Một dải son yên chi
Mọi đoá hoa trong bụi cây
Cùng ngẩng đầu ngước mặt
Có lẽ, cánh thư ấy
từ xứ Tunis
Trong hành trình ung dung
một sớm mai
A Route of Evanescence,
With a revolving Wheel –
A Resonance of Emerald
A Rush of Cochineal –
And every Blossom on the Bush
Adjusts it’s tumbled Head –
The Mail from Tunis – probably,
An easy Morning’s Ride –
*
[1506]
Mùa hè ngắn hơn những mùa khác
Cuộc đời còn ngắn hơn mùa hè
Bảy mươi năm tiêu qua vèo
Như đồng đô la duy nhất
Giờ nỗi buồn lịch sự ở lại
Nhìn xem chúng ta hắt hủi nó
Có bằng như ghét bỏ niềm vui
Có bằng như giữ lại nó
[1506]
Summer is shorter than any one-
Life is shorter than Summer-
Seventy Years is spent as quick
As an only Dollar-
Sorrow-now-is polite-and stays-
See how well we spurn him-
Equally to abhor Delight-
Equally retain him-
*
[1544]
Ai không tìm thấy thiên đường dưới trần gian
Cũng sẽ không tìm thấy nơi thượng giới
Bởi các thiên sứ luôn thuê nhà làm xóm giềng chúng ta,
Bất kể chúng ta di chuyển tới đâu
[1544 ]
Who has not found the Heaven- below
Will fail of It above
For Angels rent the House next ours,
Wherever we remove
*
[1551]
Những kẻ lìa trần, bấy giờ
Họ biết phải đi đâu
Họ đến bên cánh tay phải của Chúa
Cánh tay đó giờ đã bị cắt cụt
Và không tìm thấy Chúa đâu
Sự từ bỏ đức tin
Làm cho hành vi trở nên nhỏ nhen
Thà là đốm lửa ma trơi
Còn hơn không có chút ánh sáng nào
Those—are about to die
Know where they went
They have come to the Right Hand of God—
Now the hand has been amputated
And God cannot be found—
The abandonment of faith
Make the behavior small—
Better than an ignis fatuus
Better than no light at all—
*
[1732]
Đời tôi đã khép hai lần trước khi đóng lại
Nhưng vẫn nấn ná chờ xem
Liệu cõi vĩnh cửu có hé lộ
Cho tôi biến cố thứ ba
Ôi lớn lao, vô vọng tư nghì
Như hai lần trước xảy đến.
Chia li là mọi thứ ta biết về thiên đường
Và mọi thứ ta cần từ địa ngục.
[1732]
My life closed twice before its close –
It yet remains to see
If Immortality unveil
A third event to me
So huge, so hopeless to conceive
As these that twice befell.
Parting is all we know of heaven,
And all we need of hell.
*
[1755]
Để tạo nên một thảo nguyên
Cần có cây cỏ ba lá và con ong
Một cây cỏ ba lá và một con ong,
Và sự mơ mộng.
Chỉ cần sư mơ mộng là đủ,
Nếu thiếu ong.
1755
To make a prairie
it takes a clover and one bee,
One clover, and a bee,
And revery.
The revery alone will do,
If bees are few.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét