Thứ Ba, 28 tháng 5, 2024

THƠ Emily Dickinson





[87]
Một nỗi sợ thót tim, một tia lấp lánh, một giọt nước mắt
Thức dậy vào một sớm mai
Tìm lí do người ta thức dậy,
Hít vào một bình minh khác.


[87]
A darting fear — a pomp — a tear —
A waking on a morn
To find that what one waked for,
Inhales the different dawn.

*


[280]
Tôi thấy một đám tang trong tâm trí,
Những người đến viếng tang đi tới đi lui
Rồi tiếng chân bước giậm, bước giậm mãi
Tới lúc dường như giác quan bị phá vỡ

Và khi tất cả họ đã ngồi xuống
Một nghi thức, như cái trống
Cứ gõ nhịp, gõ nhịp, cho đến khi
Thần thức tôi dường như trở nên tê liệt

Và sau đó tôi nghe thấy họ nhấc cái hộp lên
Tiếng cọt kẹt xuyên qua linh hồn tôi
Một lần nữa, cũng với những đôi ủng chì,
Rồi không trung vang lên hồi chuông

Như thể cả bầu trời là một cái chuông,
Và tồn tại chỉ còn là cái tai,
Còn tôi, với sự câm lặng, như một giống loài xa lạ
Bị đắm, bơ vơ, chốn đây

Và rồi một tấm ván lí trí bị nứt gãy,
Và tôi rơi xuống, rơi xuống
Và tôi va vào một thế giới, mỗi lần lao xuống,
Và không còn biết gì nữa sau đó


[280]
I felt a Funeral, in my Brain,
And Mourners to and fro
Kept treading – treading – till it seemed
That Sense was breaking through –

And when they all were seated,
A Service, like a Drum –
Kept beating – beating – till I thought
My Mind was going numb –

And then I heard them lift a Box
And creak across my Soul
With those same Boots of Lead, again,
Then Space – began to toll,

As all the Heavens were a Bell,
And Being, but an Ear,
And I, and Silence, some strange Race
Wrecked, solitary, here –

And then a Plank in Reason, broke,
And I dropped down, and down –
And hit a World, at every plunge,
And Finished knowing – then –

*


[288]
Tôi vô danh! Còn bạn là ai?
Bạn cũng vô danh phải không?
À, vậy chúng ta là một cặp, đừng nói ra!
Họ sẽ tuyên dương chúng ta, bạn biết mà.

Làm người nổi tiếng chán lắm!
Phô trương như con ếch
Oang oang tên tuổi mình suốt ngày
Trước vũng lầy ngưỡng mộ!


[288]
I’m Nobody! Who are you?
Are you – Nobody – too?
Then there’s a pair of us?
Don’t tell! They’d advertise – you know!
How dreary – to be – Somebody!
How public – like a Frog –
To tell one’s name – the livelong day –

To an admiring Bog! 

*


[303]
Linh hồn tự chọn bạn lữ
Rồi đóng chặt cửa
Với cái đa số thần thánh
Từ đó không hiện diện nữa

Nàng không màng
Dù thấy cỗ xe ngựa nghênh đón
Trước cánh cổng thấp
Nàng thờ ơ
Cho dù hoàng đế có quỳ xuống
Trên tấm thảm

Tôi biết nàng từ một vương quốc đông dân
Nhưng nàng chỉ chọn một
Rồi mọi mối quan tâm khoá kín
Như bàn thạch


[303]
The Soul selects her own Society —
Then - shuts the Door -
To her divine Majority -
Present no more -

Unmoved - she notes the Chariots - pausing -
At her low Gate -

Unmoved - an Emperor be kneeling
Upon her Mat -

I've known her - from an ample nation —
Choose One -
Then - close the Valves of her attention —
Like Stone -

*


[306]
Những khoảnh khắc siêu việt của linh hồn
Xảy ra với linh hồn đơn độc
Khi bạn hữu và mọi việc trần thế
Đã mất hút vào trong vô tận

Hoặc chính linh hồn đã thăng thiên
Tới một đỉnh cao xa vời vợi
Vượt ngoài tầm nhận thức thấp hơn
So với linh hồn toàn năng

Sự siêu thoát phàm trần này
Thật hiếm có – nhưng cũng tuyệt vời
Như sự hiện hình – phụ thuộc vào
Quyền thống lĩnh trên không

Cái vĩnh hằng được khải thị
Cho một thiểu số được ưu ái
Về cái bản thể phi thường
Của sự bất tử


[306]
The Soul’s Superior instants
Occur to Her – alone –
When friend – and Earth’s occasion
Have infinite withdrawn –

Or She – Herself – ascended
To too remote a Height
For lower Recognition
Than Her Omnipotent –

This Mortal Abolition
Is seldom – but as fair
As Apparition—subject
To Autocratic Air –

Eternity’s disclosure
To favorites—a few—
Of the Colossal substance
Of Immortality 
*


[441]
Lá thư này tôi gửi cho thế giới
Thế giới chưa bao giờ viết cho tôi –
Những thông điệp dung dị Mẹ Thiên Nhiên đã nói
Bằng sự uy nghi nhu mì

Thông điệp của Người được kí thác
Vào những bàn tay nào tôi chẳng biết –
Vì tình yêu Người, hỡi những đồng hương dịu dàng
Hãy phán xét tôi thật từ tâm


[441]
This is my letter to the World
That never wrote to Me—
The simple News that Nature told—
With tender Majesty

Her Message is committed
To Hands I cannot see—
For love of Her—Sweet—countrymen—
Judge tenderly—of Me

*


[449]
Tôi chết vì Cái Đẹp
Nhưng còn chưa quen trong mộ phần
Một người chết vì Sự Thật
Nằm ở gian phòng kế bên
Anh khe khẽ hỏi vì sao tôi chết?
Tôi đáp, “Vì Cái Đẹp”
“Còn tôi, vì Sự Thật – chúng tự thân là một
Vậy chúng ta là anh em”, anh nói
Và như thế, như người thân gặp nhau trong màn đêm
Chúng tôi trò chuyện gián cách hai gian phòng
Cho tới khi rêu mọc trên môi
Và phủ kín tên của chúng tôi

[449]
I died for Beauty - but was scarce
Adjusted in the Tomb
When One who died for Truth, was lain
In an adjoining Room -
He questioned softly "Why I failed"?
"For Beauty", I replied -
"And I - for Truth - Themself are One -
We Brethren are", He said -
And so, as Kinsmen, met a Night —
We talked between the Rooms -
Until the Moss had reached our lips -
And covered up - Our names – 

*


[511]
Giả sử anh đến vào mùa thu,
Em sẽ quét đi mùa hè
Với nửa nụ cười nửa hắt hủi,
Như bà nội trợ xua một con ruồi

Giả sử một năm nữa gặp anh,
Em sẽ cuộn mỗi tháng thành quả bóng
Và đặt chúng vào từng ngăn kéo riêng,
Cho tới đúng kì hẹn.

Nếu như hàng thế kỉ bị trì hoãn,
Em sẽ đếm chúng trên bàn tay,
Cứ bớt mãi tới khi từng ngón tay em rơi xuống
Vào vùng đất hoang liêu.

Nếu chắc rằng, sau khi kiếp sống này chấm dứt
Anh và em gặp được nhau
Em sẽ vứt bỏ cuộc đời như một mảnh vỏ,
Và ôm lấy vĩnh hằng.

Nhưng giờ đây, không thể nào biết
Đôi cánh dài bất định của thời gian
Như con ong tinh quái giày vò,
Chẳng biết nó sẽ đốt khi nào.


[511]
If you were coming in the fall,
I ’d brush the summer by
With half a smile and half a spurn,
As housewives do a fly.

If I could see you in a year,
I ’d wind the months in balls,
And put them each in separate drawers,
Until their time befalls.

If only centuries delayed,
I ’d count them on my hand,
Subtracting till my fingers dropped
Into Van Diemen’s land.

If certain, when this life was out,
That yours and mine should be,
I ’d toss it yonder like a rind,
And take eternity.

But now, all ignorant of the length
Of time’s uncertain wing,
It goads me, like the goblin bee,
That will not state its sting. 

*


[712]
Bởi tôi không thể dừng lại chờ Tử thần
Ngài đã ân cần dừng lại đón tôi
Trên cỗ xe chở chỉ hai chúng tôi
Cùng sự Bất tử

Chúng tôi đi chậm rãi – ngài không vội vàng
Và rồi tôi cất đi
Mọi công việc lẫn sự nghỉ ngơi của mình,
Vì sự nhã nhặn của ngài

Chúng tôi đi ngang qua trường học, vào giờ giải lao
Lũ trẻ tạo một vòng tròn trò chơi
Chúng tôi băng qua cánh đồng lúa chín
Chúng tôi băng qua bóng hoàng hôn

Đúng hơn, bóng hoàng hôn băng qua chúng tôi
Sương đọng run rẩy và ướt lạnh
Vì chiếc áo choàng tôi mặc mỏng như lụa
Chiếc khăn quàng thì mềm như tơ

Chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà
Nó dường như nhô lên từ mặt đất
Hầu như không thể thấy mái
Gờ thì chôn trong lòng đất

Kể từ đó, hàng thế kỉ trôi qua
Nhưng cảm thấy ngắn hơn một ngày
Cũng là dự đoán ban đầu của tôi
Đầu ngựa hướng tới cõi Vĩnh hằng

[712]
Because I could not stop for Death –
He kindly stopped for me –
The Carriage held but just Ourselves –
And Immortality.

We slowly drove – He knew no haste
And I had put away
My labor and my leisure too,
For His Civility –

We passed the School, where Children strove
At Recess – in the Ring –
We passed the Fields of Gazing Grain –
We passed the Setting Sun –

Or rather – He passed Us –
The Dews drew quivering and Chill –
For only Gossamer, my Gown –
My Tippet – only Tulle –

We paused before a House that seemed
A Swelling of the Ground –
The Roof was scarcely visible –
The Cornice – in the Ground –

Since then – 'tis Centuries – and yet
Feels shorter than the Day
I first surmised the Horses' Heads
Were toward Eternity –

*


[754]
Cuộc đời tôi - một khẩu súng đã nạp đạn
Dựng vào một góc tường, cho đến một ngày
Chủ nhân đi ngang - nhìn thấy
Rồi mang tôi đi

Giờ chúng tôi lang thang trong rừng có chủ quyền
Giờ chúng tôi săn hươu nai
Mỗi lần tôi lên tiếng thay chủ nhân
Núi non đáp lời ngay

Và tôi nở nụ cười - tia sáng thân ái đó
Trong thung lũng rực sáng
Như khuôn mặt núi Vesuvius
Từng để khoái lạc của nó phun trào

Khi đêm xuống - một ngày đẹp hoàn tất
Tôi bảo vệ chiếc đầu của chủ nhân
Tốt còn hơn ngay cả khi chia sẻ
Chiếc gối lông vịt lún sâu mềm mại

Với kẻ thù của chủ nhân - tôi là kẻ thù chí tử
Không đợi tới khi hắn nhúc nhích
Tôi đã giáng con mắt vàng vào hắn
Hoặc nhấn mạnh ngón cái

Dù so với chủ nhân tôi có thể sống lâu hơn
Nhưng ngài hẳn phải sống lâu hơn tôi
Vì tôi chỉ có quyền giết
Mà không có quyền chết


[754]
My Life had stood - a Loaded Gun –
In Corners – till a Day
The Owner passed – identified –
And carried Me away –

And now We roam in Sovereign Woods –
And now We hunt the Doe –
And every time I speak for Him
The Mountains straight reply –

And do I smile, such cordial light
Upon the Valley glow –
It is as a Vesuvian face
Had let its pleasure through

And when at Night – Our good Day done –
I guard My Master’s Head –
‘Tis better than the Eider Duck’s
Deep Pillow - to have shared –

To foe of His – I’m deadly foe –
None stir the second time –
On whom I lay a Yellow Eye –
Or an emphatic Thumb –

Though I than He – may longer live
He longer must – than I –
For I have but the power to kill,
Without – the power to die -

*
[887]
Chúng ta không mặc vừa tình yêu
như những thứ khác
Và cất nó vào trong ngăn kéo
Cho tới khi có màn trình diễn thời trang xưa
Như y phục mà ông bà ta đã mặc

[887]
We outgrow love like other things
And put it in the Drawer -
Till it an Antique fashion shows -
Like Costumes Grandsires wore.

*

[903]
Tôi giấu mình trong đoá hoa mình
Đoá hoa cài trên ngực người,
Người nào ngờ cũng đã cài tôi
Mà những thiên sứ đều biết.

Tôi giấu mình trong đoá hoa mình,
Hoa héo dần trong chiếc bình người,
Người nào ngờ, có thấu được tôi
Cơ hồ một nỗi niềm cô tịch.

[903]
I hide myself within my flower,
That wearing on your breast,
You, unsuspecting, wear me too --
And angels know the rest.
I hide myself within my flower,
That, fading from your vase,
You, unsuspecting, feel for me
Almost a loneliness.

*


[1045]
Thiên nhiên dùng màu vàng
Hiếm hơn những sắc màu khác
Vì màu vàng dành hết cho hoàng hôn
Hào phóng màu xanh lam
Lãng phí đỏ son như đàn bà
Thiên nhiên ban màu vàng
Thật dè sẻn và chọn lọc
Như những lời của người yêu

[1045]
Nature rarer uses Yellow
Than another Hue.
Saves she all of that for Sunsets
Prodigal of Blue
Spending Scarlet, like a Woman
Yellow she affords
Only scantly and selectly
Like a Lover's Words 

*

[1068]
Xa hơn tiếng chim hót mùa hè,
Cảm thương chốn cỏ hương đồng nội,
Một vương quốc nhỏ đang cử hành
Một thánh lễ kín đáo lặng lẽ

Chẳng hề thấy một nghi lễ nào
Mà xiết bao ân điển du dương
Đã trở nên một phép chiêm niệm,
Nỗi tịch mịch càng thêm bao la.

Vào giữa trưa rất mực cổ kính
Khi tháng Tám leo lét lụi tàn,
Trỗi lên bài thánh ca chiều u linh,
Biểu hiện cho sự yên nghỉ.

Lời nguyện cầu vẫn chưa tắt lịm
Không một nếp nhăn trên vầng sáng
Thế nhưng một sự biến hoá kì diệu*
Giờ đã thăng hoa vào cõi tự nhiên.


[1068]
Further in Summer than the Birds
Pathetic from the Grass
A minor Nation celebrates
Its unobtrusive Mass.

No Ordinance be seen
So gradual the Grace
A pensive Custom it becomes
Enlarging Loneliness.

Antiquest felt at Noon
When August burning low
Arise this spectral Canticle
Repose to typify

Remit as yet no Grace
No Furrow on the Glow
Yet a Druidic Difference
Enhances Nature now.

*


[1147]
Sau một trăm năm,
Còn ai biết nơi này
Chốn xưa tang thương,
Im lìm tựa như bình yên.

Cỏ dại mọc đắc thắng,
Những người lạ dạo quanh
Nhẩm đọc tên mộ chí
Cô độc của tiền nhân.

Gió đồng hoang mùa hè
Hồi tưởng nẻo xưa,
Bản năng nhặt chìa khoá
Mà kí ức đánh rơi.

[1147]
After a hundred years
Nobody knows the place,—
Agony, that enacted there,
Motionless as peace.

Weeds triumphant ranged,
Strangers strolled and spelled
At the lone orthography
Of the elder dead.

Winds of summer fields
Recollect the way,—
Instinct picking up the key
Dropped by memory.

*

[1263]
Không con tàu nào sánh được với cuốn sách
Đem ta tới những xứ sở xa xôi
Cũng không có tuấn mã nào đuổi kịp
Vó câu của một trang thơ

Đây là chuyến du hành
Ngay cả người nghèo nhất cũng khả thi
Mà không chịu phí tổn nào
Một cỗ xe đơn sơ xiết bao
Chở theo tâm hồn người

[1263]
There is no Frigate like a Book
To take us Lands away
Nor any Coursers like a Page
Of prancing Poetry–This
Traverse may the poorest take
Without oppress of Toll –
How frugal is the Chariot
That bears the Human Soul –

*




[1379]

Lầu đài dưới ao

Ếch bỏ lại đó

Nó nhảy lên khúc gỗ

Rồi cất giọng tuyên bố

Khán thính giả hai thế giới

                                                  Trừ tôi ra                                                  

Nhà hùng biện của tháng Tư

Hôm nay khàn giọng

Dưới chân ếch đeo găng

Nó không có tay

Miệng hùng hồn nổi bong bóng

Như bọt danh vọng

Trước tiếng vỗ tay

Khi phát hiện bạn đang rầu rĩ

Desmothenes biến mất

Vào làn nước xanh


His mansion in the pool
The Frog forsakes —
He rises on a Log
And statements makes —
 

His Auditors two Worlds
Deducting me —
The Orator of April
Is hoarse Today —

His Mittens at his Feet
No Hand hath he —
His eloquence a Bubble
As Fame should be —


Applaud him to discover
To your chagrin
Demosthenes has vanished
In Waters Green —

*



[1463]

Con đường mờ dần

Với bánh xe xoay vần

Một hồi thanh bích ngọc

Một dải son yên chi

Mọi đoá hoa trong bụi cây

Cùng ngẩng đầu ngước mặt 

Có lẽ, cánh thư ấy 

từ xứ Tunis

Trong hành trình ung dung 

một sớm mai


A Route of Evanescence,

With a revolving Wheel –

A Resonance of Emerald

A Rush of Cochineal –

And every Blossom on the Bush

Adjusts it’s tumbled Head –

The Mail from Tunis – probably,

An easy Morning’s Ride –

*


[1506]
Mùa hè ngắn hơn những mùa khác
Cuộc đời còn ngắn hơn mùa hè
Bảy mươi năm tiêu qua vèo
Như đồng đô la duy nhất

Giờ nỗi buồn lịch sự ở lại
Nhìn xem chúng ta hắt hủi nó
Có bằng như ghét bỏ niềm vui
Có bằng như giữ lại nó


[1506]
Summer is shorter than any one-
Life is shorter than Summer-
Seventy Years is spent as quick
As an only Dollar-

Sorrow-now-is polite-and stays-
See how well we spurn him-
Equally to abhor Delight-
Equally retain him-

*


[1544]
Ai không tìm thấy thiên đường dưới trần gian
Cũng sẽ không tìm thấy nơi thượng giới
Bởi các thiên sứ luôn thuê nhà làm xóm giềng chúng ta,
Bất kể chúng ta di chuyển tới đâu


[1544 ]
Who has not found the Heaven- below
Will fail of It above
For Angels rent the House next ours,
Wherever we remove


*


[1551]

Những kẻ lìa trần, bấy giờ

Họ biết phải đi đâu

Họ đến bên cánh tay phải của Chúa

Cánh tay đó giờ đã bị cắt cụt

Và không tìm thấy Chúa đâu


Sự từ bỏ đức tin

Làm cho hành vi trở nên nhỏ nhen

Thà là đốm lửa ma trơi

Còn hơn không có chút ánh sáng nào


[1551] 

Those—are about to die

Know where they went

They have come to the Right Hand of God—

Now the hand has been amputated

And God cannot be found—

 

The abandonment of faith

Make the behavior small—

Better than an ignis fatuus

Better than no light at all—

*


[1732]
Đời tôi đã khép hai lần trước khi đóng lại
Nhưng vẫn nấn ná chờ xem
Liệu cõi vĩnh cửu có hé lộ
Cho tôi biến cố thứ ba

Ôi lớn lao, vô vọng tư nghì
Như hai lần trước xảy đến.
Chia li là mọi thứ ta biết về thiên đường
Và mọi thứ ta cần từ địa ngục.


[1732]
My life closed twice before its close –
It yet remains to see
If Immortality unveil
A third event to me

So huge, so hopeless to conceive
As these that twice befell.
Parting is all we know of heaven,
And all we need of hell.

*

 


[1755]

Để tạo nên một thảo nguyên

Cần có cây cỏ ba lá và con ong

Một cây cỏ ba lá và một con ong,

Và sự mơ mộng.

Chỉ cần sư mơ mộng là đủ,

Nếu thiếu ong.


1755

To make a prairie

it takes a clover and one bee,

One clover, and a bee,

And revery.

The revery alone will do,

If bees are few.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét