Thứ Hai, 3 tháng 3, 2025

BÚT KÍ của Leonardo da Vinci

 Hà Vũ Trọng dịch



Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.
Ghi chú về văn bản:

Tập chọn lọc những trước tác của Leonardo do Irma Richter thực hiện, phát hành đầu tiên năm 1952, dựa trên bản dịch sang tiếng Anh do thân phụ bà là Jean Paul Richter, được phát hành thành hai tập, The Literary Works of Leonardo da Vinci năm 1883. Công trình của J. P. Richter là bản dịch toàn diện đầu tiên các trước tác của Leonardo sang tiếng Anh, và đồ sộ về tầm mức cũng như đóng góp vào việc học thuật về Leonardo. Khoảng 5.000 trang thủ cảo được viết ngược chiều từ phải sang trái (bởi Leonardo thuận viết tay trái) đã được duyệt lại. Các bản dịch được xắp xếp theo chủ đề trong hình thức có tổ chức để giúp có thể tiếp cận với hàng ngàn trang khác hẳn nhau. Tập chọn lọc của Irma Richter cũng được trợ giúp một phần qua bản dịch của Edward MacCurdy, The Notebooks of Leonardo da Vinci, phát hành năm 1938.    


______


LỜI ĐẦU

MỤC LỤC

CHƯƠNG I  KHOA HỌC CHÂN CHÍNH                                            

          I. Kinh nghiệm

          II. Lí tính và những quy luật tự nhiên

          III. Chứng minh toán học

          IV. Thực nghiệm

          V. Tìm kiếm tri thức chân chính

CHƯƠNG II  VŨ TRỤ                                                                    

I.  BỐN LOẠI NGUYÊN TỐ  

1. Nước

2. Nước và đất

a. Hồng thuỷ và vỏ sò. b. Sông ngòi và địa tầng  c. Địa trung hải

3. Nước và không khí

4. Đất, nước, khí, và lửa

5. Tiểu vũ trụ và đại vũ trụ 

6. Một tinh thần giữa những nguyên tố: trong những giới hạn của nó

7. Vòm trời                                       

         II. BỐN NĂNG LỰC TỰ NHIÊN                    

Những đề cương cho cuốn sách về cơ học lí thuyết

1. Trọng lượng

2. Cường lực và trọng lượng

3. Vận động

4. Vận động và trọng lượng

5. Vận động và cường lực

6. Động lực và chấn động

         III. CƠ HỌC

         Những đề cương cho các sách về cơ học ứng dụng    

         1. Ma sát

         2. Những công cụ để cân

         3. Đinh ốc                                                      

CHƯƠNG III  PHI HÀNH

          I. VẬN ĐỘNG TRONG GIÓ VÀ NƯỚC

          II. CẤU TẠO ĐÔI CÁNH CHIM

          III. BƠI LỘI VÀ PHI HÀNH

          IV. MÁY BAY

CHƯƠNG IV  NGHỆ THUẬT

I.  GIÁO TRÌNH HỌC TẬP CỦA HOẠ SĨ

1. Con mắt và ngoại hình của sự vật

     a. Năm giác quan  b. Con mắt  c. Phối cảnh

2. Bề mặt vật thể và ánh sáng

a. Cơ sở hình học    b. Ánh sáng và bóng và màu

3. Sự sống và cấu tạo của vật thể

a. Tỉ lệ  b. Cơ thể học và vận động của cơ thể  c. Sinh lí học  d. Lưỡi  e. Môi  f. Bào thai  g. Cơ thể học so sánh  h. Vải vóc  i. Thực vật học 

4. Biểu hiện của tinh thần

5. Bố cục

         II. SO SÁNH CÁC MÔN NGHỆ THUẬT

         1. Hội hoạ, âm nhạc, và thơ ca

         2. Thời gian và không gian

         3. Âm thanh và không gian

         4. Hội hoạ và điêu khắc

         III. LẬP ĐỒ ÁN KIẾN TRÚC

         IV. ĐỜI SỐNG CỦA HOẠ SĨ

CHƯƠNG V  CHUYỆN KỂ VÀ NGỤ NGÔN

CHƯƠNG VI  NHỮNG SUY TƯ VỀ NHÂN SINH

          I. ĐỜI SỐNG QUA ĐI

          II. ĐỜI SỐNG THÂN THỂ

          III. ĐỜI SỐNG TÂM LINH

          IV. VỀ CHÍNH QUYỀN

CHƯƠNG VII  HÀNH TRÌNH TRONG ĐỜI LEONARDO

I.  TUSCANY

II. THỜI KÌ ĐẦU Ở MILAN

         III. VENICE, FLORENCE, VÀ ROMAGNA

         IV.THỜI KÌ THỨ HAI Ở MILAN

V. ROME, AMBOISE

 

*


LỜI NÓI ĐẦU

 

Trong thời trẻ của mình ở Florence thời Phục hưng, Leonardo đã nhận thức hội hoạ là thiên chức cao quý nhất mở ra cho nhân loại và ông đã khởi đầu với nhiệt tình theo đuổi nó.

Không chỉ vẻ đẹp của tự nhiên mà còn cả vẻ đẹp tinh thần tác động dưới vẻ bên ngoài của thế giới đã khiến ông say mê. Kết hợp tính linh cảm của người nghệ sĩ với niềm khao khát tri thức của nhà khoa học, ông đã  phân tích những đối tượng của thị giác và phương thức vận hành của thị giác. Điều này đòi hỏi nghiên cứu về tự nhiên, cấu trúc và đời sống của nó. Khi ông xúc tiến thì mối quan tâm về khoa học tự nhiên càng sâu thêm. Ông dùng những phương pháp điều nghiên khoa học để xác định những quy luật của Tự nhiên và áp dụng chúng vào trong tác phẩm của mình. Ông tiến hành những nghiên cứu này không chỉ để vẽ những bức tranh được các nhà bảo trợ uỷ nhiệm mà còn để đạt được năng lực sáng tạo. Tác phẩm của ông thể hiện những hành động, cảm xúc; những gương mặt được khuôn đúc bằng đời sống bên trong. Những phong cảnh miêu tả việc hình thành nham thạch, sinh trưởng của thực vật, và vận động của nước.  

Leonardo thường sử dụng tri thức và kinh nghiệm của mình vào những mục đích thực tiễn. Như vậy, con người này, kẻ đã sáng tạo nên một số nghệ phẩm tuyệt diệu và cũng còn là vị tiền bối cho một thời đại mới trong khoa học và, luôn thể, là một kĩ sư dân sự và quân sự với những phát minh thể hiện dưới hình thức sơ bộ cho những nguyên lí cơ học hiện đại.

Ông có khả năng đạt được điều ấy chính vì ông là một nhà nghệ thuật. Trong thời đại ông, không có nhà khoa học chuyên môn nào thực hành qua thực nghiệm; còn những cách quan sát hiện tượng tự nhiên do Aristotle truyền xuống và những triết gia cổ đại khác tiếp tục hình thành nền tảng cho một tín điều được phê chuẩn bởi những nhà triết học Kinh viện, họ chỉ trích những phương pháp thực nghiệm là phá hoại và “vô học”. Nhưng là một nghệ sĩ, Leonardo đã tiến hành một phương hướng do kinh nghiệm thị giác hướng đạo. Trí năng của ông được tự do và dốc toàn tâm sức vào việc điều nghiên.

Đôi khi, ông nhận ra nguyên nhân những gì là thảm hoạ trí mạng có khả năng từ những quy luật phổ biến của tự nhiên gây ra. Có khi, ông phê phán mạnh mẽ tính vị kỉ cố hữu và độc ác của con người. Dần dần, thái độ của ông hướng tới thế giới trở nên cách biệt kì lạ và là một kẻ quan sát vô vị kỉ. Khi những nghi vấn nảy sinh trong tâm trí về tín niệm cổ xưa nào đó thâm căn cố đế, ông sẽ nêu ra trong bút kí. Nhưng vì ông không phải là nhà lí thuyết trừu tượng chủ ý thiết lập một hệ thống luận lí, cũng không phải là nhà khoa học hiện đại tập trung vào một tuyến điều nghiên đặc biệt nào, nhưng là một thiên tài “đại đồng” của thời Phục hưng chủ tâm sáng tạo nghệ thuật, ông nỗ lực đặt nền tảng khoa học tự nhiên của mình trên sự tiếp thu hệ thống triết học kế thừa từ tư tưởng Hi-lạp và tư tưởng Trung cổ, vốn nhận thức về thế giới như một vũ trụ có tổ chức tương ứng với một tác phẩm nghệ thuật; ông được bổ ích nhờ đó.

Đọc bút kí của ông, chúng ta có thể có thêm trực quan qua tư tưởng của ông. Ông thường mang theo bên mình những tập bút kí này để phác thảo những ấn tượng nhất thời hoặc chép xuống những ý tưởng nảy sinh bất chợt—những quan sát trong khi đi dạo và du hành, những phản ánh về các sự kiện và nhân vật, hoặc về những vấn đề rắc rối trong gia đình, về công việc, về đời sống nói chung. Những thủ bản còn sót lại bao gồm bản nháp thư tín, những miêu tả giàu và ngụ ngôn giàu tưởng tượng, những sơ thảo luận về thuỷ lực, luận về hội hoạ, về cơ thể học và về vận động của nhân thể, v.v... Nhưng chúng chỉ là những ghi chú. Thường thường, những nhận xét về những đề tài khác nhau được ghi vội trên cùng một trang, hoặc những tái xác định và giải minh về một ý tưởng và cùng ý tưởng nảy ra ở một trang khác. Những lời dưới đây viết trên trang đầu một bản thảo về vật lí học, miêu tả phương pháp viết của ông:

”Đây là một tập hợp không theo trật tự, rút ra từ nhiều trang, tôi chép lại ở đây, hi vọng sau này sắp xếp chúng theo đề tài mà chúng luận về; và tôi tin rằng tôi sẽ phải lập lại cùng một vấn đề nhiều lần; vì thế, xin độc giả đừng trách tôi, bởi đề tài thì nhiều, mà kí ức không thể nào kham được... hơn hết, là do những gián đoạn lâu dài giữa những lần viết.”

Ý định của Leonardo muốn phân loại các bút kí đã chẳng bao giờ được thực hiện. Cuốn sách này là nỗ lực muốn phối hợp một tập chọn lọc những đề tài quan tâm chung. Sự chọn lựa thường khó khăn vì ông thường bị lôi cuốn và phân tán bởi quá nhiều vấn đề, phụ thuộc vào tâm tình và những hoàn cảnh của ông. Chúng tôi đã tự giới hạn khi trích dẫn những ví dụ điển hình về những luận đề chính. Ba chương đầu bàn về khoa học và tự nhiên. Trong chương bốn, bình luận về hội hoạ được tóm lược và các vấn đề tồn tại dai dẳng của nghệ thuật được bàn luận. Chương năm gồm các trước tác về một loại văn học—chuyện kể, ngụ ngôn, cách ngôn; chương sáu đưa ra những phản ánh về đời sống. Trong chương cuối tham chiếu về những việc cá nhân của Leonardo và về tác phẩm của ông được sắp theo chuỗi biên niên, xâu chuỗi trên sợi chỉ thống nhất về cuộc đời ông, như một nhật kí. Ánh sáng rọi vào những hoàn cảnh ông đã sống, vào những biến cố và những nhân vật lịch sử đã ảnh hướng tới sự nghiệp ông.

 

Độc giả đừng hi vọng một tự sự liên tục và mạch lạc. Trong một số tình huống, việc sắp xếp văn bản phải bị “ngắt đoạn” (staccato). Leonardo đã không nhận mình là văn nhân và am hiểu văn học cổ điển như đa số tác giả trong thời đại ông. Với những tác gia đồng thời này trong tâm trí, ông khiêm tốn tự nhận mình là omo sanza lettere (người không biết chữ), nhưng đấy là sự hóm hỉnh thôi, vì ông hãnh diện về phương pháp của mình, bởi ông có những điều để nói vượt ngoài tầm của họ; và ông làm thế bằng ngôn ngữ trong sáng và cương nghị của dân Italia.      

Ngày nay, sau năm trăm năm, bút kí của Leonardo được coi là vô giá, và được đem vào trong tủ sách Kinh điển Thế giới của Ấn quán Đại học Oxford.   

Độc giả sẽ thấy ông nỗ lực biểu đạt tư tưởng của mình. Họ sẽ học để hiểu ông, và sẽ nhận ra một tính thống nhất tiềm ẩn. Vì những quan sát đa phương diện nảy sinh từ một tinh thần nhất quán. Cuộc đời của một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong thời Phục hưng của Ý, ở đây được tự hoạ bằng lời.

Vasari mở đầu tiểu sử về hoạ sĩ này rằng: “Đôi khi, trời gửi xuống cho chúng ta không chỉ một con người mà còn là thần thánh, vì thế qua tư tưởng và trí tuệ phi phàm của ông, chúng ta có thể vươn tới thiên đường.” Sống gần những tư tưởng lớn là sự giáo dục tốt nhất, và cũng là niềm hạnh phúc lớn với chúng ta. Mục đích cuốn sách này là cống hiến cho độc giả một cơ duyên như thế.

 

*

 

CHƯƠNG  I

KHOA HỌC CHÂN CHÍNH

 

Dự kiến của Leonardo về khoa học báo trước những phương pháp phê phán và kiến thiết của thời hiện đại. Ông xúc tiến từng bước. (1) Kinh nghiệm về thế giới quanh ta đạt được qua giác quan được xem như điểm xuất phát. (2) Lí tính và suy tưởng, tuy có liên kết với các giác quan, nhưng đứng trên và ở ngoài chúng, rút ra những quy luật vĩnh cửu và phổ biến từ những kinh nghiệm nhất thời và cá biệt. (3) Những quy luật phổ biến này phải được chứng minh bằng chuỗi luận lí giống như những mệnh đề toán học, và cuối cùng (4) chúng phải được trắc nghiệm và chứng thực bằng thực nghiệm, và rồi ứng dụng vào việc sản sinh ra những công trình tiện ích hoặc tác phẩm nghệ thuật căn cứ theo dự án. Chính vì mục đích của Leonardo nhờ có được tri thức để ông có thể đạt được năng lực và sản sinh ra những tác phẩm. Như vậy chân lí có thể được chứng thực. Ông đối lập với những hệ thống triết học thành lập chỉ bằng ngôn từ.

 

I.  KINH NGHIỆM


Độc giả, hãy suy xét! Chúng ta có thể tin cậy điều gì vào người xưa, họ đã cố gắng định nghĩa Linh hồn và Sinh mệnh là gì—vốn vượt ngoài chứng cớ—trong khi đó, bất kì điều gì có thể biết rõ và chứng minh bằng kinh nghiệm qua nhiều thế kỉ lại không được biết tới hoặc bị hiểu sai.

Nhiều người sẽ cho rằng họ có lí do trách cứ tôi, viện cớ những chứng cứ của tôi trái với quyền uy của một số nhân vật vô cùng đáng kính bởi những phán đoán thiếu kinh nghiệm của họ, mà không suy xét rằng những tác phẩm của tôi phát xuất từ kinh nghiệm giản dị, hiển nhiên và vốn là nữ chúa chân thật.   

Những quy luật này giúp cho bạn biết cái đúng khỏi cái sai—và điều này khuyến khích chúng ta chỉ tìm kiếm những sự việc trong khả năng và với tính trung dung thích hợp—và chúng cấm chỉ chúng ta dùng cái áo khoác ngu muội, vốn chỉ mang lại cho bạn sự vô kết quả và thất vọng buông mình cho nỗi buồn khổ.    

Tôi hoàn hoàn ý thức rằng thực tế tôi không phải là văn sĩ nên có thể là nguyên nhân cho một số người mạo muội lấy lí do trách cứ tôi, viện cớ rằng tôi là người vô học. Thật xuẩn ngốc! Họ không biết rằng tôi có thể trả đũa như Marius nói với những nhà quý tộc La-mã: “Những ai tô điểm bản thân mình bằng thành quả lao động của kẻ khác sẽ không cho phép tôi lấy làm thành quả của mình”.[1] Họ sẽ nói rằng, bởi vì tôi không có kiến thức sách vở, nên tôi không thể hiện được chính xác những gì tôi muốn trình bày—nhưng họ không biết rằng những chủ đề của tôi đòi hỏi sự khai giải bằng kinh nghiệm thay vì là ngôn từ của kẻ khác. Kinh nghiệm là chúa vương của bất cứ người viết văn nào; và cũng là nữ chúa mà tôi sẽ trích dẫn trong mọi trường hợp.

 

Tuy tôi không có sức trích dẫn những tác giả như họ, nhưng tôi sẽ trông cậy vào điều lớn lao hơn và giá trị hơn—kinh nghiệm, là nữ chúa chỉ đạo cho những của họ. Họ dương dương tự đắc và tô điểm không phải bằng thành quả lao động của họ, mà của người khác, mà họ còn không cho phép tôi dùng những lao động của chính mình. Và nếu họ khinh miệt tôi là nhà phát minh, họ đáng trách biết bao nhiêu vì họ không phải là những nhà phát minh mà chỉ là những kẻ thổi kèn và trích tụng tác phẩm người khác!

Những nhà phát minh và những nhà thông giải giữa Tự nhiên và Con người, nếu so sánh với những kẻ thổi kèn và trích tụng tác phẩm của người khác, thì chỉ đáng xem như một vật ở trước gương so với hình ảnh của nó thấy trong gương, một cái bản thân là thật, cái kia là hư không; những người mắc nợ với tự nhiên thì nhỏ nhoi, bởi họ chỉ ngẫu nhiên được phú cho hình hài con người, và chỉ với điều này, tôi có thể xếp loại họ vào những bầy thú.     

 

Xét rằng tôi không thể tìm ra bất cứ chủ đề nào ích lợi lớn hoặc thú vị, bởi những vị đi trước đã đem theo với họ mọi chủ đề ích lợi và thiết yếu, do sự nghèo nàn của mình, tôi sẽ làm như kẻ cuối cùng tới phiên chợ, vả lại, không thể tự chu cấp, nên chọn lấy tất cả mọi thứ mà người khác đã nhìn thấy và không lấy đi hoặc từ chối vì xem là ít giá trị; tôi sẽ chất lên cá túi đeo lưng khiêm tốn của mình những hàng hoá bị khinh rẻ và vứt bỏ, cùng những đồ vật bỏ lại của nhiều khách hàng; và tôi sẽ đi khắp nơi phân phát, không ở những đô thị lớn, mà ở những thôn xóm nghèo, và tôi sẽ nhận lấy sự đền đáp theo vật mà tôi cho xứng đáng là bao nhiêu

Những nhà tóm lược[2] (những tác phẩm) làm tổn hại tri thức và tình yêu, vì tình yêu với bất kì điều gì đều là con cái của tri thức, tình yêu càng nồng nhiệt tỉ lệ với tri thức thì càng chắc chắn bấy nhiêu. Và tính chắc chắn này phát sinh từ một tri thức trọn vẹn về mọi bộ phận vốn khi thống nhất sẽ hợp thành trọn vẹn cái vật đáng được yêu.   

Vậy, ích lợi gì đối với kẻ rút ngắn bộ phận của sự vật mà y tự cho là để đưa ra thông tin đầy đủ, cho nên đã loại bỏ phần lớn những thứ vốn kết hợp thành toàn thể. Cũng giống như tính thiếu kiên nhẫn, bà mẹ của rồ dại, nó ca tụng sự vắn tắt, như thể những kẻ ấy không sống lâu đủ để mà thủ đắc tri thức trọn vẹn về một bộ môn, chẳng hạn như nhân thể. Đã thế, họ muốn lĩnh ngộ tinh thần của Thượng đế vốn bao bọc toàn vũ trụ, họ cân đo và băm nhỏ ra thành những bộ phận vô hạn, như thể họ mổ xẻ nó. Ôi, sự ngu xuẩn của con người! Các người không nhận thấy đã phí cả đời với bản thân mình, mà còn chưa nhận ra điều mà các người chủ yếu sở hữu, đó chính là sự xuẩn ngốc? Cũng như vậy với đám nguỵ biện, các người tự huyễn gạt mình và người khác, khinh miệt những khoa học có cơ sở là toán học bao hàm thông tin chân thực về những bộ môn mà họ xử lí. Và rồi các người hân hoan bận rộn với những kì tích và viết lách, đưa thông tin về những điều mà trí óc con người không có khả năng, và không thể chứng minh bằng bất kì ví dụ nào từ tự nhiên. Và các người tưởng rằng đã tạo ra những kì tích trong khi các người lại làm hỏng công trình của một số đầu óc chân phương nào đó và không nhận thức rằng các người đang rơi vào cùng những sai lầm giống như kẻ tước bỏ khỏi cây những trang điểm cành nhánh trĩu lá lẫn với hoa quả thơm để mà chứng minh sự tiện ích của cây cho việc làm ra những tấm ván. Như Justinus[3] từng làm, ông đã rút ngắn sử kí của Trogus Pompeius, người đã viết bằng một văn phong hoa lệ tất cả hành vi vĩ đại của tổ tiên ông, đầy những mô tả đáng khâm phục và đẹp như tranh; với việc biên soạn một tác phẩm khô khốc như thế chỉ thích hợp cho những đầu óc thiếu kiên nhẫn vì họ nghĩ rằng lãng phí thời gian, khi mà họ được bổ ích nếu dành nó để nghiên cứu những tác phẩm về tự nhiên và hành vi của con người.       

Tất cả tri thức bắt nguồn từ những tri giác của chúng ta.

Con mắt vốn được gọi là cửa sổ linh hồn, là khí quan chính nhờ đó việc nhận thức có thể được đầy đủ nhất và thưởng ngoạn dồi dào trước những tác phẩm vô hạn của tự nhiên.     

 

Kinh nghiệm quyết không sai lầm; chỉ có phán đoán của bạn sai lầm khi tự hứa hẹn những kết quả không được tạo bằng những thực nghiệm. Bởi vì, khi đưa ra một khởi điểm, những gì tiếp theo nó phải là những hệ quả thực sự nếu không có chướng ngại. Còn nếu có chướng ngại, thì cái kết quả đáng ra phải tuân theo ngay từ cái khởi đầu nói trên sẽ dự phần vào với chướng ngại này trong cấp độ hơn kém, cân xứng với chướng ngại này và ít nhiều mạnh mẽ hơn khởi điểm đã nói trên. Kinh nghiệm không sai lầm, chỉ có phán đoán của bạn sai lầm khi đặt kì vọng vào nó những cái không có trong năng lực của nó. Người ta sai khi than phiền về Kinh nghiệm và với những trách móc gay gắt và buộc tội nó dẫn họ đi lạc. Hãy để Kinh nghiệm một mình, đúng hơn, hãy hướng những than phiền chống lại sự ngu muội của chính mình, nó khiến bạn bị cuốn đi bởi những dục vọng vô ích và ngu ngốc khi kì vọng từ kinh nghiệm những cái vốn không nằm trong năng lực của nó; và cho rằng nó là sai lầm. Người ta sai khi than phiền về Kinh nghiệm ngây thơ, và buộc tội nó thường lừa gạt và chứng minh dối trá.   

Đối với tôi, gần như mọi ngành khoa học đều vô ích và đầy dẫy sai lầm nếu không được sản sinh từ Kinh nghiệm, người mẹ của mọi xác thực, và không được thử thách bằng Kinh nghiệm; nghĩa là, ngay từ đầu, giữa, hoặc kết, không được thông qua năm giác quan. Vì nếu chúng ta hoài nghi về tính xác thực của sự việc thông qua các giác quan, chúng ta còn chất vấn bao nhiêu thứ nữa dựa vào những cái mà các giác quan này nổi loạn, chẳng hạn như bản tính của Thượng Đế, linh hồn và những thứ tương tự, về những thứ đó, người ta không ngớt tranh luận và dị nghị. Và thật sự xảy ra rằng nơi đâu thiếu lí tính, nơi đó bị ồn ào chiếm cứ. Điều này chẳng bao giờ xảy ra khi sự việc được chắc chắn. Do đó, ở đâu có tranh cãi, ở đó thiếu khoa học chân chính; bởi chân lí chỉ có một cách kết luận—nơi nào chân lí được biết thì dị nghị bị câm tiếng cho đến muôn đời, còn nếu dị nghị vẫn cứ lại phát khởi, vậy thì những kết luận của chúng ta chắc hẳn thiếu chắc chắn và hoang mang chứ không phải chân lí được tái sinh.     

      Tất cả những khoa học chân chính là kết quả của Kinh nghiệm vốn đã kinh qua các giác quan, vì vậy làm im miệng lưỡi những kẻ tranh biện. Kinh nghiệm không nuôi dưỡng những nhà điều tra về những huyễn mộng, mà luôn xúc tiến từ những nguyên lí đầu tiên đã được quyết định chính xác, từng bước theo đúng trình tự chân thật đi tới kết luận; như có thể thấy trong những thành tố của toán học... Ở đây không ai cãi lại như 2 lần 3 là nhiều hơn hoặc ít hơn 6 hay không hoặc những góc của một tam giác là ít hơn 2 góc vuông hay không. Ở đây mọi tranh cãi kết thúc bằng sự im lặng vĩnh cửu và những ngành khoa học này có thể được hân thưởng bởi những người tận tuỵ với nó trong hoà bình. Điều này, những loại khoa học huyễn gạt thuần tuý tư biện không thể đạt được.

Hãy cảnh giác với lời dạy của những nhà tư biện này, bởi lí giải của họ không được Kinh nghiệm chứng thực.         

 

 

LÍ TÍNH VÀ NHỮNG QUY LUẬT CỦA TỰ NHIÊN

 

Những giác quan là thuộc đất; lí tính đứng cách biệt khỏi chúng trong chiêm nghiệm.

Trí tuệ là con gái của kinh nghiệm.[4]

Kinh nghiệm, là nhà thông giải giữa tự nhiên hình thành và loài người, nó dạy rằng những gì mà tự nhiên này hành sự giữa nhân sinh bị ước thúc do tính tất yếu không thể vận hành bằng cách nào khác hơn là bằng lí tính, vốn là bánh lái của nó, và chỉ dẫn nó hành sự.

Đầu tiên, tôi sẽ kiểm tra bằng thực nghiệm trước khi xúc tiến xa hơn, bởi chủ ý của tôi là thăm dò kinh nghiệm trước và sau đó bằng việc lí giải cho thấy tại sao kinh nghiệm ấy buộc phải vận hành theo cách ấy. Và đây là quy tắc đích thực nhờ đó những ai phân tích những hiệu quả của tự nhiên phải xúc tiến: tự nhiên tuy khởi đầu bằng nguyên nhân và kết thúc bằng kinh nghiệm, nhưng chúng ta phải tiến hành ngược dòng, tức là, khởi đầu bằng phương tiện kinh nghiệm khảo sát đến nguyên nhân.

Ôi, tính tất yếu thần kì! Bằng lí tính tối cao, mi ước thúc mọi hiệu quả trở thành kết quả trực tiếp từ nguyên nhân của chúng, và bằng quy luật tối cao và bất khả kháng, mọi hành động tự nhiên phải phục tùng mi bằng tiến trình ngắn nhất khả dĩ.     

Tự nhiên không phá vỡ quy luật của Nàng; tự nhiên bị ước thúc bởi tính tất yếu luận lí của quy luật vốn tiềm tàng trong Nàng.         

Tính tất yếu là nữ chúa và hướng đạo của tự nhiên.

Tính tất yếu là chủ đề và là nhà phát minh của tự nhiên, là sự ước thúc và quy luật vĩnh cửu của nó.      

Tự nhiên đầy những nguyên nhân vô hạn chẳng bao giờ xảy ra trong kinh nghiệm.

Trong tự nhiên, không hiệu quả nào không có nguyên nhân; hiểu được nguyên nhân, bạn không cần tới thực nghiệm.

 

 

CHỨNG MINH TOÁN HỌC

 

Phương pháp Leonardo đề cử cho việc đệ trình kết quả khảo sát của ông phù hợp với hình học Euclid.

Việc trình bày phải được thực hiện theo trình tự luận lí. Đầu tiên là phát biểu về định lí, “mệnh đề”; rồi đến “thoái nhượng” hoặc “thỉnh nguyện”, tức là những định đề không yêu cầu hoặc không có được chứng cứ và phải được chấp nhận như thế thôi; sau đó việc kiểm tra chủ đề được xem xét.  

 

Những ai không phải nhà toán học xin chớ đọc những yếu tố trong tác phẩm của tôi.

Không có sự xác thực khi người ta không thể áp dụng bất kì khoa học có cơ sở toán học nào hoặc bất kì những gì gắn liền với các khoa học có cơ sở toán học.  

Bất cứ ai kết án tính xác thực tối cao của toán học thì ăn theo sự hỗn loạn, và chẳng bao giờ có thể làm yên những mâu thuẫn trong khoa học nguỵ biện và dẫn tới một loại rởm đời mãi mãi.

Khoa học là cuộc điều tra bằng tinh thần vốn khởi đầu bằng nguồn gốc tột cùng của một chủ đề, ngoài nó không gì trong tự nhiên có thể tìm thấy để hình thành một phần của đối tượng. Ví dụ, hãy lấy cái số lượng liên tục trong khoa hình học: nếu ta khởi đầu quan sát bề mặt một vật thể, chúng ta thấy rằng nó do những tuyến mà thành, những tuyến biên giới của bề mặt. Nhưng chúng ta không để cho vấn đề ngừng ở đây, vì chúng ta biết rằng bản thân tuyến được quyết định bằng những điểm, và điểm là đơn vị rốt ráo và không có gì nhỏ hơn nữa. Vì vậy, điểm là khởi đầu trước hết của hình học, bất luận trong tự nhiên hoặc trong tâm trí con người, không gì có thể phát sinh điểm... Không có điều tra nào của con người có thể gọi là khoa học chân chính mà không đi qua những trắc nghiệm của toán học; và nếu bạn nói rằng những khoa học khởi đầu và kết thúc trong tâm trí chứa đựng chân lí, điều này không thể nhượng bộ được và bằng mọi lí do phải bị chối bỏ. Trước tiên và trên hết là vì trong những luận thuyết tinh thần, kinh nghiệm không có nhập vào, không có nó thì không gì tự mở phơi với tính chắc chắn.

Quy cách về những gì tôi yêu cầu nên coi là đương nhiên trong những chứng minh của tôi về phép phối cảnh. Tôi yêu cầu, hãy coi là đương nhiên khi mọi tia sáng đi qua không trung đều cùng loại và đi bằng những đường thẳng tuyến từ nguồn sáng chiếu tới những vật thể mà nó dội lại.

Ở đây, bạn phải xúc tiến theo phương pháp; đó là, bạn phải phân biệt giữa những thành phần khác nhau của mệnh đề, để cho không có hoang mang gì và bạn được hiểu rõ.

Hãy lo liệu những ví dụ và những chứng cứ đưa ra trong tác phẩm này được định nghĩa trước khi bạn viện dẫn.

 

 

IV. THỰC NGHIỆM

Nhưng trước khi bạn đặt một quy luật lên trường hợp này, hãy trắc nghiệm nó hai hoặc ba lần và xem những trắc nghiệm sản sinh ra cùng hiệu quả hay không.

Việc thực nghiệm này nên được làm nhiều lần sao cho không có sự ngẫu nhiên có thể xảy ra làm trở ngại hoặc làm sai lệch chứng cứ này, vì thực nghiệm có thể sai lầm dù nó có huyễn gạt người điều tra hay không.

Khi bạn kết hợp khoa học về sự vận động của nước, hãy chú ý bao gồm trong mỗi mệnh đề tính ứng dụng và công dụng của nó, để những khoa học này không thành vô dụng.

Khoa học là thủ lĩnh, thực hành là chiến sĩ.

Hỡi những kẻ tư biện về mọi sự, đừng phô trương về việc hiểu sự vật mà tự nhiên thông thường mang lại; nhưng hãy vui mừng nếu các người biết kết quả của những thứ mà các người chế tạo ra.    

Những ai yêu việc thực hành mà thiếu khoa học thì giống như người thuỷ thủ đi lên con tàu mà thiếu báh lái hoặc la bàn, và y chẳng thể xác định được mình đang đi đâu.

Cơ học là thiên đường của khoa học về toán, bởi vì bằng phương tiện của nó người ta tới được thành quả của toán học.

 

 

V. TÌM KIẾM TRI THỨC CHÂN CHÍNH

THUẬT LUYỆN ĐAN

 

Leonardo khiển trách những nhà luyện đan (alchemist) khảo sát quá trình của tự nhiên thay vì kiếm tìm vàng. Những nhà hoá học thời kì đầu này hoạt động suốt thời Trung Cổ, họ đã lưu truyền một bộ phận văn học lớn lao, là nhân chứng cho sự cả tin và vô tri của những thời đó. Cho đến thời điểm có những người như Leonardo khởi đầu quan sát Tự nhiên vì mục đích để học những phương thức của nó, vẫn chưa thực sự có tiến bộ nào. Trích dẫn dưới đây những quan điểm khoa học hiện đại pha trộn với những huyễn tưởng thơ mộng thời Trung Cổ—vàng được coi là biểu trưng cho mặt trời, những cơ cấu tự nhiên được gọi là ‘nguyên tố’.

 

Tự nhiên có quan hệ với việc sản sinh ra những vật cơ bản. Tuy nhiên, con người từ những vật cơ bản này lại sản sinh ra vô số những hợp chất; mặc dù con người không có khả năng tạo ra được nguyên tố nào ngoại trừ một đời sống khác như chính y—đó là, con cái của y.

Những nhà luyện đan thời xưa sẽ là những chứng nhân cho tôi, họ chưa bao giờ bằng ngẫu nhiên hoặc bằng thực nghiệm mà thành công trong việc tạo ra một nguyên tố nhỏ nhất mà tự nhiên đã tạo ra; tuy nhiên, những nhà sáng tạo ra những hợp chất đáng được tán dương vô chừng vì sự hữu dụng của những sự vật được phát minh cho con người sử dụng, và thậm chí còn đáng tán dương hơn nếu họ không phải là những nhà phát minh ra những thứ tai hại như độc chất và những thứ khác tương tự để tàn phá đời sống hoặc tinh thần; đó là những thứ mà họ khó được miễn khiển trách. Hơn nữa, bằng nhiều việc nghiên cứu và thực nghiệm, họ tìm cách luyện ra không phải những sản phẩm thấp kém nhất của Tự nhiên nhưng là sản phẩm tuyệt hảo nhất, là vàng, đứa con chân chính của mặt trời, bởi trong hết thảy tạo vật, nó giống với măt trời nhất. Không có tạo vật nào bền vững hơn vàng. Vàng không sợ lửa huỷ diệt, mà lửa vốn có sức mạnh trên mọi tạo vật khác, hoá chúng thành tro, thuỷ tinh, hoặc khói. Và nếu như lòng tham tệ hại dẫn bạn tới những sai lầm ấy, tại sao bạn không đi tới những mỏ vàng do Thiên nhiên sản sinh, và ở đó bạn trở thành môn đệ của Nàng? Tự nhiên sẽ thành tâm chữa căn bệnh điên rồ cho bạn, và cho bạn thấy rằng trong lò luyện của bạn không có thứ gì thuộc vào những thứ mà Nàng dùng để sản sinh ra vàng. Ở đây không có thuỷ ngân, không có loại lưu huỳnh nào, không có lửa cũng không có nhiệt nào khác hơn bằng những thứ của Thiên nhiên ban đời sống cho thế giới chúng ta; và Nàng sẽ cho bạn thấy những mạch vàng [kim thạch] toả khắp lam ngọc, và màu sắc của nó không bị hoả lực biến đổi. 

Và hãy kiểm nghiệm kĩ chi nhánh này của vàng và bạn sẽ thấy những cực độ liên tục bành trướng bằng chuyển động chậm, và chuyển hoá thành vàng với bất kì thứ gì nó tiếp xúc; chú ý trong đó bao hàm một cơ quan sống động, đấy là thứ mà năng lực của bạn không thể tạo được.    

 

Trong mọi kiến giải của con người, điều xuẩn ngốc nhất là tin vào thuật chiêu hồn (necromancy), đứa em của thuật luyện đan. Nhưng nó lại dễ lĩnh hội hơn thuật luyện đan bởi nó chẳng bao giờ đẻ ra bất kì thứ gì trừ những thứ giống nó, ấy là, những dối trá; điều này không xảy ra trong thuật luyện đan mà chức năng không thể thi hành bởi chính tự nhiên, vì trong luyện kim không có những khí quan hữu cơ để tác động công việc nên con người phải thực hiện bằng đôi tay mình, với việc lợi dụng nó, con người đã làm ra thuỷ tinh, và những thứ khác... Còn thuật chiêu hồn, ngọn cờ, cái phướn phất theo gió, bảng chỉ đường của đám đông ngu xuẩn, và không ngớt chứng kiến những tác dụng vô hạn của cái kĩ xảo này; và họ trám đầy sách vở, tuyên bố rằng bùa mê và linh hồn có thể hoạt động, nói chuyện mà không cần miệng lưỡi, và có thể nói chuyện mà không cần những khí quan hữu cơ—thiếu nó, không thể nào có tiếng nói—và có thể nhấc những vật cực nặng và hô phong hoán vũ; và những kẻ đó có thể hoá thành mèo, sói và những cầm thú khác, tuy quả là những kẻ khẳng định những điều đó là những người đầu tiên hoá thành cầm thú. Vậy chắc là nếu thuật chiêu hồn này đã tồn tại, như được tin bởi những trí óc nông cạn, thì chẳng còn gì trên trần gian là quan trọng cho lắm như giữa việc hại và lợi với con người; nếu thực là có một kĩ xảo kiểu ấy về một uy lực khuấy động sự thanh tĩnh của không trung và biến nó thành bóng tối, để tạo nên những chớp sáng và gió với tiếng sấm kinh hồn và tia chớp xuyên màn đêm, và với bão tố dữ dội phá đổ những toà nhà cao và làm bật rễ cây rừng; và bằng những cơn bão này để lung lay quân đội, làm tan tác và đánh bại họ, và—quan trọng hơn cả điều này—để tạo ra những cơn bão tàn phá và do đó, tước đoạt mùa màng của người nông dân. Có phương pháp chiến tranh nào gây phương hại cho kẻ thù cũng như sức mạnh tước đoạt những thu hoạch của y? Có trận thuỷ chiến nào sánh được với những gì mà một kẻ khi khai chiến, y có thể ra lệnh cho gió và tạo ra cuồng phong làm chìm bất cứ hạm đội nào? Chắc chắn, kẻ nào chỉ huy được những lực lượng cường bạo như thế sẽ là chúa tể các quốc gia, và không có con người thông minh tài trí nào có khả năng chống trả những lực lượng huỷ diệt của y. Những kho tàng chôn giấu, những châu ngọc nằm dưới lòng đất, tất cả sẽ phơi bày với y. Mặc dù bất khả xâm phạm, không có cái khoá hay thành trì nào hữu dụng để cứu được ai đối với ý chí của một nhà chiêu hồn như thế. Y sẽ tự du hành trên không trung từ Đông sang Tây, và qua mọi thái cực của vũ trụ. Nhưng tại sao tôi lại còn phải bàn rộng thêm nửa về điều này? Có gì mà một nghệ nhân như thế không thể làm được? Hầu như không có, trừ việc tránh khỏi cái chết.       

Do đó, chúng ta đã giải thích một phần sự phá phách và công dụng của loại kĩ xảo như thế nếu nó có thật. Và nếu nó có thật, tại sao nó không duy trì với những kẻ rất mong muốn nó, mà lại không hề tôn kính một thần linh nào? Vì tôi biết có vô số kẻ, để thoả mãn thị hiếu của mình, họ có thể huỷ diệt Thượng Đế và toàn vũ trụ. Nếu kĩ xảo này chẳng bao giờ tồn tại, mặc dù quá cần thiết với họ, thì như thế nó chẳng hề tồn tại, và sẽ không tồn tại.  

Không thể có thứ gì đơn độc tự thân là nguyên nhân của sự sáng tạo ra nó; và những sự vật nào vốn thuộc tự thân đều là vĩnh hằng.



[1] Lời Marius nói với những công dân ở Sallust, Bellum Iugurthium.

[2] abbreviatori, danh xưng này để chỉ các thư kí làm việc trong phòng hồ sơ của Vatican. Trong thời gian Leonardo ở Rome, ông bị Vatican cản trở việc nghiên cứu về giải phẫu học. Ở đây có lẽ nhắc tới sự ngăn cản của họ.

[3] Iunianus Iustinus, sử gia La-mã vào thế kỉ thứ 2, người biên tuyển bộ thông sử do Pompeius Trogus viết trong thời đại Augustus. Cuốn sách này rất thông dụng trong thời Trung cổ.

 [4] Xem Dante, Thiên đường, ii, 94-96. ‘Kinh nghiệm, suối nguồn duy nhất từ đó các nghệ thuật khơi dòng’.


*


CHƯƠNG II

 

VŨ TRỤ

 

Trong thời đại của Leonardo, vũ trụ được nhận thức như là tác phẩm của đấng sáng tạo toàn năng và có mục đích. Bên trong một khối cầu bao la vạn tượng, bốn nguyên tố có những vùng đồng tâm được ấn định. Mặt đất chiếm tại trung ương. Bao quanh nó là nước; tiếp đến một tầng không khí; và rồi, bao vây toàn bộ, là lửa. Bốn nguyên tố này không yên nghỉ trong cõi riêng của chúng và không ngừng dao động và lấn vào những khu vực lân cận; và chính đặc tính của chúng cuốn hút chúng trở về nơi gốc—có thể gọi đó là định luật hấp dẫn. Leonardo đã lớn lên với quan niệm này dựa trên những truyền thống cổ đại và đã chấp nhận nó hoàn toàn; và vì ông đã tự học nên đôi lúc khó phân biệt ra đâu là những ghi chú biểu hiện tư tưởng độc sáng của ông hay đâu là những sao chép từ những sách tìm được trong suốt những cố gắng liên túc của ông đến với giác ngộ.

Tuy nhiên, khi lí giải hiện tượng, ông không tham khảo những tác nhân mang tính giả thuyết xa lạ, mà bằng chính những hoạt động của tự nhiên. Mặc dù đồng ý với một số lí thuyết ổn cố, ông bác bỏ những lí thuyết khác bằng phương pháp kinh nghiệm và thực nghiệm nghiêm nhặt của ông.             

Ông khởi sự kiểm tra những tương tác của bốn năng lực tự nhiên: tức là, trọng lực và cường lực, vận động và chấn động. Ông quan sát những năng lực này khi dòng tác động bên trong bốn nguyên tố, trong nhiệt mặt trời, và trong lửa, trong gió, trong sóng và dòng nước, trong hình thành vỏ quả đất, trong sinh trưởng của thực vật, trong năng lượng cơ bắp của người và động vật.

Ông xúc tiến việc thiết lập những quy luật điều hành sự giải phóng năng lực và truyền lực. Tại sao không kiểm soát năng lực này và lợi dụng nó vào công việc cơ giới.

Ông đã thí nghiệm với lực bẩy, lực kéo, lực đẩy, và va chạm. Những phát minh đa dạng là kết quả từ những nghiên cứu của ông. Tuy nhiên, điều ông nghĩ tới là con người có thể lạm dụng đặc quyền của mình để gây nên sự huỷ diệt. Hơn nữa, Thiên nhiên lẽ nào không nổi dậy phản kháng và gây ra tai hoạ hay sao? Phần đầu chương này gồm việc mô tả về thế giới vật lí theo hình dung của Leonardo. Trong phần 2, một số ghi chú của ông về năng lực và về cơ học lí thuyết được phối hợp. Phần 3 đưa ra một vài trong nhiều ghi chú của ông bàn về cơ học ứng dụng: về ma sát, về những dụng cụ cân, ròng rọc, bánh xe, đinh ốc, v.v... Những nỗ lực của ông muốn kiến tạo một máy bay được mô tả trong Chương III.  

   

 

I.                    BỐN LOẠI NGUYÊN TỐ

 

Anaxagora

 

Mọi vật đều từ mọi vật, mọi vật được tạo từ mọi vật, mọi vật có thể chuyển thành mọi vật khác; bởi vì cái tồn tại trong những nguyên tố được hợp thành bởi những nguyên tố ấy.

 

Cấu hình những nguyên tố

 

Về cấu hình những nguyên tố; đầu tiên, tôi phản đối những ai phủ định lối kiến giải của Plato, họ cho rằng nếu những nguyên tố này thâm nhập nhau trong hình thức mà Plato [trong Timaeus] đã quy cho, thì một khoảng chân không hẳn được tạo nên giữa nguyên tố này và nguyên tố kia. Tôi cho rằng điều này không đúng, vậy tôi chứng minh dưới đây, nhưng trước tiên tôi muốn đề xuất một số kết luận. Không cần thiết cho rằng những nguyên tố thâm nhập phải có kích thước tương xứng với mọi thành phần thâm nhập và bị thâm nhập. Chúng ta thấy rằng thuỷ cầu rõ ràng có độ sâu khác nhau từ bề mặt tới đáy; và nó không chỉ thâm nhập đất trong hình khối lập phương, mà còn trong hình bát giác, như Plato đưa ra; thế nhưng, khi nó thâm nhập và đất có vô số góc cạnh của đá và những lồi lõm khác nhau, thế nhưng lại không có khoảng chân không nào phát sinh giữa đất và nước; cũng vậy, không khí bao vây thuỷ cầu cùng sơn cốc vốn nhô trên phạm vi đó, và không có khoảng chân không nào còn lại giữa mặt đất và không khí, vì vậy hễ ai nói rằng một khoảng chân không phát sinh ở đó, thì nói một cách ngớ ngẩn..  

Với Plato, tôi đáp rằng bề mặt những cấu hình nguyên tố theo ông, không thể nào tồn tại. Mọi nguyên tố uyển chuyển và lỏng thì cần thiết có bề mặt hình cầu. Điều này được chứng minh bằng thuỷ cầu. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đưa những quan niệm và những kết luận nhất định. Rằng vật thể càng cao thì càng xa khỏi trung tâm thế giới, và vật thấp hơn thì gần hơn với trung tâm. Nước không di chuyển tự thân trừ phi nó hạ xuống và nó hạ xuống khi lưu hành. Bốn khái niệm này, kết hợp theo từng cặp, dùng để chứng minh rằng nước không tự thân lưu hành và có bề mặt cách đều nhau so với trung tâm của thế giới. Chúng ta nói về đại khối và không nói về giọt hay tiểu khối hấp dẫn nhau như mạt thép.

 

Các thể nguyên tố đều thống nhất và bên trong chúng không có trọng lực hoặc khinh lực. Trọng lực và khinh lực được sản sinh từ hỗn hợp các nguyên tố.

 

[Với bản vẽ về bốn vòng tròn hướng tâm bao quanh bốn nguyên tố và một quả cân đặt bên trên.]       

Tại sao quả cân không giữ nguyên vị trí của nó?

Nó không giữ nguyên vị trí bởi nó không có vật đỡ.

Nó sẽ di chuyển tới đâu? Nó sẽ di chuyển tới trung tâm. Tại sao không bằng những đường khác? Bởi trọng lượng không được nâng đỡ sẽ rơi xuống bằng đường ngắn nhất tới điểm thấp nhất là trung tâm thế giới. Và tại sao trọng lượng biết cách tìm ra đường ngắn như thế? Bởi nó không đi giống như một vật vô cảm giác và không đi quanh những hướng khác nhau.

 

Nguyên tố nước sẽ bị ngăn giữ trong những bờ sông đắp ụ và bờ biển. Vì thế, không khí bao quanh sẽ phải vây kín và tạo chu vi một kết cấu thổ nhưỡng gia tăng và càng phức tạp; và đại khối lượng đất này treo giữa nguyên tố nước và lửa sẽ bị cản trở và bị tước đi nguồn cung cấp độ ẩm cần thiết. Vì thế, những dòng sông sẽ cạn nước; đất tốt sẽ không còn nảy nở xum xuê; ruộng đồng không còn tô điểm bằng đám lúa nhấp nhô; tất cả động vật, không tìm thấy cỏ tươi đề ăn, sẽ bị diệt vong; thực phẩm sẽ thiếu đối với lũ sư tử và chó sói háu ăn cùng những thú săn mồi khác; và con người sau nhiều di dời tuyệt vọng sẽ buộc phải bỏ rơi sinh mạng mình, và nhân loại ngừng tồn tại. Theo cung cách này, mặt đất phì nhiêu và hoa lợi sẽ bị khô cằn và vô sinh; nhưng nhờ nước chứa trong lòng đất, và nhờ hoạt tính của thiên nhiên, nó sẽ duy trì trong một thời gian ngắn nữa theo quy luật sinh trưởng, cho tới khi không khí lạnh và loãng biến mất. Và rồi trái đất sẽ buộc phải chấm dứt với nguyên tố lửa và bề mặt của nó bị cháy thành than, và việc này sẽ kết liễu mọi thiên nhiên trên mặt đất.

 

     

I.  NƯỚC

Nước đối với Leonardo là mối hấp dẫn lớn. Ông xem nước như là động lực của vũ trụ và cho rằng có lẽ ông đã giải được những mầu nhiệm sáng tạo bằng việc nghiên cứu những quy luật vận động của nó qua đất và không khí.

Những bản vẽ và bản ghi nhớ rải rác trong khắp những thủ bản đề ngày tháng khác nhau cho thấy rằng chủ đề này thu hút sự chú tâm của ông ít nhiều có tính liên tục. Chúng ta có thể thấy ông đang đi dạo, bút kí trong tay, dọc bờ biển và đang trầm tư trước những đợt thuỷ triều lên và xuống, gió gợn mặt nước, sóng trào, cát xô dạt; hoặc có thể ông đang đứng bên bờ sông nhìn những dòng nước và xoáy nước, đang xem xét những lớp phù sa hai bên bờ sông; hoặc đang nấn ná bên ao tù nhìn vào những phản chiếu, ánh lấp lánh trên thảo mộc, và xem cá đùa ở dưới. Ông sẽ ném một viên đá vào nước lặng và so sánh những vòng tròn mãi lan rộng trên bề mặt với những sóng âm vang dội trong không trung. Lúc khác, có lẽ ông đang leo lên một sơn cốc để truy tìm nguồn một con suối trong khi quan sát thác nước và sự tán nghiền không ngừng của đá và sỏi. Những vỏ sò và những hoá thạch của biển tồn tại trong nội địa ở độ cao với tầng đất, đá khác nhau đem ông tới nhận thức về những dòng nước là những tác nhân chính trong việc hình thành bề mặt quả đất, và ông đã báo trước khái niệm về sự tiến hoá từng bước. Là một kĩ sư, ông khởi sự những đồ án về kênh đào, thuỷ lợi, hệ thống thoát nước và đưa sức nước vào những việc bơm, cưa, và xay nghiền. Là một kiến trúc sư, ông thiết kế các vòi nước phun và vườn cảnh. Là nhà nghệ thuật, ông thích đem vào trong bối cảnh những dòng suối quanh co qua những hình thành nham thạch, vì ông cho rằng người hoạ sĩ có thể miêu tả vừa hình tượng người vừa cảnh tự nhiên vô sinh, và con người phải được hình dung như là bộ phận hình thành của cuộc sáng tạo. Sự mô tả đầy tưởng tượng về trận Hồng thuỷ vẽ nên bức tranh về sức huỷ diệt của nguyên tố này. Ông cũng viết một cuốn sách luận về Tính chất của nước, và nó nằm trong phòng của ông khi Hồng y xứ Aragon tới thăm ông tại Amboise năm 1517. Một thủ cảo nhan đề “Luận về tự nhiên, trọng lượng và vận động của nước” hiện nay được bảo tồn dưới danh mục Leicester Codex (trong Sưu tập Bill and Melinda Gates).        

 

Nước là kẻ thúc đẩy của tự nhiên.

      Nước, vốn là khí chất sinh động của bộ máy địa cầu, tự thân lưu động bằng nhiệt lượng tự nhiên.  

 

Trước tiên hãy viết về tất cả nước, trong từng chuyển động, rồi mô tả tất cả tầng đáy của nó và những chất liệu khác nhau của chúng, luôn tham chiếu tới những mệnh đề liên quan tới những dòng nước được nhắc tới; và hãy sắp xếp tốt trật tự, nếu không, công việc này sẽ bị hỗn loạn. Hãy miêu tả mọi hình dạng mà nước khoác lấy từ hình sóng cực lớn tới hình sóng cực nhỏ, và những nguyên nhân của chúng.

 

 

Những phân chia của cuốn sách

 

Cuốn 1 về tính chất của nước

Cuốn 2 về biển

Cuốn 3 về sông ngầm

Cuốn 4 về sông

Cuốn 5 về tính chất của nước sâu

Cuốn 6 về những chướng ngại vật

Cuốn 7 về sỏi

Cuốn 8 về mặt nước

Cuốn 9 về những vật thể vận động trên mặt nước

Cuốn 10 về việc chỉnh đốn sông

Cuốn 11 về đường dẫn nước

Cuốn 12 về kênh đào

Cuốn 13 về máy thuỷ lực

Cuốn 14 về việc đưa nước lên

Cuốn 15 về những thứ bị nước tiêu huỷ

 

 

Từ trình tự cuốn sách về nước

 

Thuỷ triều lên và xuống có được gây ra do mặt trăng hay mặt trời hay không, hoặc do sự phá tan của bộ máy trái đất. Thuỷ triều lên xuống giữa các quốc gia khác với nhau ra sao.

Cuối cùng núi bị san bằng bởi nước ra sao, nhìn chúng gội rửa địa cầu che phủ và để lộ nham thạch, rồi bắt đầu vỡ vụn và nguôi dịu vừa bằng nhiệt lượng vừa bằng băng giá liên tục biến đổi thành đất trồng trọt. Nước xói mòn nền tảng và núi non sụt lở dần dần sụp đổ xuống sông... chính vì nguyên nhân sụp đổ này, những dòng nước dâng lên thành trận lụt và hình thành những biển lớn.    

Trong bão tố mãnh liệt, những đợt sóng quăng xuống mọi vật thể nhẹ ra sao và cuốn hút thật nhiều đất vào lòng biển, làm cho nước biển đục khắp một phạm vi lớn.    

Bằng cách nào mà những khối đá rời ở dưới chân thung lũng rộng và dốc, khi chúng bị những đợt sóng nhồi đã trở nên những viên tròn nhẵn, và nhiều vật thể cũng vậy khi bị sóng xô hay hút vào lòng biển.

Bằng cách nào mà sóng yên và trải rộng khắp những vùng nước lặng sóng trên đại dương khi mà những luồng gió phản hướng gặp nhau.

 

 

Trình tự của cuốn sách đầu tiên về nước

 

Trước tiên định nghĩa trọng lượng và độ sâu nghĩa là gì; và một nguyên tố này được định vị bên trong một nguyên tố khác ra sao. Tiếp đến, trọng lượng đặc và trọng lượng lỏng nghĩa là gì; nhưng trước tiên, trọng lực và khinh lực tự thân chúng là gì. Sau đó miêu tả tại sao nước chuyển động, và tại sao chuyển động của nó ngừng lại; rồi mô tả tại sao dòng nước trở nên nhanh hoặc chậm hơn.

 

Trong bốn nguyên tố thì nước đứng hàng thứ hai về trọng lượng và về tính lưu động. Nó không bao giờ yên cho đến khi hoà vào biển, nơi đó, khi không bị gió quấy nhiễu, tự nó tạo lập và duy trì bề mặt cách đều với trung tâm thế giới.

Nước sẵn sàng bốc lên bởi khí nóng trong màn hơi nước mỏng qua không trung. Khí lạnh khiến nó đóng băng. Tức là, khí nóng khiến nước vận động, khí lạnh khiến nó đóng băng, tính bất động làm hư thối nó. 

Nước là sự khuếch trương và khí chất của mọi cơ thể cần thiết cho sự sống. Thiếu nó, không gì bảo trì được hình thể. Bằng sự lưu nhập, nước kết hợp và tăng cường những cơ thể.  

Nước nhận vào mọi mùi, màu, và vị mà bản thân nó không có.

 

Nước, bằng trọng lượng của nó, là nguyên tố thứ hai bao quanh địa cầu, và một bộ phận của nó nằm ngoài thuỷ cầu sẽ nhanh chóng tìm cách quay về nơi gốc. Và nó càng dâng cao trên vị trí nguyên tố của nó thì sẽ hạ xuống nơi gốc với tốc độ càng nhanh. Những phẩm chất của nó là ẩm và lạnh. Chính vì tính chất của nó là luôn tìm những nơi nằm thấp khi không bị kiềm chế. Nó sẵn sàng bốc lên cao bằng hơi nước và sương, và biến thành mây, lại thành mưa rơi xuống bằng những thành phần li ti của mây tập hợp và tạo thành những giọt. Ở những cao độ khác nhau, nó mang nhiều hình dạng khác nhau, đó là nước hoặc tuyết hoặc mưa đá. Nó không ngừng bị nhồi do không khí chuyển động, và nó tự gắn liền với vật thể nào đã dễ bị khí lạnh tác động nhất, và nó mang mùi và vị dễ chịu.   

 

Không thể mô tả tiến trình vận động của nước trừ phi người ta trước tiên định nghĩa trọng lực là gì và nó được sản sinh và tiêu tan như thế nào...

Nếu toàn bộ biển nằm lên và tự nó chịu sức nặng lên đáy biển, thành phần của biển nằm trên thành phần của đáy biển; và khi nước có trọng lượng từ nguyên tố của nó sẽ đè nén và ép lên những vật thể nằm dưới đáy biển. Chúng ta thấy ngược lại; vì khi rong biển và cỏ mọc dưới những độ sâu đều không bị cong oằn hoặc bị nghiền nát dưới đáy này mà chúng rẽ qua nước một cách mau mắn như thể chúng đang mọc trong không khí. 

Vì thế, chúng ta đi tới kết luận này: tất cả những nguyên tố, dù chúng không có trọng lượng trong phạm vi của chúng, nhưng có trọng lượng ở ngoài phạm vi của chúng, nghĩa là, khi chuyển động hướng lên bầu trời, mà không phải hướng xuống trung tâm địa cầu. Bởi vì nếu một nguyên tố di chuyển tới trung tâm này, nó gặp một nguyên tố khác nặng hơn chính nó, mà thành phần mỏng nhất và nhẹ nhất đang tiếp xúc một nguyên tố nhẹ hơn chính nó, và thành phần nặng hơn được đặt gần nguyên tố cũng nặng hơn chính nó.

Năng lực đó tự cho thấy lớn hơn đối tượng bị đè nén ở mức đề kháng nhỏ hơn.  Kết luận này là phổ quát và chúng ta có thể ứng dụng đối với việc thuỷ triều lên xuống để chứng minh rằng mặt trời hay mặt trăng có sức đè nén mạnh hơn lên đối tượng của nó, tức là, trên thuỷ lưu, khi những dòng này độ sâu kém hơn. Do đó, những đầm nước cạn phải phản ứng mạnh với nguyên nhân của thuỷ triều hơn là những nơi cực kì sâu của đại dương.

Nước làm suy mòn những đỉnh núi cao. Nước vừa làm trơ trụi vừa di chuyển sơn thạch. Nước còn di đời những hải ngạn cổ khi nó nâng nền đáy biển lên bằng việc vun đất nó mang theo. Nước làm vỡ lở và phá huỷ những bờ cao. Ở đây, không sự ổn định nào có thể thấy được mà tính chất của nó lại không lập tức dẫn tới số không. Nước tìm kiếm qua những dòng sông ở mọi thung lũng dốc từ đó nó cuốn đi hoặc tích tụ thổ nhưỡng mới. Do đó, có thể nói rằng có nhiều sông ngòi qua đó tất cả nguyên tố nước này đã đi qua và đã nhiều lần trả biển về cho biển. Và không có bộ phận nào của mặt đất là quá cao vì biển đã ở ngay nền tảng của nó, và không có đáy biển nào là quá thấp vì những núi cao nhất đều có móng ở đó. Vì thế, nước khi thì đột ngột khi thì nặng nề, khi chua khi đắng, khi ngọt khi dày hoặc mỏng, có khi nó mang lại thiệt hại hoặc bệnh dịch, và rồi đem tới sức khoẻ, và cũng cả chất độc. Vì vậy, ta có thể nói rằng nước biến đổi thành nhiều tính chất tuỳ theo những địa phương khác nhau mà nó kinh qua. Như tấm gương biến hoá theo màu sắc vật thể, cũng thế nước biến hoá theo tính chất của nơi nó đi qua: ban sức khoẻ, gây tai hại, nhuận tràng, cầm máu, lưu huỳnh, muối, huyết tinh, ưu uất, ác liệt, giận dữ, đỏ, vàng, lục, đen, lam, trơn trượt, dày, mỏng. Khi thì mang tới hoả hoạn rồi dập tắt; khi ấm khi lạnh; khi mang đi xa rồi dìm xuống, khi đào trũng khi vun lên, khi giật xuống khi củng cố, khi đổ đầy rồi làm cạn, khi dâng cao và rồi đào sâu thêm, khi tăng tốc lực và rồi nằm im, có khi là nguyên nhân sống khi là nguyên nhân chết, khi sản sinh khi tước đoạt, khi nuôi dưỡng và có khi ngược lại, có khi mặn có khi nhạt, và có khi với những trận hồng thuỷ nhận chìm những thung lũng rộng lớn. Với thời gian, mọi thứ biến đổi. Có khi nó hướng lên phía bắc làm xói lở chân những bờ sông; khi thì lật nhào vào bờ sông đối diện phía nam; có khi nó chuyển hướng tới địa tâm để chiếm ngự ở dưới đáy vốn nâng đỡ nó; khi thì nó vọt lên sủi bọt và sùng sục hướng lên trời. Có khi nó hợp dòng cuộn thành vòng tròn, và có khi nó trải ra phía tây và cướp đoạt công lao trồng trọt của người nông dân, và rồi nó bồi đất lên bờ phía đông. Và như vậy, đôi lúc nó đào sâu và đôi lúc nó đổ đầy, cũng như khi thì lấy đi và khi thì bồi thêm. Như vậy, không ngừng nghỉ, nó mãi di dời và tiêu hao bến bờ của nó. Đôi khi nó cuồn cuộn và gầm lên cuồng nộ, đôi khi nó trong trẻo và thanh thản với dòng chảy hiền lành vui chơi giữa những đồng cỏ xanh tươi. Có khi nó từ trời rơi xuống bằng mưa hoặc tuyết hoặc mưa đá, có khi tạo thành những đám mây lớn đầy sương mù li ti. Có khi nó tự di chuyển, có khi bằng lực của những thứ khác; có khi nó nâng đỡ sự vật sinh ra nhờ độ ẩm có sinh khí, có khi hôi thối hoặc đầy mùi thơm tho. Không có nước, không gì tồn tại được. Có khi nó tắm trong khí nóng, hoà vào hơi nước để hỗn hợp với không khí, và được hút lên bởi nhiệt, nó lên cao tới vùng lạnh rồi nén lại với nhau do tính chất tương phản của nó, và những hạt li ti kết lại với nhau. Giống như bàn tay dưới nước bóp một miếng bọt bể đẫm nước khiến cho nước trong đó vuột qua những kẽ hở và xua phần còn lại ra khỏi vị trí bằng đợt sóng của nó, cũng thế với khí lạnh bị nén do độ nhiệt ẩm. Vì khi giảm thiểu sang hình thức cô đặc thì không khí bị nén trong nó thoát ra bằng lực thì bộ phận yếu nhất rồi xì ra như thể nó phát ra từ những ống bễ bị nén bởi một trọng lực không thể chịu nổi. Và như vậy, những đám mây nhẹ hơn trong những vị trí khác nhau hình thành những chướng ngại trong dòng theo luồng bị cuốn trôi.                                  

 

 

Sóng

 

Sóng là sự thoái hồi của va đập và nó sẽ lớn hơn hoặc kém hơn về tỉ lệ tuỳ vào sức va đập lớn hơn hoặc kém hơn. Một đợt sóng không bao giờ chỉ một mình mà trộn lẫn với nhiều đợt sóng khác không đều lên trên bờ là  nơi sóng sản sinh...       

Nếu bạn ném một viên đá vào trong cái ao với những bờ lồi lõm khác nhau, tất cả những đợt sóng sẽ đánh vào những bờ này đều thoái hồi hướng về điểm nơi viên đá va vào; và khi gặp những đợt sóng khác chúng không bao giờ ngăn cản dòng của nhau... một đợt sóng sinh ra trong cái ao nhỏ sẽ đi và nhiều lần trở lại vị trí nó phát sinh... chỉ có ở ngoài khơi, sóng tiến tới mà không cuộn lại. Trong những ao nhỏ thì cùng một đả kích sẽ sản sinh ra nhiều chuyển động tiến và thoái. Đợt sóng lớn hơn được bao trùm vô kể những đợt sóng khác vận động theo những hướng khác nhau; và những đợt sóng này sâu hay nông tuỳ theo lực phát sinh ra chúng... nhiều đợt sóng xoay theo những hướng khác nhau có thể được tạo nên giữa bề mặt và đáy tầng của cùng khối lượng nước đồng thời... mọi ấn tượng gây nên bởi những vật thể đập lên mặt nước có thể xâm nhập lẫn nhau mà không bị tiêu tan. Một đợt sóng không bao giờ xâm nhập vào một đợt sóng khác; mà chúng chỉ cuộn lại từ chỗ mà chúng va chạm.

Khi đợt sóng cuốn tới bờ biển bởi lực gió, nó hình thành một cái mô để đặt phần trên của nó vào đáy và xoay lại cho tới khi nó vươn tới vị trí nơi nó bị nhồi trở lại bởi một đợt sóng kế tiếp đến từ bên dưới rồi xoay và lật nó lại, và như thế lật đổ cái mô và đánh lưng lần nữa lên bờ biển như đã nói trên, và cứ thế tiếp tục nhiều lần, và giờ đây lăn lên bờ bằng chuyển động phần trên còn phần dưới thì nó rút ra khỏi bờ... Nếu nước biển trở về với đáy biển sau việc va đập lên bờ, vậy bằng cách nào nó mang theo được các con sò, các loài nhuyễn thể, ốc, và những thứ tương tự được vớt lên từ đáy biển rồi để chúng lại trên bờ? Chuyển động của những thứ này hướng tới bờ biển bắt đầu khi sự va đập của đợt sóng đang trút xuống gặp đợt sóng phản xạ, bởi vì những vật thể dâng lên từ đáy biển thường nhảy vọt vào trong đợt sóng theo hướng tới bờ, và những thể rắn được đưa lên trong cái mô rồi kéo chúng trở xuống biển; và cứ  thế chuỗi này tiếp tục cho tới khi bão bắt đầu yếu đi, và chúng được để lại từng bước một mỗi khi những đợt sóng lớn hơn vươn tới và kí gửi những chiến lợi phẩm mà chúng mang theo, và những đợt sóng sau không thể truy tới cùng dấu vết đó. Vì thế lưu lại những vật thể do biển cả ném lên.         

Một đợt sóng biển luôn vỡ tan ngay trước chân sóng, và thành phần đó của ngọn sóng sẽ thấp hơn so với trước đó là cao nhất.   

Chuyển động trôn ốc hoặc quay tròn của mọi thể lỏng thì nhanh hơn về tỉ lệ khi nó gần hơn tới trung tâm xoáy của nó. Đây là một thực kiện đáng chú ý, bởi vì vận động quay tròn thì chậm hơn nhiều khi nó tới gần với trung tâm của vật thể đang xoay quanh...

 

[Với bức vẽ cho thấy nước giống hình dạng làn tóc.] 

Hãy quan sát chuyển động của mặt nước, nó tương tự như thế nào với chuyển động của tóc gồm hai vận động—một đàng phụ thuộc vào trọng lượng của tóc, một đàng phụ thuộc vào hướng theo lôn tóc; như vậy, nước hình thành những xoáy tròn, một phần thuận theo động lực của dòng chủ lưu, và phần khác thuận theo chuyển động ngẫu nhiên và hồi lưu.  

 

Trung tâm của một thuỷ cầu cá biệt hình thành những hạt sương li ti, thường thấy trong dạng cực tròn rơi xuống trên lá cây; hạt sương nhẹ tới mức nó không bị dẹp ra trên địa điểm nó đậu, và nó gần như được không khí bao quanh hỗ trợ, vì thế bản thân nó không dùng bất cứ áp lực nào hoặc hình thành bất cứ cơ sở nào; và bởi điều này, bề mặt của nó hướng tới trung tâm với lực bằng nhau từ mọi phía; và như thế mỗi phần tìm gặp nhau với dẫn lực bằng nhau và chúng trở nên hấp dẫn nhau, với kết quả là mỗi giọt cần thiết trở thành hình cầu hoàn hảo, hình thành trung tâm của nó ở giữa, cự li đều nhau từ mỗi điểm của bề mặt và chúng hút nhau như nam châm, và khi nó bị kéo cùng mức độ bởi mỗi phần trọng lực, nó luôn đặt bản thân nó vào trung điểm giữa những phần đối ngịch với trọng lượng bằng nhau. Nhưng khi trọng lượng của hạt nước này tăng lên, trung tâm của bề mặt hình cầu lập tức rời bỏ thành phần nước đặc thù này, và di chuyển tới trung tâm chung của hình cầu; và trọng lượng giọt nước này càng tăng, thì trung tâm của đường cong tiếp cận hướng tới trung tâm của thế giới.   

 

Nếu một giọt nước rơi vào biển khi biển lặng, nó nhất thiết phải tuân theo toàn bộ mặt biển là dâng cao một cách tinh vi, bởi vì nước không thể bị nén vào như không khí.      

 

 

NƯỚC VÀ ĐẤT

 

Bề mặt của thuỷ cầu không ra khỏi chu vi của nó quanh trung tâm của thế giới vốn bao vây ở cự li đều. Và nó sẽ không di chuyển khỏi sự cách đều này nếu địa cầu, vốn chống đỡ và là bình chứa nước, không dâng lên ở trên nó, và xa khỏi trung tâm thế giới.

Địa cầu được di chuyển khỏi vị trí bằng trọng lượng của một con chim nhỏ đậu xuống nó.

Bề mặt của thuỷ cầu được di chuyển bằng một giọt nước nhỏ rơi vào nó.

Nước thiết yếu phải có nhiều hơn đất, và thành phần của biển nhìn thấy được không cho thấy điều này; vì thế ắt phải có nhiều nước nằm trong lòng đất, ngoài ra, còn có cái bốc lên khí thấp và cái chảy qua sông, qua suối.

Trong mọi nguyên nhân huỷ diệt tài sản của con người, đối với tôi, những dòng sông giữ vị trí quan trọng nhất vì những tràn ngập quá độ và cuồng bạo. Nếu có ai muốn dùng lửa để chống cự cơn giận dữ của những trận hồng thuỷ, tôi cho rằng, y hẳn là thiếu sức phán đoán, vì lửa sẽ suy yếu và tắt khi nhiên liệu cạn, nhưng chống cự lại sự tràn ngập không thể vãn hồi  gây ra do những dòng sông dâng lên và cao mạn thì không còn giải pháp tiên liệu nào của con người có thể hữu hiệu; vì một loạt những đợt sóng dữ và cuồn cuộn làm sạt lở những bờ cao, trở nên đục ngầu do đất từ ruộng đồng đã cày xới, phá huỷ nhà cửa và bật rễ những cây cao, nó mang theo những thứ này cùng với nạn nhân của nó ra biển vốn là nơi ẩn trốn của nó, mang theo con người, cây cối, động vật, nhà cửa và đất đai, quét sạch mọi đê điều và mọi loại rào chắn, và mang theo những vật nhẹ, tàn phá và huỷ diệt những vật nặng, gây ra sự lở đất lớn từ những rãnh nứt nhỏ, lũ lụt ngập những thung lũng thấp, và ồ ạt ập đến với khối lượng nước phá huỷ và không thể ngăn chặn. Kẻ nào cận kề thì chỉ cần có cánh là bay lên!

Ôi, bao nhiêu thành phố, bao nhiêu đất đai, lầu đài, dinh thự, và nhà cửa bị tiêu tán!

Bao nhiêu công lao của nông dân bất hạnh trở nên vô ích và vô lợi! Bao nhiêu gia đình tan nát và chìm ngập! Tôi biết nói gì về những đàn gia súc chết đắm và mất tích! Và thường thường từ những đáy biển cổ đại lởm chởm đá phun ra và quét đi ruộng đồng đã trồng trọt...


(a)               Hồng thuỷ và vỏ sò

 

Bởi vì sự vật cổ xưa hơn văn tự, nên không lấy làm lạ nếu trong thời đại chúng ta không có ghi chép nào tồn tại về những vùng biển này đã bao bọc nhiều xứ sở như thế nào; vả lại, nếu loại ghi chép như thế từng tồn tại, thì chiến tranh, hoả hoạn, hồng thuỷ, những thay đổi về ngôn ngữ và pháp luật, đã tiêu huỷ mọi vết tích của quá khứ. Nhưng chúng ta lại có đủ chứng từ về sự vật đã sản sinh trong nước mặn và tìm thấy lại trong những núi cao, xa khỏi những vùng biển ngày nay.

Trong tác phẩm này của bạn, đầu tiên bạn phải chứng minh rằng những vỏ sò ở độ cao một ngàn thước Ý (braccia) đã không được mang lên đó bởi cơn Hồng thuỷ, bởi chúng được thấy ở một mức độ và cùng mức độ, và nhiều quả núi được thấy lên cao trên mức độ đó một cách đáng kể; và muốn điều tra rằng trận Hồng thuỷ là do mưa gây ra hay do biển dâng lên; và sau đó bạn phải cho thấy bằng cách nào, không phải do mưa khiến sông dâng lên, cũng không phải do sự ngập lụt của biến khiến cho vỏ sò, là những vật nặng, được biển cuốn lên núi hoặc do sông mang lên đó ngược với những dòng chảy của chúng.

Giờ đây bạn phải chứng minh rằng vỏ sò không thể phá sinh nếu không ở trong nước mặn, mà hầu như tất cả thuộc loại đó; vỏ sò ở Lombardy đều ở bốn mức độ, và như vậy nó ở mọi nơi, được làm ra vào những thời đại khác nhau. Và chúng tất cả phát sinh trong những thung lũng mở hướng ra biển.

 

 

Vỏ sò và nguyên nhân hình dạng của chúng 

Sinh vật trú bên trong vỏ sò tạo căn nhà của nó bằng những khớp, đường nối và mái che cùng những bộ phận khác nhau, giống như con người trong ngôi nhà của mình; và sinh vật này mở rộng căn nhà và lợp mái dần dần khi thân thể tăng trưởng vì nó gắn với những cạnh của vỏ. Do đó, độ sáng và độ nhẵn của những con sò này ở bên trong hơi bị mòn ở điểm chúng gắn với sinh vật trú trong đó, và khoảng hốc thì nhám, để tiếp nhận việc những cơ bắp đan chặt chẽ với nhau là phương tiện nhờ đó sinh vật tự thu mình ở trong khi nó muốn đóng căn nhà lại. Còn nếu bạn muốn nói rằng vỏ sò được thiên nhiên sản sinh nơi những quả núi này nhờ chịu ảnh hưởng của tinh tú, vậy bạn sẽ phải cho thấy với cách nào mà ảnh hưởng này sản sinh ra ở cùng một địa điểm những vỏ sò có kích thước và thời đại khác nhau, và có nhiều loại?    

 

 

Sỏi 

Và bạn sẽ giải thích ra sao với tôi sự kiện đá sỏi tất cả đều cùng tập trung và nằm nhiều lớp ở những độ cao khác nhau trên núi cao?  Vì đây đó có thể thấy sỏi từ những bộ phận khác nhau cho tới cùng địa điểm bên những dòng sông chảy theo dòng; và loại sỏi này không gì khác ngoài là những mảnh đá vốn đã mất đi góc nhọn khi lăn lóc suốt một thời gian dài, và từ những cơn bão và thác nước khác nhau mà chúng đã kinh qua trong hành trình của những dòng thuỷ lưu đã đem chúng tới địa điểm này.

 Nếu Hồng thuỷ đã đem vỏ sò có cự li khoảng ba và bốn trăm dặm từ biển vào, hẳn là đã mang theo hỗn tạp với những vật thể tự nhiên khác và chồng chất tất cả lên nhau; nhưng ngay cả ở cách xa biển như thế, chúng ta thấy những con trai và cả loài giáp xác cùng cá mực và mọi loài sò khác tập hợp lại, tất cả đều đã chết; và những vỏ sò đơn độc tìm thấy đã lìa khỏi nhau như chúng ta thấy chúng hàng ngày trên bãi biển.

Và chúng ta phát hiện những con trai tập trung thuộc nhiều chi họ, trong số đó, có thể thấy những vỏ vẫn còn dính khớp, biểu thị rằng chúng bị biển ở lại đó và chúng vẫn còn sống khi eo Gibraltar đã bị cắt qua. Trong vùng núi Parma và Piacenza, vô số vỏ sò và san hô với các lỗ có thể thấy vẫn còn dính vào nham thạch.

Dưới lòng đất và dưới những tầng khai quật sâu từ những mỏ đá là những xà gỗ được phát hiện đã hoá thành than. Chúng được phát hiện trong thời của tôi trong những cuộc đào xới ở Castel Fiorentino. Và những xà gỗ này bị chôn vùi trong những địa điểm sâu trước khi dòng Arno lắng cát trong biển và rồi bao phủ bình nguyên rồi nâng lên tới độ cao như thế, và trước khi bình nguyên Cassentino hạ thấp xuống rất nhiều do sự di dời của mặt đất và dòng Arno không ngừng cuốn trôi đi từ đó...

Đá đỏ của núi Verona được phát hiện thấy toàn bộ pha trộn với vỏ sò đã hoá thành loại đá này; miệng của một số vỏ sò đã bị xi-măng bịt kín vốn là chất liệu của đá; và ở một số bộ phận chúng vẫn giữ tách biệt với khối lượng đá mà chúng bao bọc; bởi vì lớp bọc ngoài của vỏ sò đã xen vào và ngăn trở chúng kết hợp; còn ở những địa điểm khác, loại xi-măng này đã hoá thạch lớp bọc ngoài.

Và nếu bạn có cho rằng những vỏ sò này đã được tạo ra và vẫn còn không ngừng được tạo ra ở những nơi như thế do tính chất địa phương ảnh hưởng và qua thần lực của các tầng trời tại các địa điểm này, lối kiến giải đó không thể nào tồn tại trong những bộ óc nào có năng lực lí tính, bởi vì qua bao năm tăng trưởng được đếm bằng những lớp bọc bên ngoài vỏ sò; và những lớp bọc lớn và nhỏ có thể thấy và chúng hẳn là không thể tăng trưởng mà thiếu thức ăn và không thể nào được nuôi dưỡng mà thiếu vận động, và ở đây, hẳn là chúng không thể vận động.    

 

Và nếu bạn nói rằng chính Hồng thuỷ đã mang những vỏ sò này xa khỏi biển cả hàng trăm dặm, điều này không thể xảy ra vì Hồng thuỷ gây ra bằng mưa; bởi vì mưa dĩ nhiên buộc những dòng sông chảy ra biển và mang theo những vật thể, và chúng cũng không đưa lên núi những vật chết từ bờ biển.    

Và nếu bạn nói rằng Hồng thuỷ dâng nước lên trên núi, vận động của nước biển theo hành trình của nó ngược dòng với sông hẳn là chảy rất chậm tới nỗi không thể mang theo, hoặc trôi nổi trên đó những vật thể nặng hơn bản thân nó; và thậm chí nếu có nâng đỡ chúng, thì sau đó khi Hồng thuỷ rút xuống sẽ để lại chúng rải rác khăp nơi khác nhau. Chúng ta phải giải thích thế nào đây với đám san hô thấy hàng ngày về hướng Monferrato ở Lombardy với những lỗ sâu ăn trên chúng, và dính chặt lên những tảng đá do những dòng sông để lại? Những tảng đá này bao phủ toàn bộ những giống và họ hàng của loài trai, như ta biết chúng không di động, mà luôn bám cố định bằng một trong những van của chúng vào đá, và mặt khác, chúng há ra nuôi những vi sinh vật bơi trong nước mong tìm thấy lương thảo, trở thành lương thực cho những loại sò này.      

Ở đây, một nghi vấn phát sinh: trận Hồng thuỷ xảy ra trong thời Noah có mang tầm mức toàn thế giới hay không. Và dường như là không, vì những lí do sẽ nêu ra đây: Kinh Thánh nói rằng trận Hồng thuỷ liên tục 40 đêm ngày và mưa lớn khắp thế giới, và trận mưa này dâng cao mười cubit trên cả quả núi cao nhất thế giới. Tuy nhiên, nếu đúng như vậy thì trận mưa có tính toàn thế giới này hẳn là hình thành một lớp bọc quanh hình thể địa cầu. Và bề mặt hình cầu này trong mọi thành phần cách đều trung tâm của khối cầu; và các dòng nước của khối cầu tự tìm thấy điều kiện như đã nói trên thì không thể nào cho nước trên bề mặt di chuyển được; bởi vì nước không di chuyển tự ý trừ phi chảy dốc xuống. Vậy làm sao mà lượng nước lớn của trận hồng thuỷ rút lui được, nếu có chứng minh rằng nó không có năng lực vận động? Và nếu nó rút lui được, nó đi bằng cách nào trừ phi đi lên trên? Vậy ở đây, những lí do tự nhiên không lí giải được với chúng ta; do đó, để giải quyết nghi vấn này chúng ta phải cần tới hoặc là cầu cứu tới một phép lạ, hoặc cách khác, nói rằng nhiệt mặt trời đã làm bốc hơi trận nước này.

 

 

(b)               Sông ngòi và địa tầng

 

Về những tỉ lệ khác nhau của tốc độ dòng chảy từ mặt nước xuống đáy.

Về những độ nghiêng cắt ngang giữa mặt nước và đáy.

Về những dòng chảy khác nhau trên mặt nước.

Về những dòng chảy khác nhau trên mặt lòng sông.

Về những độ sâu khác nhau của sông.

Về những dạng khác nhau của núi bao phủ bởi nước.

Về những dạng khác nhau của núi để lộ ra bởi nước.

Nơi nước chảy xiết dưới đáy mà không ở bên trên.

Nơi nước chảy chậm dưới đáy và chảy xiết ở bên trên.

Nơi nước chảy chậm ở dưới và bên trên và chảy xiết ở giữa.

Nơi nước trong sông tự khoáng trương và nơi nó thu rút. Nơi nó uốn khúc và nơi nó tự duỗi thẳng.

Nơi nó lưu nhập đều trong những nơi trong cả mặt sông và nơi không đều. Nơi nó thấp ở giữa và cao ở hai bên.  

Nơi nó cao ở giữa và thấp ở hai bên.

Nơi thuỷ lưu chảy thẳng ở giữa dòng. Nơi thuỷ lưu xoáy, tự phân ra cảc phía khác nhau.

Về những độ nghiêng khác nhau trong những dòng chảy dốc của nước.

 

 

Thuỷ lưu là gì?

 

Thuỷ lưu là sự hợp tụ của những phản xạ dội lại từ bờ sông hướng về trung tâm của nó, trong đó hợp tụ của hai dòng nước dội lại từ hai bờ sông đối diện gặp nhau; và những dòng nước này khi chúng gặp nhau sản sinh ra những đợt sóng lớn nhất của sông, và khi những đợt sóng này rơi trở vào dòng nước thì chúng xâm nhập và đánh xuống lòng sông như thể chúng là chất thể nặng hơn phần còn lại của nước, rồi cọ sát xuống đáy, xới lên, làm tiêu hao, rồi mang theo và chuyển những vật liệu mà chúng đã đánh bật ra. Vì thế, độ nước sâu nhất của một dòng sông thì luôn ở bên dưới dòng thuỷ lưu lớn nhất.   

Tôi nhận ra rằng bề mặt địa cầu từ cổ xưa được hoàn toàn đổ đầy và bao phủ lên bằng những tầng bình nguyên nước mặn, núi là xương cốt của địa cầu với nền móng rộng, đã xâm nhập, vượt trội lên không trung, rồi phủ lên và bọc bằng lớp đất rất cao. Tiếp theo, những cơn mưa không ngớt đã khiến cho những dòng sông càng dâng nước lên và bởi việc trôi chảy luôn tái diễn đã lột trần bộ phận những đỉnh cao ngất ngưởng của những quả núi này, vì thế nham thạch tự tìm cách phô bày ra ngoài trời, và đất lìa khỏi những địa điểm này. Và đất từ những sườn và những đỉnh núi cao cũng đã hạ xuống chân núi, và nâng đáy biển vốn bao quanh những chân núi này, và làm cho bình nguyên lộ xuất, và ở một số bộ phận đã đẩy biển ra rất xa.

Trong mỗi hốc lõm trên đỉnh núi chúng ta luôn tìm thấy những phân đoạn địa tầng trong nham thạch.

Trước kia, đại bộ phận thung lũng bị các hồ bao phủ như thế nào, bởi vì thổ nhưỡng của chúng luôn hình thành những bờ sông, và bởi biển, rồi sau đó, qua tác dụng kiên trì của những dòng sông... đã cắt ngang qua núi; và những dòng sông trong dòng chảy lãng đãng đã cuốn trôi những bình nguyên cao bị núi bao vây; và những đường cắt ngang núi hiển thị bằng địa tầng trong nham thạch tương ứng với những vệt cắt tạo ra bởi những dòng chảy của sông đã nói ở trên.

Một dòng sông chảy từ núi đã để lại khối lượng lớn những cự thạch dưới đáy sông, và những cư thạch này vẫn còn bảo lưu một số góc và cạnh; và khi nó tiếp tục dòng chảy thì nó mang theo những khối đá nhỏ hơn với những cạnh và góc bị mòn, và vì thế những khối đá lớn làm thành những khối nhỏ hơn; và cứ thế đầu tiên nó để lại sỏi thô nhám và rồi láng mịn, và như vậy tiếp tục dòng nước đục với cát và sỏi ra tới biển.     

Cát lắng đọng lên bờ biển là do sự vỗ lại của sống biển, cho đến khi cát trở nên thanh mịn gần như nước. Và cát sẽ không ở lại trên bờ biển mà về lại với những đợt sóng bởi vì độ nhẹ của nó, bao gồm lá cây mục và những vật thể rất nhẹ khác. Và do đó, như đã nói, gần như mang tính chất của nước, rồi thì, khi thời tiết yên tĩnh, cát rơi xuống và nằm yên dưới đáy biển, và nhờ độ thanh mịn, nó nén lại và đề kháng lại những đợt sóng vượt qua nó vì độ trơn tru của nó; và ở đây ta thấy những vỏ sò; và đây là loại đất trắng thích hợp để làm đồ gốm.           

Mọi nguồn nước tuôn ra từ núi rồi chảy ra biển và cuốn theo đá núi trôi ra biển; và do sự dội lại của nước biển vỗ vào núi cho nên những hòn đá này bị trả về núi, và vì những dòng nước hướng ra biển và trả về những hòn đá lật cùng với chúng và trong khi chúng lăn thì những góc của chúng va mạnh vào nhau; còn những bộ phận ít đề kháng thì bị xói mòn bằng những cú va đập nên bị mòn nhẵn, những hòn đá không còn góc cạnh đã trở nên hình tròn, như chúng ta thấy trên bờ biển Elba. Còn những khối đá lớn hơn ở lại vốn ít di chuyển khỏi địa điểm bản địa của nó; còn những khối càng nhỏ thì càng bị mang đi xa hơn khỏi địa điểm đó; vì thế trong quá trình chúng biến thành những viên sỏi nhỏ và rồi thành cát và cuối cùng thành bùn. Sau khi biển đã rút xuống khỏi những quả núi đã nói trên, thì nó để muối đọng lại bằng hơi ẩm khác từ mặt đất kết hợp với sỏi và cát này, do vậy sỏi biến thành đá và cát biến thành đá vôi. Và chúng ta thấy ví dụ này ở Adda, nơi nó xuất hiện từ những quả núi vùng Como và ở Ticino, Adige, Oglio và Adria từ rặng Alps nước Đức, và cũng vậy ở Arno từ Monte Albano gần Monte Lupo và Capraia nơi những tảng đá lớn nhất đều hình thành từ sỏi rắn lại từ những viên đá khác nhau và màu sắc khác nhau.

 

Điều đầu tiên và thiết yếu nhất là tính ổn định. Giống như với những nền móng gồm những thành phần của đền đài và những công thự, mà những độ sâu của chúng có cùng tương quan với nhau, tuỳ theo trọng lượng đặt trên chúng. Mọi thành phần thuộc độ sâu của đất trong một địa điểm nào đó được kết hợp bằng những tầng, và mỗi tầng được kết hợp bằng những thành phần nặng hơn và nhẹ hơn; tầng thấp nhất là tầng nặng nhất. Và nguyên nhân ở đây là những tầng này được hình thành từ sự trầm tích từ nước thải ra do thuỷ lưu của sông chảy vào nó. Thành phần nặng nhất của lớp trầm tích này là thành phần đã thải ra đầu tiên và cứ thế theo các mức độ: ở đây là tác động của thuỷ lưu khi nó trở nên cố định, mặc dù đầu tiên khi nó di chuyển nó mang theo. Những tầng đất này có thể thấy trên bờ sông mà những dòng chảy liên tục của chúng đã cắt ngang và chia quả đồi này ra khỏi quả đồi khác bằng một kẽm sâu, nơi những dòng nước đã rút lui khỏi đá cuội từ những bờ sông;  và điều này đã khiến chất liệu này trở thành khô cạn và thành đá cứng, đặc biệt là đất bùn thuộc kết cấu mịn nhất như thế.

 

 

(c)               Địa trung hải

 

Mọi sơn cốc đều do những dòng sông hình thành, và tỉ lệ giữa những sơn cốc cùng tỉ lệ giữa sông và sông. Sông lớn nhất trong thế giới chúng ta là sông Địa trung hải, nó chảy từ những nguồn sông Nile tới Đại Tây Dương.

 

Lòng Địa trung hải, như một biển lục địa, đón nhận những dòng nước chính từ châu Phi, châu Á, và châu Âu chảy về nó; và những dòng thuỷ lưu của nó chảy tới chân những ngọn núi và bao quanh rồi hình thành nên những bờ sông.

Và những đỉnh Apennines dựng đứng trong vùng biển này như những hải đảo bao quanh bởi nước mặn. Cho đến nay Châu Phi cũng chưa như thế, đằng sau rặng Atlas của nó, phơi mở ra mặt đất gồm những bình nguyên rộng lớn lộ thiên trong phạm vi khoảng ba ngàn dặm. Và Memphis dựng trên bở biển của vùng biển này, và ở trên những bình nguyên của Ý, nơi những đàn chim trời đang bay ngày nay, lũ cá vẫn còn bơi trong những vũng lớn. 

 

Về sự tiêu thoát hay bốc hơi của nước Địa trung hải

 

      Địa trung hải, một dòng sông bao la toạ lạc giữa châu Phi, châu Á, và châu Âu, tập hợp trong bản thân nó khoảng 300 dòng sông chính, và ngoài ra, nó tiếp nhận lượng mưa rơi trên nó suốt một không gian ba ngàn dặm. Nó trả về cho đại dương hùng vĩ lượng nước của nó và lượng nước mà nó nhận; nhưng không hồ nghi, nó trả về cho đại dương ít hơn những gì nó nhận; vì từ nó truyền xuống nhiều mạch suối chảy dưới lòng đất và tạo thêm sức sống cho cỗ máy của đất. Như vậy là do bề mặt của Địa trung hải xa trung tâm của thế giới hơn là bề mặt của đại dương... và ngoài ra, hơi nóng mặt trời liên tục làm bốc hơi một bộ phận nước của Địa trung hải, và do đó, lượng biển này có thể tiếp thu nhưng lại ít tăng thêm từ những cơn mưa nói trên.    

Thuỷ triều lên xuống không đều ra sao, vì trên bờ biển Genoa không có gì biến động; ở Venice chỉ biến động 2 thước Ý; giữa Anh và Pháp biến động 18 thước Ý. Bằng cách nào dòng thuỷ lưu chảy qua những eo Sicily rất mạnh, bởi vì mọi dòng nước sông qua những eo này, chúng tự chảy vào biển Adriatic.

Dòng Danube hay Donau chảy vào Hắc Hải, vốn trước kia mở rộng gần như tới Áo và bao phủ tất cả bình nguyên nơi Danube chảy qua ngày nay. Bằng chứng cho thấy những con trai và vỏ sò, điệp và xương của những loại cá lớn vẫn còn thấy ở nhiều nơi trong những sườn cao của những quả núi ấy: và biển này đã được thành hình bằng việc đổ đầy những đỉnh núi nhọn của rặng Adula vốn mở rộng tới phía đông, và liên kết những đỉnh răng cưa lởm chởm của rặng Taurus mở rộng tới phía Tây. Và gần Bithynia, những dòng nước của Hắc Hải này rót vào Propontis đổi vào Biển Aegean, đó là Địa trung hải, nơi cuối một thuỷ lưu dài những đỉnh của rặng Adula tách ra khỏi những đỉnh của rặng Taurus; và Hắc Hải chìm xuống và lộ ra khu thung lũng Danube với những tỉnh mang địa danh nêu trên, và toàn bộ vùng Tiểu Á bên kia rặng Taurus về phía bắc, và bình nguyên trải từ Núi Caucasus tới Hắc Hải ở phía tây, và bình nguyên Don phía bên này của dãy Núi Ural, chính là chân của chúng. Như thế, Hắc Hải hẳn là phải chìm thấp xuống khoảng 1,000 thước Ý để lộ xuất những bình nguyên bao la như thế.

Không thể phủ nhận sông Nile luôn bị đục khi đổ vào Biển Ai-cập và bị đục gây ra do đất mà sông này cuốn theo liên tục từ những nơi mà nó đã đi qua; đất không trở lại, và biển cũng không tiếp nhận ngoại trừ nó ném đất lên những bờ biển. Hãy nhìn vào đại dương cát bên kia Núi Atlas, nơi nó đã từng bao phủ bằng nước mặn.

Bằng cách nào sông Po trong một thời gian ngắn lại có thể làm khô cạn Biển Adriatic cùng với cách như nó đã làm khô một bộ phận lớn vùng Lombardy.

 

 

3. NƯỚC VÀ KHÔNG KHÍ

 

Hãy mô tả những đám mây được thành hình ra sao và chúng tan biến ra sao, và nguyên nhân nào khiến hơi nước từ nước của địa cầu đi vào trong không khí, và những nguyên nhân gây nên sương mù và không khí trở nên dày đặc, và tại sao nó xuất hiện có màu lam đậm hoặc nhạt vào lúc này chứ không phải lúc khác; và cũng miêu tả những vùng không khí, và nguyên nhân gây ra tuyết và mưa đá, nước co lại và thành nước đá, và mô tả về những hình dạng mới mà tuyết kết thành trong không trung, và những hình dạng mới của lá cây ở những xứ lạnh, và trên những đỉnh núi cao đóng băng, sương muối tạo ra những hình dạng thảo mộc kì quái với lá cây đa dạng, sương muối tác động y như thể sương dùng để nuôi và bổ dưỡng cho các loại lá cây ấy.

       Nước vận động trong nước, cách tiến hành tương tự không khí trong không khí.

 

 

Âm học (acoustics)

Mặc dù các loại âm thanh thâm nhập không khí, nguyên được phát sinh bằng chuyển động vòng tròn, tuy nhiên, những vòng tròn hướng ngoại từ những trung tâm khác nhau mà không có cản trở nào, và chúng thâm nhập và băng qua nhau nhưng vẫn duy trì trung tâm mà chúng nảy sinh.       

Bởi trong mọi trường hợp vận động của nước có điểm rất tương tự với không khí, cho nên tôi sẽ dẫn chứng nó làm ví dụ cho mệnh đề nói trên. Tôi cho rằng: nếu bạn đồng thời ném hai viên đá nhỏ vào chỗ hai mặt nước tĩnh vào hai thời gian khác nhau, bạn sẽ quan sát thấy quanh hai điểm chúng chạn vào mặt nước, là hai loạt vòng tròn riêng biệt được hình thành, chúng sẽ gặp nhau khi khuếch đại kích thước và rồi thâm nhập và giao nhau, trong khi vẫn luôn duy trì trung tâm của chúng ở những điểm mà các viên đá đã va chạm. Và lí giải cho tình huống này, tuy hiển nhiên là ở đó cho thấy vận động nào đó, nhưng nước không đời chỗ bởi vì những lỗ hổng tạo ra bởi những viên đá không ngừng khép lại, và chuyển động gây ra bởi những lỗ hổng bất ngờ và việc nước đóng lại tạo nên một loại dao động nhất định mà người ta có thể mô tả như là rúng động thay vì chuyển động. Và điều tôi mô tả có thể rõ ràng hơn với bạn, hãy nhìn những cọng rơm, vì độ nhẹ tênh của chúng nổi trên mặt nước và không di chuyển khỏi vị trí gốc bởi đợt sóng cuộn dưới chúng là khi những vòng tròn này tới. Cái dấu ấn trên mặt nước, vì thế, (mang tính chất) là rúng động hơn là chuyển động, những vòng tròn không thể làm vỡ nhau khi chúng gặp gỡ, và bởi nước vẫn cùng phẩm chất khắp nơi mọi thành phần của nó, và truyền độ rung động từ vòng tròn này sang vòng tròn kia cho nhau mà không đổi chỗ của chúng. Vì nước luôn giữ nguyên vị trí, nó có thể dễ dàng đưa độ rung này từ những thành phần kế cận sang những thành phần kế cận khác, và cường độ của nó suy giảm đều đặn cho đến khi kết thúc.

Hệt như viên đá ném vào mặt nước trở thành trung tâm và nguyên nhân của những vòng tròn khác nhau, sóng âm thanh tạo ra trong không trung lan toả bằng những vòng tròn, vì thế mọi vật thể đặt trong không trung được chiếu sáng tự nó lan đi bằng những vòng tròn và làm đầy những thành phần bao quanh bằng vô số hình tượng của chính nó, và xuất hiện ra toàn thể trong toàn thể và toàn thể trong mỗi phần.   

 

  

Không khí

 

Không khí khởi động nhanh hơn so với nước, vì thường khi sóng li khai khỏi địa điểm tạo ra nó mà không thay đổi vị trí; tương tự những đợt sóng khi mà luồng gió tạo ra trên cánh đồng lúa vào tháng Năm, ta nhìn thấy những đợt sóng cuồn cuộn trên cánh đồng không làm cho những bông lúa thay đổi vị trí của chúng.   

 

Các nguyên tố có thể hoá thành nhau, khi không khí hoá thành nước qua việc tiếp xúc với vùng lạnh, điều này tự hấp dẫn mãnh liệt tất cả không khí bao quanh và di chuyển mãnh liệt để làm đầy phạm vi bị bỏ trống do không khi đã thoát ra; và như thế cứ khối lượng này di chuyển tiếp theo một khối lượng khác, cho tới khi chúng được cân bằng một phần cái không gian mà không khí đã phân li, và đấy là gió. Nhưng nếu nước hoá thành không khí, thì lúc đó thoạt đầu không khí chiếm không gian mà trong đó sự gia tăng vừa nói chảy vào cần phải nhường chỗ để tăng tốc độ và xung động tới cho không khí được tạo ra, và đấy là gió.

Mây hoặc hơi nước trong gió được sản sinh bởi nhiệt và nó bị tác động mạnh và bị hơi lạnh xua đuổi, và bị xua đi ở phía trước nó, ở đâu hơi ấm bị trục xuất thì hơi lạnh ở lại. Và bởi mây bị xua không thể lên cao vì hơi lạnh nén nó xuống và cũng không thể hạ xuống vì nhiệt nâng nó lên, vì vậy nó phải theo hướng ngang; và tôi cho rằng nó không tự vận động, vì như đã nói, những năng lực thì đồng đều, chúng hạn chế chất thể này ở giữa chúng một cách đồng đều, và nếu nó có ngẫu nhiên tránh thoát thì nó phân tán và rải rác ở mọi hướng hệt như miếng bọt bể đầy nước bị vắt tới nỗi nước vọt ra ngoài trung tâm miếng bọt bể ra mọi hướng. Do đó, gió bắc cũng vậy, có lúc và đồng thời trở nên nguồn gốc của mọi cơn gió.

Loại gió ấy sẽ có sự vận động ngắn hơi tuy mạnh hơn lúc đầu; và lửa dạy chúng ta khi nó phát ra từ khẩu súng cối, cho thấy hình dạng và tốc độ qua làn khói nhả ra không khí bằng chuyển động ngắn và rải rác. Nhưng độ mạnh từng cơn của gió cho thấy làn bụi tốc lên không trung theo những cách xoắn và cuốn khác nhau. Người ta cũng nhận thấy giữa những dãy núi Alps có sự va chạm của các cơn gió gây ra bởi xung động của nhiều lực khác nhau; người ta thấy những lá cờ trên những chiếc tàu phất phới theo những luồng chảy khác nhau ra; trên mặt biển một bộ phận nước bị va đập mà không phải một bộ phận khác; và cũng điều này xảy ra ở những quảng trường và trên những bãi cát của sông, nơi cát bụi bị quét đi dữ dội ở một bộ phận này mà không phải bộ phận khác. Và bởi vì những hiệu ứng đó cho ta thấy tính chất của nguyên nhân, ta có thể nói với chắc chắn rằng cơn gió nào khởi đầu có xung lực mạnh hơn sẽ có vận động ngắn hơn; và điều này đưa ra bằng thí nghiệm nói trên cho thấy vận động ngắn của làn khói từ miệng súng cối. Và điều này phát sinh từ sự đề kháng mà không khí bị nén lại do chấn động của làn khói này vốn bản thân nó cũng bị nén để mà chống lại gió. Nhưng nếu gió vận động chậm nó sẽ trương rộng ra một khoảng cách rất dài theo một đường thẳng, bởi không khí bị nó thâm nhập sẽ không ngưng tụ phía trước nó và sẽ không cản trở vận động của nó, mà sẵn sàng lan toả luồng của nó trên một không gian rất dài.       

 

 

4. ĐẤT, NƯỚC, KHÍ, VÀ LỬA

 

Ở đây, Leonardo leo lên núi Monte Rosa vào một ngày hè đẹp với bầu trời trên đầu xanh biếc. Khao khát của ông là muốn nhìn kĩ những khu vực thượng tầng ngoài khí quyển—phạm vi của Nguyên tố Lửa. Ông giả định đó là những vùng “bóng tối bao la” còn màu xanh lam của bầu trời là do phản chiếu của ánh sáng từ những hạt nhỏ trong không khí, đã được xác nhận bằng những khảo sát gần đây trong tầng tĩnh khí.

 

 

Về màu sắc của khí quyển

 

Tôi cho rằng màu xanh lam nhìn thấy trong bầu khí quyển không phải là màu tự thân nó mà được tạo nên do độ nhiệt ẩm bốc hơi bằng những nguyên tử rất tinh vi không thể nhận thấy và tia mặt trời khiến chúng phát quang trên nền bóng tối bao la của vùng nguyên tố lửa hình thành một tấm bọc phủ bên trên chúng. Điều này có thể thấy, như chính tôi đã thấy, bởi bất cứ ai leo lên Monte Rosa (Hồng Sơn), một đỉnh thuộc rặng Alps phân đôi Pháp khỏi Ý...

Tại đó, tôi thấy khí quyển âm u ở bên trên đầu và mặt trời khi nó chiếu lên vùng núi này lại chói chang hơn nhiều so với trên bình nguyên phía dưới, do lớp khí quyển mỏng hơn bởi một phạm vi nhỏ hơn giữa đỉnh núi và mặt trời.

Để minh hoạ thêm về màu sắc của khí quyển, ta lấy làn khói từ gỗ khô và cũ, khi nó bốc lên từ ống khói thì một màu xanh lam đậm hơn dễ nhận thấy trên nền trời sẫm. Nhưng khi nó toả lên cao hơn trên nền khí quyển sáng thì lập tức nó biến thành sắc xám tro. Và điều này xả ra bởi vì không còn màn tối bên ngoài nó nữa... nếu làn khói phát sinh từ khúc gỗ tươi thì nó sẽ không có màu xanh lam, bởi vì nó không trong suốt và đã bị tích tụ nhiều hơi ẩm, nó sẽ sinh ra hiệu quả của đám mây dày đặc mang những độ sáng và tối như thể nó là một vật thể rắn. Điều này cũng xảy ra khi một lượng lớn khí quyển nằm giữa mắt nhìn và nguyên tố lửa, sắc độ của màu xanh lam sẽ sâu thẳm hơn; như chúng ta nhìn qua thuỷ tinh xanh lam và qua ngọc phỉ thuý vốn sẫm hơn vì chúng dày hơn về tỉ lệ. Nhưng khí quyển trong những tình huống này như thể tác động chính xác theo cách tương phản, vì ở đâu có một lượng lớn khí quyển nằm giữa mắt và khu nguyên tố lửa, thì nơi đó nó xuất hiện trắng hơn nhiều. Điều này xảy ra về hướng chân trời. Và mức độ khí quyển càng ít giữa mắt và khu nguyên tố lửa thì độ xanh lam xuất hiện càng nhiều, ngay cả khi chúng ta ở những bình nguyên thấp. Vì thế, tôi có thể nói, khí quyển mang màu xanh da trời này là do những hạt hơi nước bắt gặp tia sáng mặt trời.      

Hãy chứng minh bề mặt của khí cầu nơi nó tiếp giáp với hoả cầu, và bề mặt của hoả cầu và nơi nó chấm dứt bị ánh thái dương xâm nhập và truyền đi những hình tượng thiên thể, to khi chúng đi lên và nhỏ khi chúng ở kinh tuyến.      

Hãy lấy a là địa cầu, và ndm là bề mặt không khí giáp với hoả cầu; hfg là quỹ đạo mặt trời; vậy tôi nói rằng khi mặt trời xuất hiện ở chân trời g thì quang tuyến nhìn thấy xuyên qua bề mặt của không khí ở góc nghiêng—om; đây không phải trường hợp ở dk. Và vì thế quang tuyến xuyên qua một khối lượng lớn không khí.   

 

Về nhiệt trong thế giới

 

Ở đâu có sự sống ở đó có nhiệt, và ở đâu có sinh nhiệt ở đó có vận động của hơi nước. Điều này đã được chứng minh, do đó chúng ta thấy nguyên tố lửa bằng nhiệt lượng của nó luôn luôn thu hút về nó tới làn hơi ẩm và sương mù dày, chẳng hạn như những đám mây mờ đục mà nhiệt bốc lên từ biển cũng như hồ, sông và thung lũng ẩm thấp; khí nóng này thu hút theo những cấp độ tới tận vùng lạnh, bộ phận đầu ngưng lại, bởi vì nhiệt và ẩm không thể tồn tại cùng với lạnh và khô; và ở đâu bộ phận đầu tiên ngưng, phần còn lại ổn định, và như vậy hết bộ phận này đến bộ phận khác được bổ sung, những đám mây dày và tối được hình thành.

Mây thường lướt nhẹ và được gió mang đi từ vùng này tới vùng khác, ở đâu ngưng tụ, chúng trở nên rất nặng đến nỗi rơi xuống thành cơn mưa lớn; và nếu nhiệt của mặt trời tăng cường lực của nguyên tố lửa, thì những đám mây bị kéo lên cao hơn và tìm một cấp độ lạnh nhiều hơn, từ đó chúng hình thành băng đá và rơi xuống thành những trận bão đá. Có khi cùng loại nhiệt nâng lên một trọng lượng nước rất lớn mưa xuống từ những đám mây, kéo chúng từ dưới lên trên, từ dưới chân những quả núi, và dẫn đưa và tích giữ chúng trên những đỉnh núi, và chúng tìm những kẽ núi, liên tục thoát ra và tạo nên những dòng sông.           

Giống như nước chảy ra theo những lối khác nhau từ miếng bọt bể bị vắt, hoặc không khí thoát ra từ cặp ống bễ, cũng vậy với những đám mây mỏng trong suốt bị xua lên cao qua phản chiếu do nhiệt gây ra; một bộ phận tự tìm thấy ở vị trí cao nhất vươn tới vùng lạnh trước tiên và tạm nghỉ ở đó bởi nó gặp độ lạnh và khô, chờ đồng hành của nó. Bộ phận ở dưới bốc lên tới bộ phận đứng yên xử lí với lớp không khí ở giữa như thể nó là chiếc ống hút, và rồi bộ phận này thoát ra theo kiểu giao nhau và hướng xuống; nó không thể hướng lên bởi nó gặp đám mây dày tới nỗi không thể xâm nhập.

Vì lí do đó, mọi cơn gió đánh lên mặt đất đều giáng xuống từ bên trên, và khi chúng đánh lên mặt đất đang cản lại thì chúng phát sinh một loại vận động cuộng lại, khi nó cố gắng trỗi dậy để  gặp cơn gió đang giáng xuống, vì thế việc lên cao để phá vỡ trật tự tự nhiên bị kìm hãm, và nó phải đi hướng ngang và tiếp tục theo đuổi dòng mãnh liệt không ngớt sượt qua mặt đất.

Khi những cơn gió nói trên đánh lên những dòng nước biển, thì hướng gió có thể thấy rõ theo góc độ được hình thành do những tuyến tới (incidence) và cuộn lại (recoil); và từ những thứ này dẫn đến những đợt sóng nhô lên, đe doạ và nhận chìm, đợt này là nguyên nhân của đợt khác.

Như hơi ấm tự nhiên lan toả khắp chi thể con người bị đẩy lùi bởi khí lạnh bao quanh, vốn là đối nghịch và là kẻ thù của nó, chảy về lại cái hồ của quả tim, và lá gan tự nó củng cố lại, làm cho những thứ này trở nên thành trì và tự vệ, cũng vậy, những đám mây được tạo nên bằng hơi ấm và độ ẩm, và vào mùa hè có hơi nước khô nhất định, tự chúng tìm tới vùng lạnh và khô, tác động theo cách bông hoa và lá khi bị tấn công bởi sương muối lạnh thì nén hơi lạnh lại và tăng lực đề kháng.

Vì thế, những đám mây ấm này thoạt đầu tiếp xúc với khí lạnh, chúng bắt đầu đề kháng và không muốn vượt xa hơn; những đám mây khác ở dưới tiếp tục lên cao; bộ phận ở trên dừng lại tiếp tục dày đặc; hơi ấm và độ khô thoái lui về trung tâm; bộ phận ở trên bị hơi ấm bỏ rơi bắt đầu đông lại hoặc đúng hơn là tan dần; những đám mây bên dưới tiếp tục lên cao và nén hơi ấm tới gần vùng lạnh; và như vậy hơi ấm bị kiềm hãm trở về với nguyên tố cơ bản của nó bất ngờ chuyển thành lửa và tự chạy ngoằn ngoèo khắp vùng hơi nước khô, và trong trung tâm của mây càng lúc càng tăng cường, và thắp nhóm lên trong đám mây vốn đã trở nên mát lạnh, nó tạo nên tiếng ầm ì tương tự như tiếng nước sùng sục trong chiếc bình đun sôi hoặc dầu, hoặc tiếng của đồng bị nấu chảy khi nhúng vào nước lạnh; dù vậy, bị đẩy ra bởi phía đối ngịch, nhưng nó phá tan đám mây chống đỡ cho nó và và lao đi khắp không trung để phá và huỷ mọi thứ nào chống lại nó; đấy là sét.

 

 

Ở đâu lửa không thể cháy thì không động vật hít thở nào có thể sống được

 

Phần đáy của ngọn lửa là khởi điểm của ngọn lửa và qua nó tiêu đi tất cả những dưỡng chất dầu mỡ; và nó ít độ nóng hơn phần còn lại của ngọn lửa, cũng như ít độ sáng hơn; còn sắc lam của ngọn lửa, chính ở đây dưỡng chất của nó được tống xuất và tiêu hao. Bộ phận kia có ánh lửa sáng hơn, nhưng đây là khởi đầu khi ngọn lửa xuất hiện và nó sinh ra trong hình cầu, rồi sau đó, nó sản sinh bên trên hình cầu một ngọn lửa rất nhỏ có màu sắc sáng rực và hình dạng như quả tim, với điểm nhọn hướng lên trời; và ngọn lửa này tiếp tục nhân lên tới vô tận bằng việc hấp thu chất nuôi dưỡng nó. 

      Ngọn lửa màu lam được tạo thành dạng hình cầu... và không tự tạo thành một hình kim tự tháp cho tới khi nó làm ấm đủ không khí bao quanh; và nhiệt chủ yếu của ngọn lửa xanh lam này hướng lên theo xu hướng di chuyển tự nhiên của ngọn lửa, cũng là lộ trình ngắn nhất tới hoả cầu.   

 

Màu của ngọn lửa lam không di động. Dưỡng chất để nuôi ngọn lửa này bằng cây nến bản thân không di động. Do đó, sự vận động tất phải phát sinh do những nguyên nhân khác. Cái phát sinh ra sự không di động này là không khí, nó ùa tới làm đầy khoảng chân không tạo ra do không khí bị tiêu hao bởi ngọn lửa trước đây. Ánh sáng sinh ra khoảng chân không, rồi không khí ùa tới cứu trợ cho khoảng chân không này.    

 

 

5. TIỂU VŨ TRỤ VÀ ĐẠI VŨ TRỤ

 

Những thế giới hữu cơ và vô cơ cả hai đều mang tính chất tương tự và chịu cùng những quy luật tự nhiên. Con người là một bộ phận của một thế giới, là một tiểu vũ trụ nằm trong một đại vũ trụ.

 

Phần mở đầu luận về nước

Con người đã từng được người xưa gọi là một tiểu vũ trụ, danh xưng này quả rất thích hợp. Xét rằng, nếu con người được kết hợp bằng đất, nước, khí, và lửa, thì cơ thể của địa cầu cũng tương tự. Trong khi nội bộ con người có xương cốt làm giá đỡ và khung sườn của thịt, thế giới có nham thạch để chống đỡ đất. Trong khi nội bộ con người có một kho máu trong đó có phổi khi kẻ ấy hô hấp nở ra hoặc co vào, cũng thế, cơ thể của đất có đại dương cũng dâng lên và rút xuống cứ mỗi sáu giờ cùng hô hấp của thế giới; cũng như từ cái kho máu nảy sinh các huyết mạch và toả các nhánh khắp nhân thể, cũng thế, đại dương đổ đầy cơ thể của đất với vô số mạch nước.

Tuy nhiên, trong cơ thể của đất thiếu những dây thần kinh, và những thứ này vắng bởi dây thần kinh được tạo ra cho mục đích vận động; và vì thế giới thường xuyên bình ổn, ở đây không có sự vận động xảy ra, cho nên không cần thiết có dây thần kinh. Nhưng trong mọi thứ khác thì con người và đất rất tương tự.

 

 

Giải thích về sự hiện diện nước trên những đỉnh núi 

Tôi cho rằng, giống như nhiệt tự nhiên của máu trong những huyết mạch lưu giữ nhiệt trong đầu người, và khi con người chết thì máu lạnh chìm xuống những bộ phận phía dưới, còn khi mặt trời làm ấm đầu người thì lượng máu trong đó gia tăng và tăng trưởng rất nhanh cùng với những dịch thể (humour) khác, chính do áp lực trong huyết quản nên nó thường xuyên gây nên những chứng đau đầu; cũng tương tự như vậy với những dòng suối rẽ nhánh đi khắp cơ thể địa cầu, và bởi nhiệt tự nhiên lan khắp cơ thể hàm chứa, cho nên nước ở lại trong những dòng suối trên đỉnh núi cao. Và nước chảy qua một thuỷ đạo phong kín bên trong cơ thể của núi như một vật chết không ra khỏi trạng thái dưới nhiệt thấp, bởi nó không được sưởi ấm bởi sinh nhiệt của dòng suối đầu tiên. Hơn nữa, nhiệt của nguyên tố lửa và ban ngày là nhiệt mặt trời có năng lực kích hoạt sự ẩm ướt của những vùng thấp và kéo chúng lên đỉnh núi giống như kéo những đám mây và triệu tập độ ẩm từ lòng biển.

Cùng nguyên nhân làm lưu động những dịch thể trong mọi loại sinh thể đi ngược với luật tự nhiên về hấp lực, nó cũng thúc đẩy nước chảy qua những mạch của đất mà nó phong kín trong đó và phân phối nước qua những thông đạo nhỏ. Và như máu dâng lên từ phía dưới và trút qua những mạch gẫy trên trán, như nước đưa lên từ bộ phận thấp nhất của dây nho lên các nhánh đã bị cắt, cũng thế từ độ sâu nhất của biển, nước dâng lên tới những đỉnh núi, ở đó, nó tìm những đợt sóng bị vỡ, trào ra và quay về đáy biển. Như vậy, sự vận động của nước bên trong và bên ngoài luân phiên thay đổi, khi thì buộc phải dâng lên, khi thì đổ xuống tự do theo tự nhiên. Như vậy khi liên hoàn với nhau, nó đi vòng vòng và liên tục xoay quanh, đi tới đi lui lúc bên trên bên dưới, chẳng bao giờ nằm yên, hoặc trong dòng chảy của nó hoặc trong bản tính của nó. Bản thân nó không có gì nhưng lại nắm giữ mọi thứ, thay đổi thành nhiều tính chất khác nhau tuỳ những địa phương khác nhau trong dòng chảy của nó, tác động y như chiếc gương phản chiếu nhiều hình tượng tuỳ vào có bao nhiêu vật thể qua trước mặt nó. Vì thế nó liên lục biến đổi, khi thì về vị trí, khi thì về màu sắc, khi thì hấp thu những mùi mới hoặc vị mới, khi thì nó bảo lưu những thể chất hoặc phẩm chất mới, khi thì nó mang sự chết chóc, khi sự khoẻ mạnh, đôi khi nó vào không khí hoặc tự đẩy lên cao do nhiệt, và khi vươn tới vùng lạnh, nhiệt đưa nó lên bị ép bởi khí lạnh. Và như bàn tay ép vào miếng bọt bể dưới nước thì nước chảy ra tràn vào dòng nước khác, vì thế, khí lạnh nén không khí trộn lẫn vào với nước, khiến cho nó thoát ra mãnh liệt và xua đẩy lớp không khí khác; vậy đây là nguyên nhân của gió.

Thật là niềm thán phục cao độ đối với những ai quan sát nước tự trỗi lên từ độ sâu nhất của biển lên tới những đỉnh núi cao nhất rồi rót xuống qua những mạch đứt rồi trở về với biển sâu và lại trỗi lên nhanh chóng và lại hạ xuống, và cứ như thế, toàn bộ nguyên tố này tuần hoàn. Cứ từ cao xuống thấp, cứ chảy vào chảy ra, khi thì vận động tự nhiên, còn khi vận động ngẫu nhiên thì nó tương tập và kết hợp. Cho nên, vòng thay đổi theo sự tuần hoàn liên tục theo cách truyền nước của cây nho khi nó rót nước qua những nhánh bị cắt rồi lại rơi xuống trên gốc rễ của nó, và lại dâng qua những thông đạo rồi lại rơi trở lại trong vòng tuần hoàn liên tục.

Nước gặp không khí qua những mạch đứt của những đỉnh núi cao, đột nhiên bị bỏ rơi bởi lực đem nó tới, và rồi thoát li khỏi những lực này và bắt đầu lại quá trình tự nhiên của nó trong tự do.                          

Cũng vậy, nước trỗi lên từ rễ thấp của cây nho tới phần ngọn cao rồi rớt lên qua những nhánh bị cắt rớt xuống rễ rồi lại dâng lên chỗ mà từ đó nó rớt.

 

 

6. MỘT TINH THẦN GIỮA NHỮNG NGUYÊN TỐ:

NHỮNG GIỚI HẠN CỦA NÓ

 

Về tinh thần

 

Chúng ta đã nói, định nghĩa về tinh thần là một năng lực kết hợp với thân thể, bởi tự thân nó không thể nào lên cao hoặc làm bất cứ loại vận động nào trong không gian, và nếu bạn nói rằng tự nó có thể lên cao, mà điều này không thể tồn tại trong những nguyên tố. Vì nếu tinh thần là một lượng vô hình thể, thì lượng này được gọi là một chân không được phát sinh, và chân không này không tồn tại trong tự nhiên; giả định rằng chân không đó được tạo thành, lập tức nó ắt bị đổ đầy do sự ập vào của nguyên tố trong chân không đã phát sinh đó. Do đó, bằng định nghĩa về trọng lượng, nói rằng trọng lực là một năng lực ngẫu nhiên, được tạo nên do một nguyên tố hấp dẫn hoặc ép đẩy hướng tới một nguyên tố khác, thì nó đi theo bất cứ nguyên tố nào không có trọng lượng trong một nguyên tố hấp thu trọng lượng bởi việc đi vào nguyên tố ở trên nó, và nhẹ hơn bản thân nó. Chúng ta thấy rằng một bộ phận của nước không có trọng lực hoặc khinh lực (levity) khi nhập vào bộ phận của nước khác, nhưng sẽ hấp thu trọng lượng nếu bị kéo lên không khí; và nếu bạn kéo không khí xuống phía dưới nước, nước tự thấy mình nằm trên vùng không khí này hấp thu trọng lượng, mà trọng lượng nó không thể tự chống đỡ, và vì thế sự sụp đổ của nó là không thể tránh khỏi; và nó sẽ rơi xuống nước ở địa điểm có chân không. Cũng giống như vậy tất xảy ra với một tinh thần nếu nó ở giữa những nguyên tố nơi nó liên tục phát sinh một chân không trong bất kể nguyên tố nào, nó thấy mình trong đó và vì lí do này hẳn nó sẽ liên tục bay hướng tới bầu trời cho tới khi nó rời bỏ những nguyên tố đó.

 

 

Tinh thần có thân thể giữa những nguyên tố hay không

 

Chúng ta đã chứng minh một tinh thần không thể tự tồn tại giữa những nguyên tố mà không có thân thể, nó cũng không thể tự vận động tuỳ ý trừ phi trỗi lên cao. Giờ chúng ta cho rằng một tinh thần khoác lấy một thân thể bằng không khí tất yếu phải hỗn hợp vào không khí này; bởi nếu nó vẫn giữ đơn nhất thì với không khí nó sẽ phân li và rơi xuống khi chân không phát sinh, như đã nói trên; do đó, thật cần thiết nếu nó có khả năng duy trì trạng thái lơ lửng trong không trung, và nó sẽ phải hấp thu một lượng không khí nhất định; và nếu nó có hỗn hợp với không khí, hai khó khăn theo sau, nó sẽ làm hiếm phần không khí mà nó hỗn hợp với, và vì lí do này không khí bị hiếm đó sẽ bay lên trên tự ý và sẽ không ở lại giữa không khí vốn nặng hơn bản thân nó; và, hơn nữa, khi tinh yếu này lan rộng, nó trở nên ngăn cách và tính chất của nó biến đổi và vì thế nó đánh mất một số năng lực ban đầu. Thêm vào đó, còn có khó khăn thứ ba, đó là thể khí lấy ra khỏi tinh thần thì bị phơi ra trước những đợt gió xâm nhập và không ngừng tách ra và xé lẻ những bộ phận kết hợp của không khí, xoay và cuốn chúng giữa lớp khí kia; do đó, tinh thần bị thấm nhuần trong không khí này bị chặt hoặc bị xé và bị phá bằng thứ không khí mà nó bị thâu nhập.      

 

 

Tinh thần mang thể khí có thể tự vận động hay không

Tinh thần thấm nhuần vào một lượng không khí nhất định thì sẽ có một năng lực di động khí này; điều này đã chứng minh ở trên khi nói rằng tinh thần làm thưa thớt một phần không khí mà nó nhập vào; vì thế, khí ấy sẽ trỗi bên trên khí kia, và sự vận động này sẽ được khí tạo ra qua độ nhẹ của nó, mà không phải qua vận động tuỳ ý của tinh thần, và nếu khí này gặp gió, [căn cứ vào lí do] ở phần luận thứ 3 ở trên, thì khí sẽ di động bởi gió mà không bởi tinh thần khuếch tán vào trong đó.   

 

 

Tinh thần có thể nói hay không

Nếu muốn chứng minh tinh thần có thể nói hay không, điều cần thiết trước tiên là định nghĩa tiếng nói là gì, và nó phát sinh ra sao; vậy ta sẽ mô tả như sau: tiếng nói là sự vận động của không khí ma sát vào một vật thể đậm đặc, hoặc một vật thể đậm đặc ma sát vào khí—đều tương tự; và sự ma sát với thể hiếm ngưng tụ với thể hiếm và gây nên đề kháng; hơn nữa, thể hiếm khi di động mau, và thể hiếm di động chậm thì ngưng tụ nhau khi tiếp xúc, và tạo nên tiếng ồn hoặc tiếng động lớn; và tiếng nói hoặc tiếng thì thầm gây ra do thể hiếm này đi qua một độ loãng khác với tốc độ vừa phải thì giống như một ngọn lửa lớn tạo ra tiếng ồn trong không khí. Còn tiếng gầm lớn nhất do thể hiếm tạo ra với một thể hiếm khác khi một thể hiếm di chuyển mau xâm nhập vào thể hiếm khác bất động; ví dụ như ngọn lửa phát sinh từ khẩu súng lớn đột kích vào không khí; cũng vậy, như ngọn lửa phát sinh từ đám mây đập vào không khí, và vì thế tạo ra sét.

Vì thế, ta có thể nói rằng không có vận động của không khí thì tinh thần không thể sản sinh ra tiếng nói, trong tinh thần không có tiếng nói nào và nó không thể bật ra những gì mà nó không có; và nếu nó muốn di động không khí mà nó khuếch tán, thì tinh thần cần thiết phải tự nhân lên, và nó không thể nhân lên mà không có số lượng. Và như trong phần thứ tư đã nói, thể hiếm không thể di động được trừ phi nó có một điểm cố định để từ đó sinh ra vận động; hơn thế nữa, trong trường hợp của một nguyên tố vận động bên trong nguyên tố của nó, mà tự bản thân không vận động, ngoại trừ bằng sự bốc hơi đều tại trung tâm của vật được bốc hơi: như xảy ra với miếng bọt bể bị vắt trong bàn tay bóp dưới nước; nước thoát ra khỏi nó ra mọi hướng với vận động đều nhau qua những khoảng hở giữa những ngón tay của bàn tay vắt ép.      

Tinh thần có phát ra tiếng nói hay không, và có thể nghe được tinh thần hay không, và nghe và thấy gì, và sóng âm thanh qua không khí ra sao và những hình ảnh vật thể đi qua mắt ra sao.    

 

Không có tiếng nói nếu không có vận động hoặc chấn động trong không khí; không có chấn động của không khí nếu không có khí cụ; không có khí cụ nào mà không có thân thể; hiển nhiên, một tinh thần có thể không có tiếng nói, hoặc thân thể, hoặc sức mạnh; và nếu như nó mang lấy một thân thể thì nó không thể nhập được vào cửa đã đóng. Và nếu có ai nói rằng qua không khí tụ lại và nén lại, một tinh thần có thể mang những thân thể của những hình dạng khác nhau, và nhờ đó nó có thể lên tiếng và di chuyển bằng lực— tôi xin đáp lại kẻ ấy rằng ở đâu không có dây thần kinh hoặc xương cốt thì ở đó không thể có những tinh thần đảm đương sức thi triển trong bất cứ vận động nào tạo ra do những tinh thần tưởng tượng.

 

 

7. VÒM TRỜI

 

Theo những truyền thống cổ đại được chấp nhận phổ quát trong thời đại Leonardo, địa cầu với những nguyên tố của nó được bao kín và vây quanh bởi cõi trời với những thiên thể vừa không nặng, không nhẹ, vừa không bị huỷ hoại. Nhìn xa ngoài hiện tượng của địa cầu này, Leonardo đã gắng áp dụng những phương pháp quan sát và diễn dịch vòm trời. Ông thiết dựng một loại loại đài quan sát bằng cách lắp đặt một khí cụ quang học dưới cửa sổ trời của mái nhà của mình và khảo sát về tính chất của mặt trăng.

Những hồ nghi nảy sinh trong đầu ông về hệ thống theo Ptolemy. Mặt trời có xoay quanh địa cầu không? Trên một trang bút kí toán học, ông đã viết bằng những con chữ lớn: “Mặt trời không chuyển động”.

 

Để nhìn thấy tính chất của những hành tinh, hãy mở mái cửa sổ trời, và ghi nhận một hành tinh đơn độc ở mặt đáy: sự vận động phản chiếu lên mặt đáy này sẽ cho thấy tính chất của hành tinh này; nhưng sắp đặt sao cho mặt đáy chỉ phản chiếu chỉ một lần mỗi thời điểm.

 

Hãy kiến tạo những kính [phóng đại] để nhìn thấy mặt trăng được to hơn.

Có thể tìm những phương tiện nhờ đó mắt thường không nhìn thấy những vật thể ở xa sẽ được thu nhỏ lại nhiều như chúng ở trong phối cảnh tự nhiên, ở đó chúng thu nhỏ bởi vì độ lồi của mắt cần thiết giao nhau tại bề mặt những hình chóp của mỗi hình ảnh truyền tới mắt giữa những góc vuông hình cầu. Nhưng phương pháp mà tôi cho thấy ở đây cắt những hình chóp này ở những góc vuông gần bề mặt của đồng tử. Đồng tử lồi của mắt thu vào vào toàn bộ cảnh tượng bán cầu của chúng ta trong khi điều này cho thấy chỉ một ngôi sao; nhưng ở đâu nhiều ngôi sao nhỏ truyền hình ảnh của chúng tới bề mặt đồng tử thì những ngôi sao sẽ cực nhỏ; ở đây, chỉ một ngôi sao được thấy nhưng nó sẽ lớn. Cũng thế, mặt trăng sẽ lớn hơn và những vết đốm của nó càng nổi bật. Bạn thử đặt một li thuỷ tinh đầy nước gần con mắt... nước làm cho vật thể ngưng kết trong những khối cầu thuỷ tinh kết tinh xuất hiện như thể không có thuỷ tinh.      

Về con mắt. Những vật thể nhỏ kém hơn đồng tử nếu ở gần nhất thì con mắt sẽ ít nhận ra nhất. Từ kinh nghiệm này chúng ta biết rằng thị lực không bị giảm thành một điểm... Thế nhưng, những hình ảnh vật thể truyền tới đồng tử được phân phối trên đồng tử này hệt như chúng được phân phối trong không trung: bằng chứng cho thấy là khi chúng ta nhìn vào bầu trời đầy sao mà không nhìn cố định hơn vào một ngôi sao nào; vậy thì bầu trời xuất hiện tất cả với muôn sao tản mác; và lỉ lệ của chúng trong con mắt tương tự như trong bầu trời, và cũng tương tự như vậy với các khoảng cách giữa chúng.    

 

 

Về mặt trăng

 

Mặt trăng tự thân không có sáng, nhưng chỉ phần nào mặt trời nhìn thấy thì chiếu sáng. Phần chiếu sáng đó mà ta chỉ thấy khi nó quay về ta. Và đêm của nó nhận được đúng số ánh sáng mà nước trên trái đất gửi cho nó khi nước này phản chiếu trên mặt trăng hình ảnh của mặt trời, và được chiếu gương trên tất cả những nước đối diện với mặt trời và mặt trăng.      

Bề mặt của nước, của mặt trăng và của trái đất chúng ta luôn luôn rập rờn ít hoặc nhiều, và độ gồ ghề này là nguyên nhân cho sự khoáng đại ra vô số hình tượng của mặt trời phản chiếu lên đồi núi và thung lũng, biên duyên và ngọn sóng; trong những điểm sáng khác nhau trên mỗi đợt sóng cũng nhiều như có những con mắt nhìn từ những vị trí khác nhau. Điều này không thể nào xảy ra nếu thuỷ cầu với đại bộ phận bao phủ mặt trăng đều có hình cầu một cách đồng bộ, và như vậy ở đó sẽ có một hình ảnh của mặt trời cho mỗi con mắt, và những phản chiếu của nó sẽ rõ rệt và sự toả sáng của nó luôn mang hình cầu như cho thấy rõ ràng trong những quả cầu mạ vàng đặt trên chóp những toà nhà cao. Nhưng nếu những quả kim cầu đều gồ ghề hoặc được tạo bằng những viên nhỏ như quả dâu tằm vốn là loại trái cây màu đen lại gồm nhiều hạt tròn nhỏ, vậy thì mỗi bộ phận của những hạt tròn nhỏ này đều thấy được qua mặt trời và với mắt sẽ phô bày với mắt sự lấp lánh sản sinh do sự phản chiếu của mặt trời. Như thế, trong một vật thể duy nhất sẽ có nhiều mặt trời li ti; và thường thì những mặt trời này sẽ hỗn hợp ở khoảng cách xa và liên tục xuất hiện.

Không vật sáng nào tồn tại gồm những vật thể ít sáng hơn. Mặt trăng có vị trí trong những nguyên tố của nó hay không. Và nếu mặt trăng không có vị trí đặc biệt như địa cầu giữa những nguyên tố, bằng cách nào nó lại không rơi vào chính giữa những nguyên tố của chúng ta? Không vật nhẹ nào tồn tại giữa những vật nhẹ hơn. Và nếu nó nhẹ hơn mọi nguyên tố khác thì tại sao nó đặc và không trong suốt?

 

 

Chứng minh địa cầu là một tinh cầu

 

Trong thuyết trình của bạn, bạn phải chứng minh rằng địa cầu là một tinh cầu rất giống với mặt trăng, và sự huy hoàng của vũ trụ; sau đó, bạn phải trình bày kích thước của các tinh cầu theo các tác giả.    

Mặt trời không chuyển động.[1]

Mặt trời có chất thể, hình dạng, vận động, toả sáng, nhiệt, và nguyên động lực (generative power): những phẩm chất này tất cả đều phát xạ từ nó mà không suy giảm.

Mặt trời không hề thấy bất kì bóng tối nào.

 

Tán dương mặt trời 

Nếu bạn nhìn vào những tinh cầu không tia sáng (như khi nhìn vào chúng qua một cái lỗ nhỏ đục bằng mũi kim cực nhỏ và và đặt sao cho  hầu như áp sát mắt), bạn sẽ nhìn thấy những tinh tú này rất nhỏ gần như thể không gì nhỏ hơn được nữa; thực sự thì cự li thật xa là nguyên nhân cho sự thu nhỏ của chúng, vì nhiều tinh cầu trong số chúng lớn hơn gấp nhiều lần cái tinh cầu vốn là địa cầu với nước.  Vậy thử nghĩ xem, cái tinh cầu này của chúng ta gần như ở một cự li vô cùng xa là gì, và rồi thử xem có bao nhiêu tinh cầu có thể đặt vào kinh độ và vĩ độ giữa những tinh cầu này và rải rác khắp bóng tối mênh mang này. Tôi có thể chẳng làm gì khác hơn là khiển trách nhiều người trong số những người xưa khi họ cho rằng mặt trời không lớn hơn vẻ bên ngoài của nó; trong số họ là Epicurus; và tôi tin rằng ông lí giải như vậy là từ những hiệu quả của một nguồn sáng đặt trong tầng khí quyển của chúng ta có cự li đều từ trung tâm; bất cứ ai thấy nó, không bao giờ thấy nó suy giảm kích thước ở bất cứ cự li nào... nhưng ước gì tôi có ngôn từ dùng để khiển trách những ai hân hoan tán tụng việc sùng bái con người hơn cả việc sùng bái mặt trời; vì trong toàn vũ trụ, tôi không thấy một thực thể nào có kích cỡ lớn hơn và mạnh hơn thực thể này, còn ánh sáng của nó thắp sáng mọi thiên thể phân phối khắp vũ trụ. Mọi hoạt lực bắt nguồn từ nó bởi nhiệt trong những tạo vật phát sinh từ linh hồn (tia sáng đời sống); và cũng không có nhiệt hay ánh sáng nào khác trong vũ trụ... Và chắc chắn những ai đã chọn sùng bái những nhân vật như những thần linh, chẳng hạn Mộc tinh, Thổ tinh, Hoả tinh, và những thứ tương tự, phạm một sai lầm rất lớn, bởi ngay cả nếu một kẻ dù có to lớn như địa cầu, y hẳn là có vẻ giống như một trong những thứ nhỏ nhất của những tinh cầu, có vẻ chỉ là một cái đốm trong vũ trụ; huống chi những kẻ ấy đều phải chết và và phải chịu huỷ hoại và thối rữa trong những nấm mồ.               

[Tác phẩm] Spera và Marullo cùng những người khác đều tán dương mặt trời.[2]

 

 

BỐN NĂNG LỰC CỦA TỰ NHIÊN

Trọng lực, cường lực, cùng với những chấn động, thường được cho là những cái sản sinh ra sự vận động cũng như được sự vận động sản sinh ra. Trong ba năng lực ngẫu nhiên này, thì hai loại năng lực có cùng một tính chất khi chúng phát sinh, xu hướng, và kết cục.

Trọng lực, cường lực, đả kích và động lực là con cái của sự vận động bởi vì chúng được sinh ra từ đó. Trọng lực và cường lực luôn có xu hướng tử diệt và được duy trì bằng sự bạo liệt. Động lực thì thường xuyên là nguyên nhân cho sự vận động kéo dài xu hướng của vật thể vận động.

Hấp lực cùng với chấn động không chỉ hoán đổi để được gọi là mẹ và các con gái, cái này của cái kia và tất cả là chị em với nhau, bởi chúng đều có thể sản sinh do sự vận động, nhưng chúng vừa là nhà sản sinh vừa là các con gái của sự vận động này; bởi không có những thứ này trong chúng ta thì sự vận động không thể tạo ra được, cũng không có năng lực như vậy được phơi mở nếu không có vận động.

 

 

ĐỀ CƯƠNG CHO CUỐN SÁCH LUẬN VỀ CƠ HỌC LÍ THUYẾT

 

Luận trước tiên về trọng lực [hấp lực]

      rồi về sự chống đỡ của nó [tĩnh lực học]

      rồi về sự ma sát

      rồi về  sự vận động [động lực học]

      và cuối cùng về sự chấn động.

 

Trước tiên luận về trọng lực, tiếp theo là sự vận động tạo ra cường lực, rồi với cường lực này và cuối cùng về sự tác động.

Sắp xếp cuốn sách về những Nguyên tố của cơ học bằng những ví dụ trước việc chứng minh về sự vận động và cường lực của con người cùng những động vật khác và bằng những phương tiện ấy bạn có thể chứng minh mọi mệnh đề của mình.

Luận văn của bạn về sự vận động của những vật thể nặng bàn về những dịch thể nặng, về không khí, và về vận động của lửa. So sánh vận động của lửa với những lốc xoáy trong không trung và trong nước và bạn sẽ thấy những xoáy lốc trong lửa vốn có khả năng kết hợp những vòng xoay. Trong thí nghiệm này bạn có thể thực hiện với những thiết bị đo và với nước đun sôi.

 

 

Về cơ giới 

Tại sao tự nhiên không thể cấp năng lực vận động cho những động vật mà không có công cụ cơ giới, như tôi đã trình bày trong cuốn sách về sự vận động mà tự nhiên đã tạo ra trong các động vật. Vì lí do này, tôi đã vạch ra những quy tắc của bốn năng lực tự nhiên, thiếu chúng không gì có thể ban sự vận động cục bộ cho những động vật này. Vì thế, chúng ta trước tiên sẽ mô tả sự vận động cục bộ này, nó sản sinh và được sản sinh bởi một trong ba năng lực kia như thế nào. Tiếp theo, chúng ta sẽ mô tả trọng lực tự nhiên, tuy không có trọng lực nào có thể nói khác hơn là ngẫu nhiên nó làm hài lòng chúng ta để diễn tả nó như thế, như vậy để biện biệt nó với cường lực trong mọi vận hành của nó thuộc tính chất của trọng lực và do đó gọi là trọng lực ngẫu nhiên, và đây là cường lực sản sinh ra bởi năng lực thứ ba của tự nhiên, nó là năng lực cố hữu và tự nhiên. Năng lực thứ tư và cuối cùng được gọi là chấn động, nó cũng là chung kết và kiềm chế của vận động. Vậy chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc cho rằng mỗi vận động không cảm nhận được cục bộ sản sinh do một vận động cảm nhận được, hệt như trong chiếc đồng hồ với quả lắc được một người lên giây cũng là kẻ khởi động nó. Hơn nữa, những nguyên tố đẩy hoặc hút nhau, như ta nhìn thấy nước tống không khí ra khỏi bản thân nó, và lửa đi vào theo nhiệt dưới đáy của nồi nước và sau đó thoát ra bằng bong bóng trên mặt nước đang sôi. Cũng vậy, ngọn lửa hút không khí vào nó, và nhiệt mặt trời hút nước trong dạng hơi ẩm bốc lên và sau đó rơi xuống bằng cơn mưa lớn. Tuy nhiên, sự chấn động là năng lực bao la được phát sinh trong những nguyên tố.

 

 

I.  TRỌNG LỰC

     

Nóng và lạnh sinh ra từ khoảng cách gần hoặc xa mặt trời. Nóng và lạnh tạo sự vận động cho các nguyên tố. Không nguyên tố nào tự thân nặng hoặc nhẹ...

Sự vận động phát sinh từ sự kiện những gì loãng hơn có thể không đề kháng hoặc chống đỡ những gì đặc hơn.

Nhẹ sinh ra từ nặng và nặng sinh ra từ nhẹ; và chúng đồng thời luân phiên sinh ra; đền đáp lại cùng lúc cái ân huệ của sự tạo thành, chúng tăng trưởng về năng lực cũng như chúng tăng trưởng về đời sống, và có đời sống hơn khi chúng có nhiều vận động hơn; và chúng huỷ diệt nhau trong cùng khoảnh khắc trong sự báo thù chung về cái chết.

Như thế, đã được chứng minh, cái nhẹ không được tạo ra trừ phi nó kết với nặng, cũng thế, nhẹ không hề tồn tại trừ phi nó nằm bên dưới nặng... Và như vậy chính bằng những nguyên tố. Nếu, ví dụ, một lượng không khí nằm bên dưới nước, nước sẽ lập tức hấp thu trọng lực; không phải vì bản thân nó đã thay đổi, mà vì nó không gặp một lượng đề kháng thích hợp; do đó, nó hạ xuống vị trí do không khí chiếm bên dưới nó, trong khi không khí làm đầy chân không mà trọng lực đã bỏ lại.

 

Không có nguyên tố nào nặng hoặc nhẹ trừ phi nó di động. Đất khi tiếp xúc với Nước và Khí mà tự thân nó không nặng không nhẹ. Nó không có ý thức về Nước và Khí bao quanh nó ngoại trừ khi chúng di động. Và điều này cho thấy bởi lá của những cây khi mọc trên đất tiếp xúc với nước và khí, và không uốn cong ngoại trừ với vận động của khí và nước.

Từ đó đi tới kết luận, nặng là một sự cố do vận động gây ra từ những nguyên tố thấp hơn nằm ở nơi cao hơn.

Nhẹ là một hiện tượng tạo nên khi nguyên tố loãng hơn bị kéo xuống bên dưới nguyên tố ít loãng... rồi hấp thu trọng lực và gặp sự đề kháng không đủ từ nguyên tố loãng hơn ở bên dưới và rồi hấp thu độ nhẹ.

Nhẹ không sinh ra ngoại trừ liên kết với nặng, nặng cũng không sinh ra nếu không có nhẹ. Điều này có thể chứng tỏ: đưa khí vào trong nước bằng việc thổi một ống dẫn, và rồi không khí này sẽ hấp thu độ nhẹ và nước sẽ hấp thu độ nặng ở dưới nó, khí là một thực thể loãng hơn và nhẹ hơn bản thân nước...

Khinh lực (levity) và hấp lực (gravity) tạo ra do sự vận động tức thời. Sự vận động được tạo ra bởi nóng và lạnh.

Vận động là sự cố tạo ra do sự bất bình đẳng của trọng lượng và cường lực...

Vận động của các nguyên tố phát sinh từ mặt trời .

Khí nóng của vũ trụ do mặt trời sản sinh.

Ánh sáng và nhiệt vũ trụ phát xuất từ mặt trời, còn khí lạnh và bóng tối của nó phát sinh từ sự rút lui của mặt trời.

Mỗi vận động của những nguyên tố phát sinh từ nóng và lạnh.

Hấp lực và khinh lực được các nguyên tố tạo ra.

Trọng lượng hình thành khi một nguyên tố được đặt ở trên một nguyên tố khác loãng hơn bản thân nó.

 

Trọng lực được tạo ra bởi một nguyên tố bị dẫn nhập vào trong một nguyên tố khác.

Trọng lượng được tạo ra bởi một nguyên tố đặt vào trong một nguyên tố khác; và nó vận động bằng đường ngắn nhất hướng tới trung tâm của nó, không do chọn lựa của nó, không do trung tâm hấp dẫn nó; mà bởi nguyên tố khác can thiệp không thể cưỡng lại.

 

Hấp lực, cường lực, và vận động ngẫu nhiên cùng với chấn động, là bốn năng lực ngẫu nhiên từ đó mọi công cuộc nhìn thấy của con người đều tồn tại và kết thúc.

 

Hấp lực

Hấp lực là năng lực ngẫu nhiên, do vận động tạo ra và truyền vào trong những thực thể trội ngoài vị trí tự nhiên của chúng.   

 

 

Nặng và nhẹ

Hấp lực và Khinh lực có năng lực bằng nhau được tạo ra bởi một nguyên tố chuyển thành nguyên tố khác; trong mọi chức năng chúng đều giống nhau tới nỗi chúng có thể bị gọi tên một năng lực duy nhất. Vì chúng chỉ biến hoá trong những thực thể mà chúng truyền vào, và trong sự vận động tạo ra chúng và làm chúng mất đi.

Vật thể được cho là nặng và được tự do thoát khỏi trung tâm thế giới; và mỗi vật thể có năng lực bằng nhau.

 

 

Trung tâm mọi hấp lực

 

Mỗi hấp lực nặng thông qua tuyến trung tâm của vũ trụ bởi vì nó bị hấp dẫn tới trọng tâm này từ mọi bộ phận.

Mỗi tuyến trung tâm vũ trụ phát sinh từ trung tâm thế giới và kết thúc ở trung tâm hấp lực của mỗi vật thể.

Trung tâm độ lớn của những vật thể được đặt ở giữa độ dài, độ rộng, và độ sâu của chúng. Trung tâm của hấp lực ngẫu nhiên của những vật thể này được đặt vào giữa những bộ phận này đề kháng và cân bằng nhau. Trung tâm của hấp lực tự nhiên chia một vật thể thành hai bộ phận với trọng lượng và khối lượng bằng nhau.   

[Trong chương 2, tiết 9 từ tác phẩm] Những nguyên tố cho rằng trọng lực của mỗi hấp lực treo dừng lại ở phía dưới trung tâm chống đỡ nó, vì thế:—Tuyến trung tâm là tên để chỉ những gì người ta hình dung là tuyến thẳng từ vật thể tới trung tâm thế giới. Trung tâm của mọi hấp lực treo muốn thống nhất với tuyến trung tâm chống đỡ của nó. Và hấp lực treo thì di chuyển  khỏi tuyến trung tâm chống đỡ sẽ hấp thu thêm lực vượt quá lực của trọng lực tự nhiên của nó. Bây giờ, để kết luận, tôi xác nhận nước trong một vũng xoáy thì có trọng lực là đường ở tâm chạy tới cực của nó và mỗi trọng lượng nhỏ thêm các cạnh của nó là nguyên nhân khiến xoáy này có vận động.

 

 

2. CƯỜNG LỰC VÀ TRỌNG LƯỢNG

 

Ở đây, có người hỏi trọng lực tự nó sinh ra hay bởi cường lực, hoặc cường lực sinh ra do tự thân hay do trọng lượng.

 

 

Cường lực và trọng lượng dị biệt ra sao

 

Cường lực là yếu tính của tinh thần và do mãnh liệt ngẫu nhiên kết hợp với các vật thể nặng, hạn chế chúng khỏi đi theo xu hướng tự nhiên; và ở đây tuy thời lượng (duration) ngắn nhưng nó thường cho thấy bản thân có năng lực diệu kì.     

Cường lực và trọng lượng có nhiều điểm chung về mọi năng lực, chúng dị biệt chỉ trong sự vận động khi sản sinh và tiêu vong. Vì trọng lượng đơn giản tiêu vong khi tới chỗ sinh ra nó, còn cường lực thì sinh ra và chết đi với mọi vận động. 

Trọng lượng là một năng lực tạo nên bởi vận động để thành nguyên tố này sang nguyên tố khác bằng phương tiện của cường lực, và độ dài cuộc đời nó tương ứng với nỗ lực muốn trở lại chỗ nó sinh ra.

Cường lực là sản phẩm của sự khan hiếm và dồi dào. Nó là con của vận động vật chất và cháu của vận động tinh thần, là mẹ và nguồn gốc của trọng lượng. Trọng lượng bị hạn chế với những nguyên tố nước và đất, nhưng cường lực thì không bị giới hạn; vì nhờ nó, những thế giới vô hạn có thể đặt vào vận động nếu nó có thể tạo ra những công cụ để cường lực này có thể phát sinh.

Tinh thần của những động vật có cảm tính vận động thông qua chi thể của chúng và khi những bắp cơ mà nó đi vào được đáp ứng khiến cho chúng phồng lên, và vì chúng phồng lên, chúng thu ngắn và khi thu ngắn thì chúng kéo những sợi gân nối với chúng. Từ đó phát sinh ra cường lực và vận động của chi thể con người. Do vậy, vật thể này phát sinh từ vận động của tinh thần.       

Phẩm chất và khối lượng của cường lực trong con người sẽ có năng lực sinh ra cường lực khác, và năng lực này càng lớn về tỉ lệ thì vận động càng kéo dài hơn.

Trọng lượng và cường lực cùng với vận động của những cơ thể và chấn động là bốn năng lực của tự nhiên nhờ đó loài người trong nhửng tác phẩm diệu kì và đa dạng gần như tạo ra một thiên nhiên thứ hai trong thế giới này; vì bằng việc sử dụng những năng lực như thế, mọi tác phẩm có thể thấy của con người sự sinh ra và chết đi.

Cường lực sẽ càng yếu nếu càng xa nguồn của nó.

 

 

Cường lực là gì?

Tôi định nghĩa cường lực là một nhân tố vô hình thể, một năng lực vô hình, và bằng những phương tiện của áp lực bên ngoài không tiên liệu tạo ra bởi sự vận động dự trữ và khuếch tán bên trong những vật thể vốn kiềm chế và đi chệch khỏi công dụng tự nhiên của chúng; cường lực truyền vào những vật thể này một đời sống tích cực đầy năng lực diệu kì, nó thúc ép mọi tạo vật phải thay đổi hình dạng và vị trí, và thúc dục kịch liệt tới sự tiêu vong chờ mong của nó, và thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh. Khi nó chậm lại thì sức mạnh gia tăng, và tốc độ làm suy giảm nó. Nó được sinh ra trong bạo lực và chết trong tự do; và nó càng lớn bao nhiêu thì nó càng chóng tiêu hao bấy nhiêu. Nó xua đuổi dữ dội bất cứ gì chống lại sự phá huỷ của nó. Nó muốn chinh phục và giết chết nguyên nhân chống đối, và trong quá trình chinh phục nó huỷ diệt bản thân. Ở đâu nó thấy chướng ngại càng lớn thì nó trở nên mạnh mẽ hơn. Mọi thứ theo bản năng chạy trốn cái chết. Mọi thứ khi chịu sự thúc ép thì bản thân nó cũng thúc ép những thứ khác. Thiếu cường lực thì không có gì vận động. Thực thể mà từ đó nó được sinh ra không tăng trưởng về trọng lực cũng như về hình dạng. Không có vận động nào mà nó tạo ra là bền bỉ.

Nó gia tăng bằng nỗ lực và biến mất khi ngưng nghỉ. Vật thể mà trong đó nó bị hạn chế thì bị mất tự do. Thường thường cũng bằng những vận động để nó phát sinh ra cường lực mới.  

Cường lực thì vẫn y nguyên suốt mặt và toàn thể có trong từng bộ phận.  

Cường lực là một năng lượng tinh thần, một năng lực vô hình, nó tạo ra và truyền bởi bạo lực từ bên ngoài tới mọi vật thể không có sự quân bình tự nhiên.

Cường lực không là gì khác ngoài một năng lượng tinh thần, một năng lực vô hình, được tạo ra và được truyền, thông qua bạo lực từ bên ngoài, bởi những vật thể có sinh hồn (animated) tới những vật thể không sinh hồn, và cấp cho những thứ này một sư tương tự như đời sống, và đời sống này tác động theo một cung cách diệu kì, thúc ép và chuyển hoá vị trí và hình dạng mọi tạo vật. Nó mãnh liệt chóng đi tới sự lụn bại và tiếp tục biến cải tuỳ theo tình huống.  

Sự trì trệ củng cố, còn tốc độ làm suy yếu nó.

Nó sống bằng bạo lực và chết bởi tự do.

Nó chuyển hoá và bức bách mọi vật thể phải thay đổi vị trí và hình dạng.

Năng lực lớn cho nó sự ham muốn lớn về cái chết.

Nó xua đuổi dữ dội bất kể những gì chống lại sự huỷ diệt của nó.

Kẻ chuyển hoá các hình dạng khác nhau.

Luôn sống khó chịu với bất cứ ai kiềm chế nó.

Luôn đối kháng với những ham muốn tự nhiên.

Nó dần tăng trưởng từ những khởi đầu nhỏ và tự làm thành một năng lực kinh khủng và diệu kì và bằng sự tự đè nén, nó thúc ép mọi sự vật... nó trú trong những vật thể thoát li khỏi quá trình và công dụng tự nhiên của chúng... sẵn lòng tiêu hao bản thân.

Cường lực xuyên suốt là đồng dạng đều khắp và qua tất cả vật thể mà nó phát sinh.

Cường lực chỉ là sự ham muốn bay.

Nó luôn muốn là yếu và tự tiêu phí.

Tự thân bị thúc ép nó thúc ép mọi vật.

Thiếu nó, không gì vận động.

Thiếu nó, không âm thanh hoặc tiếng nói nào được nghe thấy.

Hạt giống chân chính của nó nằm trong những sinh thể.

Trọng lượg được truyền trọn vẹn bằng sự đề kháng thẳng góc, và trong tất cả từng bộ phận của đề kháng.

Nếu một đề kháng nghiêng (oblique) chống với trọng lượng bị thả lỏng và tự do, nó sẽ không đề kháng lại với trọng lượng; trái lại nó sẽ hạ xuống cùng với cường lực để tàn lụi.    

Tính chất của trọng lượng là tự truyền theo bản tự ý nó tới vị trí mong muốn.

Mỗi bộ phận của cường lực chứa đựng toàn lực—trái với trọng lượng. Thường thường chúng là những kẻ thắng lợi của cái này lên cái khác.

Chúng có tính chất tương tự về áp lực và kẻ mạnh khắc chế kẻ yếu. Trọng lực không thay đổi tự ý, trong khi cường lực thì luôn đào thoát.

Trọng lượng mang tính hình thể còn cường lực thì vô hình thể.

Trọng lượng là vật chất còn cường lực là tinh thần.

Một đàng muốn thoát khỏi bản thân và sự tiêu  vong, đàng kia tìm sự ổn cố và thường hằng.

Thường thường cái này phát sinh cái kia.

Nếu trọng lượng tạo nên cường lực, cường lực là trọng lượng.

Nếu trọng lượng chinh phục cường lực, cường lực là trong lượng.

Và nếu chúng có sức mạnh bằng nhau thì chúng thành đồng bạn lâu dài.

Nếu một đàng là vĩnh hằng thì đàng kia sẽ phải tiêu vong.

 

Nếu bạn đang trên một con thuyền, và bạn dùng hết sức lực mà con thuyền vẫn không di chuyển khỏi vị trí, trừ phi cường lực này mạnh hơn trở ngại bên ngoài con thuyền hơn là thực hiện bên trong con thuyền. Lại nữa, nếu bạn bị trùm trong một cái bao, và bạn ráng sức di chuyển, bạn sẽ thấy không thể di chuyển khỏi vị trí; nhưng nếu bạn rút một chân ra khỏi cái bao và dùng như một đòn bẩy trên mặt đất, đầu bạn trùm tới đáy bao, và lôi ngược nó ra.

Ngọn lửa cũng như vậy với mong muốn của nó là nhân lên và tự vươn ra khẩu đại pháo, vì trong khi nó hoàn toàn ở bên trong đại pháo thì không bị giật lại. Nhưng khi tia lửa này loé lên và đẩy không khí đang đề kháng trong khi vẫn giữ liên kết với lực đẩy dưới đáy, đó là nguyên nhân khiến đại pháo giật lại; vì thành phần của tia lửa loé lên không thể tìm trong không khí mà lối thoát tức thời mà nó đòi hỏi, đẩy cường lực của nó tới phía đối diện.

 

 

3. SỰ VẬN ĐỘNG

 

Định nghĩa về sự vận động

Vận động trực tuyến là mở rộng từ điểm này tới điểm khác bằng tuyến ngắn nhất.

Vận động khúc tuyến là ở đó không có vận động trực tuyến nào có thể tìm thấy ở bất kì bộ phận nào.

Vận động xoáy ốc được kết hợp bằng một tuyến xiên và cong, như vậy những tuyến vẽ từ trung tâm ra chu vi có thể thấy có các độ dài khác nhau. Và nó có bốn loại hình, xoắn ốc lồi, xoắn ốc phẳng, xoắn ốc lõm, và thứ tư là xoắn ốc hình trụ.

Ngoài ra còn có loại vận động vòng tròn luôn xoay quanh một điểm ở cự li đều nhau được gọi là xoay vòng. Cũng có những vận động bất quy tắc vốn vô hạn và được kết hợp hỗn hợp từ các loại vận động nói trên. 

 

 

Khái quát về sự vận động

Nguyên nhân vận động là gì. Bản thân vận động là gì. Điều gì thích nghi nhất đối với vận động. Động lực là gì; nguyên nhân của vận động là gì; nó được tạo bằng phương tiện gì. Dao động là gì; nguyên nhân của nó là gì. Sự dội lại là gì. Đường cong của vận động trực tuyến và nguyên nhân của nó là gì.

Một điểm không có bộ phận; một tuyến là chuyển tiếp của một điểm; những điểm là những biên giới của một tuyến. Một khoảnh khắc không có thời gian. Thời gian được làm bằng vận động của khoảnh khắc, và những khoảnh khắc là những biên giới của thời gian.

 

 

Về sự vận động

Tôi thấy rằng cường lực cùng với thời gian là vô hạn; và trọng lực cùng với trọng lực của toàn bộ cơ giới địa cầu là hữu hạn. Tôi cũng thấy rằng hành trình của thời gian bất khả phân là sự vận động, và sự vận động này được làm bằng sự đa dạng, cụ thể là bằng tự nhiên, ngẫu nhiên, và dự phần; và việc vận động này dự phần kết thúc bằng năng lực lớn nhất của nó khi nó thay đổi từ ngẫu nhiên sang tự nhiên trong giữa quá trình của nó. Và tự nhiên mạnh mẽ hơn lúc kết thúc hơn tại bất kì nơi nào khác; tính ngẫu nhiên thì mạnh mẽ nhất trong vận động thứ ba và yếu nhất khi kết thúc.

Không có vận động nào chậm tới nỗi có thể tìm ra một khoảnh khắc ổn định.

Vận động chậm hơn bao gồm ít cự li hơn trong cùng thời gian.

Và vận động nhanh hơn bao gồm cự li nhiều hơn trong cùng thời gian.

Vận động có thể đạt được những cấp độ chậm vô hạn.

Trong năng lực vận động phát huy tốc độ chậm vô hạn và cũng có thể nhanh vô hạn.

Sự vận động có năng lực phát huy thành tốc độ vô hạn.

 

 

4. VẬN ĐỘNG VÀ TRỌNG LƯỢNG

 

Về vận động và trọng lượng

Trong những vận động bằng nhau thực hiện trong thời gian bằng nhau, nguyên động cơ (mover) sẽ luôn có năng lực hơn là vật thể bị di động; và nguyên động cơ sẽ mạnh hơn nhiều so với vật thể bị di động tỉ lệ với sự vận động của vật thể bị di động này, và vượt quá trường độ vận động của nguyên động cơ; và sự dị biệt giữa sức phát động của nguyên động cơ với sức của vật bị di động sẽ kém hơn rất nhiều tỉ lệ với với trường độ của vận động tạo ra do vật bị di động và kém hơn vận động của nguyên động cơ...     

Chúng ta nhìn thấy điều này qua mũi tên bắn ra từ cây cung, khi điểm của mũi tên tựa lên phiến gỗ; cho dù sợi dây đẩy nó đi bằng tất cả cường lực của cây cung, nó chỉ có thể xâm nhập phiến gỗ rất ít, nhưng trái lại nếu nó có một số vận động.

Có người cho rằng mũi tên khi di động nó kích khởi sóng không khí ở trước mặt, và qua sóng vận động này nó ngăn quá trình của mũi tên khỏi bị cản trở. Tuy nhiên, điều này không đúng, bởi mọi thứ bị di chuyển kiệt sức và cản nguyên động cơ của nó. Vì thế, không khí lưu hành trong những sóng phía trước mũi tên chính là do sự vận động của mũi tên này, và nó đem lại ít hoặc không giúp gì được cho sự vận động cho nguyên động cơ của nó, vốn phải bị di chuyển bởi cùng nguyên động cơ, thay vì chặn và rút ngắn sự vận động của vật bị di chuyển.

Mỗi chất thể nặng vận động ở phía bên mà nó nặng nhất. Những vật thể nặng vận động ở đâu gặp ít sự đề kháng nhất.   

Bộ phận nặng nhất của những vật thể vận động trong không khí trở thành kẻ dẫn đạo cho những vận động.      

Chất thể nặng hạ xuống chậm hơn thông qua không khí và có độ rộng lớn hơn.

Tiếp theo là chất thể nặng sẽ hạ xuống nhanh hơn và có độ rộng kém nhất.

Sự hạ xuống tự do của mọi chất thể được hình thành dọc theo tuyến có đường kính lớn nhất.      

Những vận động của trọng lực có ba loại, trong đó hai loại trái ngịch nhau, còn loại thứ ba dự phần vào cái thứ nhất hoặc cái thứ nhì.

Nguyên nhân khiến sự vận động tác động từ dưới lên trên trở nên càng yếu thì càng lên cao; mặt khác, trái lại, càng hạ xuống thì càng mạnh hơn. Trong khi loại thứ nhất rời bỏ vị trí cao độ mà không gây tổn hại đến loại thứ hai, nhưng trái lại, gây thiệt hại lớn cho bản thân nó và những thứ khác; loại vận động thứ ba theo hướng ngang và một nửa của nó tương tự trọng lực hạ xuống còn nửa kia thì giống trọng lực khi lên cao.

Chứng cứ về tỉ lệ của thời gian và vận động cùng với tốc độ trong việc hạ xuống của những thực thể nặng theo hình kim tự tháp, bởi những năng lực nói trên tất cả đều có hình kim tự tháp, vì vậy chúng khởi đầu không có gì và tiếp tục gia tăng những mức độ theo tỉ lệ số học.

Nếu bạn cắt hình chóp ở bất kì đoạn nào trong cao độ của nó bằng một tuyến có cự li đều với mặt đáy của nó, bạn sẽ thấy rằng tỉ lệ của cao độ của bộ phận từ mặt đáy của nó lên tới cao độ toàn bộ của hình chóp sẽ như nhau theo tỉ lệ giữa bề ngang của bộ phận này với lại bề ngang của toàn bộ mặt đáy.

Giờ chúng ta thấy rằng khối lượng bất liên tục khi vận động tiếp thu ở mỗi giai đoạn vận động một mức độ về tốc độ; và như vậy trong mỗi giai đoạn của thời gian điều hoà chúng tiếp thu một trường độ về không gian của nhau và sự thủ đắc này nằm trong tỉ lệ số học.

 

 

Về sự vận động

Trọng lượng hạ xuống tự do tiếp thu một mức độ vận động với mọi cấp độ thời gian, và với mọi mức độ vận động nó tiếp thu một mức độ về tốc độ.

Mặc dù sự phân chia đều nhau của vận động về thời gian không thể phát biểu bằng những mức độ giống như vận động của những vật thể, tuy nhiên trong trường hợp này tôi phải tạo ra những mức độ theo cách mà chúng tạo ra [âm giai] đối với những nhạc sĩ.

Chúng ta hãy giả định trong mức độ đầu tiên của thời gian, trọng lượng thủ đắc một mức độ vận động và một mức độ của tốc độ, thì nó sẽ thủ đắc hai mức độ của vận động và hai mức độ của tốc độ trong mức độ thứ nhì của thời gian và cứ tiếp tục như thế...

 

Sóng của không khí được sản sinh bởi một vật thể đang di chuyển qua không khí sẽ nhanh hơn nhiều so với vật thể làm nó di chuyển.

Đó là bởi vì không khí dễ phát tán, khi một vật thể di chuyển qua nó, nó tạo ra đợt sóng đầu tiên trong vận động đầu tiên, và đợt sóng đầu tiên không thể tạo ra mà không đồng thời gây ra một đợt sóng khác tiếp theo nó và tạo ra đợt sóng khác nữa. Và như thế, vật thể này di chuyển qua không khí tạo ra bên dưới nó trong mỗi giai đoạn thời gian những bội số của những đợt sóng trong sự phi hành chuẩn bị con đường cho sự vận động của nguyên động cơ. 

Nếu hai vật thể có trọng lượng và hình dạng bằng nhau rơi xuống tiếp nối nhau từ một độ cao bằng nhau, một vật thể sẽ ở một mức độ cự li xa hơn vật thể kia trong mỗi mức độ thời gian.

Trọng lượng vốn có một độ hạ xuống tự do tiếp thu một mức độ trọng lượng theo mỗi mức độ vận động...       

Trọng lượng hạ xuống tự do có được một mức độ tốc độ theo mỗi giai đoạn vận động.  

Và bộ phận của vận động được thực hiện trong mỗi mức độ thời gian càng trở nên dài hơn một cách liên tục.

Nếu nhiều vật thể có trọng lượng và hình dạng bằng nhau được phép rơi tiếp theo nhau vào những khoảng thời gian bằng nhau thì những thặng dư của những lần gián đoạn sẽ bằng với nhau. 

Việc thí nghiệm với kết luận ở trên ứng vào vận động nên tiến hành theo cách này: ta lấy hai quả cầu có trọng lượng và hình dạng bằng nhau rồi thả chúng xuống từ một độ rất cao, sao cho lúc bắt đầu chuyển động chúng tiếp xúc với nhau; và người thí nghiệm sẽ ở vị trí trên mặt đất phía dưới để quan sát xem khi rơi chúng có giữ sự tiếp xúc với nhau hay không. Và thí nghiệm nàysẽ lập đi lập lại sao cho không có sự ngẫu nhiên có thể xảy ra làm trở ngại hoặc xuyên tạc bằng chứng—vì sự thí nghiệm có thể sai và cũng có thể hoặc không thể gạt được người thí nghiệm.

 

 

Về sự hạ xuống của trọng lượng

Mọi hành động tự nhiên được thực hiện bằng con đường ngắn nhất; và đây là lí do việc hạ xuống tự do của trọng lượng được thực hiện hướng tới trọng tâm của thế giới; bởi vì đó là cự li ngắn nhất giữa vật di động và độ sâu tột cùng của vũ trụ.   

Mọi trọng lượng có xu hướng hạ xuống trung tâm này bằng đường ngắn nhất; và ở đâu có trọng lượng lớn hơn thì ở đó có xu hướng lớn hơn, và vật thể nặng nhất thì rơi tự do nhanh nhất. Càng ít độ nghiêng của vật chất ngăn trở thì sự đề kháng càng lớn. Trọng lượng truyền qua do bản chất để đi vào bất cứ những gì nâng đỡ nó và như vậy nó xâm nhập từ nâng đỡ này tới nâng đỡ khác, nó trở nên nặng hơn khi nó truyền từ vật thể này sang vật thể khác cho tới khi mó nhận ra xu hướng của nó...

Trong tác động ép và đè nặng, nó giống như cường lực. Trọng lượng bị chinh phục bởi cường lực như cường lực bị chinh phục bởi trọng lượng. Người ta có thể thấy trọng lượng không có cường lực, nhưng không thấy cường lực không có trọng lượng. Nếu trọng lượng không có kế cận thì nó tìm kiếm dữ dội, trong khi cường lực thì xua đuổi nó dữ dội.

Nếu trọng lượng muốn một vị trí thường trực, thì cường lực sẵn sàng thoát khỏi nơi đó.

Nếu trọng lực muốn ổn cố, thì cường lực luôn muốn tẩu thoát; trọng lượng tự thân không mệt mỏi, trong khi cường lực thì không bao giờ tránh khỏi. Trọng lượng càng rơi càng nặng còn cường lực càng rơi càng giảm. Nếu đằng này là vĩnh cửu thì đằng kia sẽ tiêu vong. Trọng lượng là tự nhiên còn cường lực thì ngẫu nhiên. Trọng lượng muốn ổn cố và thường hằng, còn cường lực mong muốn tẩu thoát và cái chết.    

Trọng lượng, cường lực, và một cái đập tương tự nhau về áp lực.

 

 

5. VẬN ĐỘNG VÀ CƯỜNG LỰC

Thứ nhất. Nếu một lực di chuyển một vật thể nhất định tới một cự li xa trong một thời gian nhất định, thì cùng lực này sẽ di chuyển phân nửa vật thể này cùng thời gian với cự li gấp đôi.

Thứ nhì. Nếu bất cứ cường lực nào di chuyển bất cứ vật di động nào tới một cự li nhất định trong một thời gian nhất định, thì cùng cường lực này sẽ di chuyển phân nửa vật thể ấy toàn bộ cự li bằng phân nửa thời gian này.

Thứ ba. Nếu một cường lực di chuyển một vật thể trong một cự li nhất định thì cùng lực này sẽ di chuyển phân nửa vật thể này và phân nửa cự li trong cùng thời gian.

Thứ tư.  Nếu một lực di chuyển một vật thể trong một thời gian nhất định tới một cự li nhất định, thì phân nửa cường lực sẽ di chuyển trong cùng thời gian phân nửa vật thể tới phân nửa cự li.

Thứ năm. Nếu một cường lực di chuyển một vật thể trong một thời gian nhất định tới một cự li nhất định, thì không nhất thiết lực đó di chuyển gấp đôi trọng lượng này với gấp đôi thời gian và gấp đôi cự li này, bởi có thể cường lực này không thể di chuyển được vật thể này.

Thứ sáu. Nếu một cường lực di chuyển một vật thể trong một thời gian nhất định, một cự li nhất định, không nhất thiết phân nửa cường lực này di chuyển vật thể này trong cùng thời gian và phân nửa cự li, vì rất có thể nó không có khả năng di chuyển nó.

Thứ bảy. Nếu hai cường lực tách biệt di chuyển hai vật thể tách biệt, cùng hai cường lực này kết hợp lại sẽ di chuyển trong cùng thời gian hai vật di động liên kết nhau tới cùng cự li, bởi tỉ lệ vẫn giữ như nhau.

Không gì có thể di chuyển mà lại mạnh trong chuyển động đơn thuần của nó hơn được nguyên động cơ của nó.

 

 

Về nguyên động cơ hoặc vật có thể di chuyển 

Năng lực của nguyên động cơ luôn luôn lớn hơn sự đề kháng của vật bị di chuyển.

 

Về sự vận động được thực hiện bởi những vật tỉ lệ với năng lực thúc đẩy chúng 

Người ta nên làm thí nghiệm với một cái nỏ hoặc năng lực nào không bị yếu dần đi, và cũng thí nghiệm với những quả cầu hình dạng bằng nhau bằng những chất liệu và trọng lượng khác nhau để thử xem cái nào đi xa nhất khỏi động lực, và thử với nhiều hình dạng và kích thước khác nhau, độ rộng và độ dài, và tạo nên một quy tắc chung. Tôi muốn biết trọng lượng bao nhiêu mà lực sẽ có để đẩy đi một cự li xa nhất xa khỏi bản thân nó một trọng lượng khoảng một cân Anh [pound=450g] của khối hình cầu.

 

 

Về năng lực của cái nỏ

Trọng lực nạp vào cái nỏ có cùng tỉ lệ với trọng lực của mũi tên như vận động của mũi tên cùng tỉ lệ với vận động của sợi dây.

Ở đây người ta phải khấu trừ ba sự đề kháng do không khí tạo ra, đó là mức chấn động của cánh cung từ nỏ tạo ra trong không khí, và chấn động của sợi dây; đề kháng thứ ba tạo ra bởi trở lực với mũi tên. 

Nếu sợi dây nỏ giương ra với trọng lượng bốn trăm cân Anh trên hình chữ v với vận động của một phần ba của thước Ý (braccia), khi tự phóng đi nó sẽ giương hai trăm cân Anh với hai phần ba của cự li thước Ý từ chữ v của nỏ; và một trăm cân Anh sẽ rời khỏi vị trí của nó bằng lực như thế cho một không gian của một thước Ý và một phần ba.

Và bạn giảm càng nhiều trọng lượng của vật di động thì lực sẽ tạo nên một chuyển động lớn hơn, vì thế bạn sẽ luôn thấy rằng chuyển động của sợi dây và chuyển động của vật thúc đẩy sẽ có cùng tỉ lệ với trọng lượng giương sợi dây tới điểm v và với trọng lượng bị đẩy bởi sợi dây (nếu không khí không hạn chế nó).

Một người muốn cho cây cung bắn đi thật xa, y tất phải trụ hoàn toàn một chân còn bàn chân kia nhấc lên tới mức xa khỏi bàn chân đang đứng sao cho có thể tạo đối thế cần thiết giữ thăng bằng cho cơ thể sẽ lao tới phía trước bằng bàn chân thứ nhất. Và cánh tay không được duỗi hết mức, và để chịu được sức kéo căng hơn, y phải nắm một phiến gỗ như sử dụng trong các loại nỏ, rồi kéo trương tới ngực, và khi muốn bắn y sẽ đột nhiên nhảy tới phía trước và đồng thời phát huy hết mức của cánh tay với cây cung rồi buông sợi dây ra. Nếu thuần thục, y sẽ hoàn thành mọi động tác cùng lúc và mũi tên sẽ bắn đi rất xa.      

Lí do nêu ra với việc này như sau: chúng ta biết rằng, bước nhảy tới phía trước thì nhanh, nó đem lại một mức độ mãnh liệt cho mũi tên, và thứ hai, cánh tay trương ra đem lại một mức độ gia tốc; thứ ba, sức đẩy của sợi dây cũng làm gia tốc. Do đó, nếu những mũi tên khác được phóng đi bởi ba mức độ mãnh liệt, và ở đây được phóng đi bằng sự tinh xảo bởi sáu mức độ thì nó sẽ đi với cự li gấp đôi.  Và tôi phải nhắc nhở bạn để cho cây cung buông lơi vì thế nó sẽ giữ độ căng và nẩy tới phía trước.

 

Tôi có mười số đo thời gian và mười số đo cường lực và mười số đo vận động và mười số đo trọng lực, và tôi muốn nâng trọng lượng này lên.

Nếu tôi tăng gấp đôi trọng lượng và không phải cường lực khi vận động, điều này cần tăng gấp đôi thời gian.

Nếu tôi tăng gấp đôi trọng lượng và không phải thời gian hoặc cường lực, việc này cần giảm một nửa sự vận động.

Nếu tôi tăng gấp đôi trọng lượng và không phải sự vận động hoặc thời gian, việc này cần tăng gấp đôi cường lực.

Nếu tôi tăng gấp đôi trọng lượng và không phải sự vận động hay thời gian, thì cường lực cần giảm một nửa.

 

 

6. ĐỘNG LỰC VÀ CHẤN ĐỘNG

 

Vận động sơ khởi là gì

Vận động sơ khởi được tạo ra bởi vật di động trong thời gian khi nó liên kết với nguyên động cơ.

 

 

Về sự vận động phái sinh

Vận động phái sinh (derived) là vật thể có thể di động xuyên qua không khí, sau khi nó đã bị tách ra khỏi nguyên động cơ. Những vận động phái sinh bắt nguồn từ vận động sơ khởi và nó không bao giờ có tốc độ hoặc năng lực bằng với tốc độ hoặc năng lực của vận động sơ khởi này. Lộ trình của vật di động sẽ phù hợp với phương hướng của lộ trình của nguyên động cơ khi tất cả những bộ phận của vật di động này có vận động bằng với vận động sơ khởi của nguyên động cơ.

 

 

Định nghĩa về động lực

Động lực (impetus) là năng lực tạo ra bởi vận động và truyền từ nguyên động cơ tới vật di động; và vật di động này có nhiều vận động bằng với động lực có sức sống.

 

 

Về động lực

Động lực là ấn tượng của vận động được truyền bởi nguyên động cơ tới vật di động.

Động lực là một năng lực tác động bởi nguyên động cơ lên vật di động.

Mọi ấn tượng có xu hướng thường hằng hoặc muốn trường cửu. điều này cho thấy trong tác động do mặt trời tạo ra trong mắt của người quan sát và trong ấn tượng về âm thanh tạo ra bằng quả lắc như khi nó khua cái chuông.

Mỗi ấn tượng muốn trường cửu như khi thấy qua hình ảnh về sự vận động tạo ấn tượng lên vật di động.

 

 

Động lực là gì

Động lực dưới một tên khác được gọi là vận động phái sinh, nảy sinh từ vận động sơ khởi, nghĩa là khi vật di động liên kết với nguồn phát sinh.

Không bộ phận nào thuộc vận động phái sinh mà ta thấy có tốc độ bằng với tốc độ của vận động sơ khởi. Chẳng hạn, trong mỗi giai đoạn vận động của dây cung có sự thất thoát lực đã tiếp thu mà nguồn phát sinh đã truyền vào. Và bởi mỗi hiệu quả tham dự vào nguyên nhân của nó, cho nên việc vận động phái sinh của mũi tên làm giảm lực theo những mức độ, và như vậy, tham dự vào lực của cây cung như nó đã sản sinh ra sao thì mức độ bị huỷ cũng thế.

Động lực giản đơn là động lực di chuyển mũi tên hoặc lao qua không khí. Động lực hợp lực là động lực di chuyển viên đá như khi nó phát sinh từ cái ná.

 

Tôi hỏi tại sao cái giáo hoặc cái roi săn lại có vận động lớn hơn cánh tay. Tôi cho rằng, điều này xảy ra bởi vì bàn tay vạch một vòng rộng hơn nhiều khi cánh tay di chuyển hơn là khuỷu tay; vì vậy, khi chuyển động cùng lúc, bàn tay bao trùm không gian nhiều gấp hai lần so với khuỷu tay, do đó có thể nói là tốc độ gấp đôi so với vận động của khuỷu tay, và như vậy, nó phóng vật thể đi một cự li xa hơn khỏi bản thân nó.      

Vậy, bạn thấy rõ ràng vòng cung do khuỷu tay vạch ra kém phân nửa và tốc độ chậm phân nửa.

Đúng rằng, nếu ta trừ đi từ vận động tạo ra bởi bàn tay một số lượng bằng với vận động tạo ra bởi khuỷu tay, những vận động này có độ chậm bằng nhau.     

 

Có hai loại chấn động khác nhau, giản đơn và phức tạp. Giản đơn thì được tạo ra bằng vật di động đang rơi lên mục tiêu của nó. Phức tạp là danh xưng dùng gọi khi sự chấn động đầu tiên này vượt ra ngoài sự đề kháng của vật thể nó đập vào đầu tiên, như trong cú nện vào cái đục của nhà điêu khắc từ đó chuyển sang khối cẩm thạch mà y đang tạc. Cú nện này cũng chia ra thành hai loại khác, là cú nện giản đơn và kép. Nện giản đơn đã được mô tả đầy đủ. Nện kép xảy ra khi cái búa giáng lực trong vận động tự nhiên của nó rồi bật dội lại khỏi cú nện lớn hơn để tạo ra cú nện kém hơn và khiến việc chấn động này ở trong hai chỗ, với hai bên đối nghịch của cái búa. Và cú nện này càng yếu đi về tỉ lệ với số trở lực xen vào giữa sự đề kháng cuối cùng, hệt như nếu một người đập lên những trang đầu quyển sách, cho dù mọi trang đều tiếp xúc nhau, trang cuối vẫn cảm giác tổn thất nhẹ.     

 

 

Về sự vận động và chấn động

Nếu một người hạ xuống bằng việc nhảy từ bậc này xuống bậc khác, bạn cộng lại tất cả lực chấn động và trọng lượng của những bước nhảy này lại với nhau, bạn sẽ thấy chúng bằng với toàn bộ chấn động và trọng lượng mà một người tạo ra nếu ngã xuống bằng một tuyến thẳng góc từ chóp tới đáy theo độ cao của chiếc cầu thang này.

Hơn nữa, nếu người này ngã xuống từ một độ cao, rồi cứ từng chặng va lên những vật đàn hồi như lò xo, theo cách này, và việc dao động từ nấc này tới nấc khác làm nhẹ đi, bạn sẽ thấy rằng ở bộ phận hạ xuống cuối cùng, người này sẽ có được sự dao động giảm đi nhiều so với việc rơi xuống tự do theo tuyến thẳng góc, và hẳn cũng sẽ vậy nếu mọi chấn động được trừ đi ở mỗi nấc hạ xuống nói trên lên những vật đàn hồi nói trên.

 

Mỗi vật thể hình cầu có bề mặt dày và chịu được áp lực khi di chuyển bằng một lực bằng nhau sẽ tạo ra nhiều vận động đàn hồi được tạo ra bởi sự va chạm của nó lên một sàn bê-tông như thể nó bị ném tự do qua không khí.

Thật đáng khâm phục sự công bình của Ngài, hỡi Kẻ phát động Đầu tiên! Ngài đã không muốn bất kì năng lực nào bị tước đi khỏi những quá trình hoặc những phẩm chất cho những kết quả thiết yếu của nó; vì, nếu một lực có khả năng thúc đẩy một vật thể bị nó chinh phục, là một trăm thước Ý, thì vật thể này trong khi phục tùng nó, sẽ đối phó với trở ngại nào đó, Ngài đã an bài cho cường lực va chạm tạo ra một vận động mới, bằng những đàn hồi đa dạng để hồi phục toàn bộ khối lượng của cự li mà nó ngang qua.       

Và nếu bạn muốn đo lường đường đi mà những giới hạn này tạo ra, bạn sẽ phát hiện nó có cùng trường độ như nó được tạo ra bởi một vật thể tương tự thúc đẩy tự do qua không khí có cùng một cường lực.

 

Tạo sao dẫn khởi lại là cú đập thay vì được tạo nên do sự vận động; cú đập đã hoạt động chức năng của nó trước khi vật thể khởi đầu quá trình của nó.

 

Cú đập được sinh ra từ cái chết của vận động, còn vận động sinh ra từ cái chết của cường lực. 

Cường lực được tạo ra do sự vận động tiêm vào trọng lực, và cũng vậy, đả kích được tạo ra do vận động tiêm vào trọng lượng.

 

Về cú đập và chuyển vị gây ra do trọng lượng hoặc cường lực.

Tôi cho rằng sự chuyển vị do trọng lượng tạo ra khi rơi thì bằng với chuyển vị do cường lực tạo ra.

Vật thể khi nhận cú đập mà không bị tổn thương cũng rất giống như trong phần đối diện khi nó nằm trong bộ phận bị đập. Điều này có thể chứng minh khi một tảng đá bị đập khi nằm trong đôi tay một người, vì bàn tay không bị thương khi cầm khối đá như đáng lẽ sẽ bị nếu nó thật sự bị đập.  

 

Luôn xác định tỉ lệ cú đập đối với vật thể nhận lãnh.

Bởi vì một trăm cân dùng trong một cú đập thì tạo nên chấn động lớn hơn là một triệu cân mà ứng dụng từng cân một, tôi khuyên rằng khi bạn nhắm cái búa máy (battering ram) công kích vào thành trì, bạn nên tạo cú đập để quăng lên không trung bằng trọng lượng của một số người, tiếp theo bạn kéo nó lại giống như cái máy bắn đá (catapult) hoặc cái nỏ, thì bạn sẽ có được hiệu quả tốt.      

 

Một cú đập là chung kết của vận động tạo ra trong một thời gian không thể phân chia, bởi vì nó được tạo ra ở điểm cuối của tuyến vận động tạo ra do trọng lượng vốn là nguyên nhân của cú đập.

Nếu cái búa nặng mười cân đóng một cái đinh vào tấm gỗ bằng một cú đập, thì cái búa nặng một cân sẽ không đóng hết cái đinh vào tấm gỗ trong mười cú đập. Cái đinh về độ lún sâu cũng sẽ kém hơn một phần mười (so với cái đầu tiên) do cái búa nói trên bằng một cú đập đơn độc tuy có thể bằng nhau về tỉ lệ như những cú đập đầu tiên, nhưng bởi độ cứng của gỗ không giảm tỉ lệ đề kháng, cho nên nó vẫn giữ độ cứng như trước. Nếu bạn muốn xử lí những tỉ lệ vận động của những vật thể xâm nhập vào tấm gỗ khi đóng vào bằng lực đập, thì bạn phải xem xét tính chất của trọng lực gõ vào và chỗ gõ vào nằm ở đâu.

Tôi cho rằng mọi vật thể khi di chuyển hoặc bị đập vẫn tự giữ trong một khoảng thời gian tính chất của cái đập hoặc vận động của cú đả kích này, và giữ nó tỉ lệ với sức hoặc vận động lớn hoặc nhỏ của cường lực đập này. Hãy quan sát một cú đập lên cái chuông xem nó lưu giữ trong bản thân nó âm thanh của chấn động này.

Hãy quan sát một khối đá bắn đi từ một khẩu đại pháo xem nó bảo tồn được bao lâu tính chất của vận động...

Con mắt giữ được trong nó những hình ảnh về những vật phát quang trong một thời gian nhất định.

Tôi nói rằng, sự chấn động là chấm dứt của vận động nhanh của những vật thể đập lên những vật đề kháng. Nó cũng là nguyên nhân của mọi âm thanh và là vật phá huỷ và vật chuyển hoán những vật thể khác nhau, là sản phẩm của một vận động thứ nhì. Không có năng lực nào mạnh hơn và nó tiếp tục cải biến tuỳ theo tình huống.

Tiếng gióng chuông còn giữ lại ấn tượng giống như ánh mặt trời trong mắt hoặc hương thơm trong không khí; nhưng chúng ta muốn biện biệt sự tương tự của tiếng gióng lưu lại trong cái chuông hoặc trong không khí và điều này được xác định bằng việc áp tai bạn lên bề mặt của cái chuông sau khi gióng. Tiếng gióng gây ra trong cái chuông sẽ tạo nên sự đáp ứng và một số vận động nhẹ nào đó trong một cái chuông khác tương tự như bản thân nó; và sợi dây đàn lute khi nó phát ra âm thanh sẽ tạo nên đáp ứng và vận động trong một sợi dây khác giống như âm điệu trong một cây đàn lute khác; và bạn sẽ thấy điều này bằng việc đặt một sợi rơm lên dây đàn tương tự như sợi dây đã phát ra âm thanh.

 

 

II.                 CƠ HỌC

NHỮNG THAM CHIẾU CHO CÁC SÁCH VỀ CƠ HỌC ỨNG DỤNG

Đầu tiên nói về vận động, rồi về trọng lượng do vận động phát sinh, rồi về cường lực tiến triển từ trọng lượng và vận động, rồi về chấn động phát sinh từ trọng lượng, vận động và thường là từ cường lực.

Nói về vận động và động lực.

Nói về những bánh xe quay một chiều.

Nói về những bánh xe quay tới và quay lui.

Nói về bánh xe bổ sung.

Nói về những đinh ốc chuyển động không ngừng.

Nói về những cối xay và những bộ máy di chuyển và lao tới.

Nói về bánh răng cưa.

Đầu tiên nói về những cực.

Rồi về những bánh xe và những ván lót không răng cưa.

Rổi về những bánh xe và những ván lót với dây thừng và với răng cưa.

Và bạn sẽ nói rằng bánh răng cưa đáng ca ngợi nhất trong tự nhiên, vận động và dàn dựng.

 

Giờ xem cuốn sách về những Nguyên tố trong cơ học, bạn sẽ tìm ra định nghĩa về đinh ốc.

 

 

I.   MA SÁT

 

Ma sát

Sự ma sát chia thành ba bộ phận: giản đơn, phức hợp và bất quy tắc.

Ma sát giản đơn được tạo bởi vật di chuyển tại chỗ nó bị lôi kéo.

Ma sát phức hợp là vật thể di chuyển giữa hai vật không thể chuyển.

Ma sát bất quy tắc tạo ra bởi cái nêm có nhiều cạnh khác nhau.

 

 

Về sự ma sát

Vận động của ma sát được chia thành nhiều phần trong đó với một phần giản đơn còn mọi phần khác là phức hợp. Giản đơn, khi vật thể bị kéo dọc theo một bề mặt trơn phẳng mà không có sự can thiệp nào. Đây là sự ma sát duy nhất tạo ra lửa khi khi nó mạnh mẽ—có thể nói rằng nó sinh ra lửa—như có thể thấy những bánh xe nước khi nước được vận chuyển giữa sắt mài bén và bánh xe. Những ma sát khác là phức hợp và được chia thành hai bộ phận; thứ nhất là khi có bất cứ độ bôi trơn của một số chất thể mỏng nào đó trung gian giữa những vật thể cọ xát nhau; và thứ hai, khi một sự ma sát bổ sung được du nhập, như sự ma sát của trục bánh xe. Loại thứ nhất trong những thứ này lại chia thành hai phần, đó là độ bôi trơn, là được chêm vào giữa, và những viên bi và những thứ đại loại.     

Trở lực do ma sát tạo ra với vận động của trọng lượng thì tách ra và rời khỏi trọng lượng này.

 

 

Nguyên nhân

Điều này cho thấy qua những gì nói ở trên, hiển nhiên là sự vận động do những trọng lượng tạo ra theo những tuyến nằm ngang tự nó không đưa ra bất cứ trở lực nào đối với nguyên động cơ của nó ngoài sự ma sát của chính nó do nó tạo ra với cái bề mặt mà nó chạm vào; và vận động càng khó khăn hơn về tỉ lệ khi bề mặt càng thô nhám.

Ai biết được trọng lượng kéo một trăm cân lên trên con đường dốc này thì biết được khả năng của cái đinh vít. Để biết được chính xác khối lượng của trọng lượng cần thiết di chuyển một trăm cân lên con đường dốc người ta phải biết tính chất tiếp xúc của trọng lượng này với bề mặt nó cọ sát khi di chuyển, bởi vì những vật thể khác nhau có những ma sát khác nhau; vậy, hãy cho hai vật thể có bề mặt khác nhau, một bề mặt mềm và được mài nhẵn, thoa mỡ hoặc xà phòng, rồi cho di chuyển trên bề mặt có độ trơn tương tự, nó sẽ di chuyển dễ dàng hơn nhiều so với bề mặt gồ ghề do vôi hoặc bị giũa, vì thế, khi nào bạn muốn biết khối lượng của cường lực cần tới để kéo cùng một trọng lực lên trên mặt đường có độ dốc khác nhau, bạn phải làm thí nghiệm và xác định khối lượng cường lực cần tới là bao nhiêu để di chuyển trọng lượng dọc con đường bằng phẳng, để xác định tính chất ma sát của nó...

Những độ dốc khác nhau tạo ra những mức độ trở lực khác nhau khi tiếp xúc; bởi, nếu vật nặng phải di chuyển trên nền phẳng và được kéo đi, tất nó sẽ là trở lực lớn đầu tiên, vì mọi thứ nằm trên mặt đất và không có gì trên sợi dây phải di chuyển nó. Nhưng nếu bạn muốn kéo vật đó lên một con đường rất dốc thì toàn bộ trọng lượng dồn vào chính sợi dây chống đỡ nó bị giảm lực ma sát; nhưng có một lí khác do hiển nhiên hơn: bạn biết rằng, nếu người ta kéo nó lên thẳng hơi sượt qua và chạm một bức tường thẳng góc, thì trọng lượng hầu như toàn bộ nằm trên sợi dây kéo và nằm rất ít trên bức tường mà nó cọ vào.    

Một vật thể hoàn toàn bị tiêu mòn do ma sát trong vận động trường kì sẽ bị tuêu mòn một phần ngay khởi đầu vận động này.

      Điều này chứng minh rằng không thể đưa ra hay thực hiện bất cứ gì với độ chính xác tuyệt đối. Vì nếu bạn muốn tạo một vòng tròn hoàn hảo bằng việc di động một trong những điểm của compass, khi bạn thừa nhận điều nêu trên, và điểm này của compass có xu hướng bị mòn đi trong quá trình di động lâu dài, tiếp theo toàn bộ điểm sẽ cần thiết bị mòn đi trong một khoảng thời gian nhất định và bộ phận này sẽ tiêu mòn một phần này; và khởi đầu sự tiêu mòn đó sẽ là thời gian cực thiểu trong thời gian không thể chia.

      Và cũng vậy, điểm đối nghịch của những compass này khi nó quay quanh trung tâm của vòng tròn thì cũng bị tiêu mòn ở mỗi nấc vận động trong khi cũng làm tiêu mòn chỗ mà nó dừng lại; vì vậy, chúng ta có thể nói rằng kết thúc của chu vi không nối liền khởi điểm của nó, nhưng gần hơn với tâm vòng tròn một cách không thể cảm nhận được.      

 

 

2. NHỮNG CÔNG CỤ ĐỂ CÂN

Lấy một cái đòn có trọng lượng và độ dầy đều nhau, để cái đòn này treo lên cái trụ ở trọng tâm của nó, hoặc ở một bộ phận có trường độ nhất định; vậy, cái đòn treo này chúng ta gọi là cái cân hay bàn cân, và những bộ phận nhô lên khỏi cái trụ ta gọi là cán cân...

 

 

Mở đầu cuốn sách về trọng vật 

Thứ nhất. Nếu những trọng vật, cán cân, và những vận động nghiêng đều nhau thì những trọng vật này sẽ không di động lẫn nhau. Thứ hai. Nếu những trọng vật nghiêng bằng nhau, và bằng nhau, di động nhau và tiếp theo là những cán cân không bằng nhau. Thứ ba. Nhưng nếu những trọng lực bằng nhau trong cán cân và cái cân di chuyển nhau, và rồi những vận động của những trọng vật sẽ có độ nghiêng không bằng nhau. Thứ tư. Nếu những trọng vật trên cán cân có độ nghiêng vận động của những trọng vật này đều bằng nhau, vậy thì những trọng vật này sẽ cho thấy bản thân chúng không bằng nhau nếu những vật phụ có độ nghiêng của chúng không bằng nhau.

Việc sắp xếp cuốn sách như sau: Đầu tiên là những trụ đơn giản, và rồi chống đỡ từ bên dưới, rồi treo lên một phần, rồi toàn bộ, rồi để cho những trụ này chống đỡ những trọng vật khác.

Luận về trọng lực tỉ lệ với năng lực di chuyển nó. Người ta phải xem xét trở lực của phương tiện mà từ đó một trọng vật di chuyển; và một luận văn sẽ phải viết về chủ đề này.

Để kiểm tra một người và xem coi y có phán đoán đúng về tính chất của hai cán cân bằng nhau của một cái cân hay không, có thể hỏi, từ chỗ nào bạn nên chia một trong hai cán cân của bàn cân sao cho phần chia nếu bổ sung vào cuối phần còn lại, có thể tạo nên một trọng lượng đối trọng chính xác với cán cân đối diện. Chỗ nào không thể được; và nếu y chỉ ra một chỗ, y là một nhà toán học tồi.    

 

 

Khoa học về cân bị sai lầm ở điểm nào trong thực hành

Khoa học về cân bị sai lầm do những thực hành, và trong nhiều ví dụ không hoà hợp với khoa học này, và cũng không có khả năng đem nó vào hoà hợp; và điều này tạo ra bởi trục cân mà khoa học về cân đã hình thành, mà những trục cân căn cứ theo những triết gia cổ đại vốn được đặt như những trục của tuyến trong toán học và trong một số trường hợp như những điểm trong toán học và những điểm và tuyến này đều không có thực chất, trong khi đó việc thực hành làm cho chúng có được thực chất, bởi tính thiết yếu đòi hỏi điều này vì sự chống đỡ cho trọng lực của những cái cân này cùng với những trọng lực điều chỉnh bên trên chúng. Tôi phát hiện rằng người xưa sai lầm trong việc tính toán trọng lực, và sai lầm này nảy sinh từ một bộ phận đáng kể trong khoa học của họ, họ đã ứng dụng trục vốn có thực chất trong một bộ phận đáng kể về những trục toán học, chẳng hạn như chúng tồn tại trong lí tưởng chứ không trong thực chất; và những sai lầm tôi sẽ nêu ra dưới đây.

 

Trung tâm của độ dài mỗi cán cân là trung tâm đích thực của trọng lực.

      Cán cân được cho là khoảng cự li tìm ra giữa trọng lượng gắn liền với cái cân và trục của nó.

      Rằng tỉ lệ tồn tại trong khoảng cự li giữa những trung tâm cán cân và trục cân, cũng như với trọng lượng đối lập mà cán cân tự nó đưa ra để đối trọng với cái cán làm đối trọng của phía bên kia.   

Tuyến trung tâm nội bộ được cho là khởi đầu từ trung tâm thế giới, từ đó hình thành một tuyến thẳng liên tục chạy qua trung tâm của vật chất nặng treo trong một lượng không gian vô hạn.

Trung tâm của bất cứ vật thể nặng nào là bất cứ gì đứng theo tuyến thẳng góc ở dưới trung tâm sợi dây trên đó nó được treo. Tôi muốn hỏi, nếu bạn treo cái trụ bên ngoài trung tâm độ dài của nó thì mức độ nghiêng của nó giả định là bao nhiêu.

      Cái trụ được treo ngoài trung tâm độ dài của nó bằng một sợi dây duy nhất sẽ có một độ nghiêng như thế, giống như sẽ tạo ra với những phía đối ngịch của nó cùng với sự thẳng góc của trung tâm sợi dây chống đỡ cho nó tạo thành hai góc nhọn đều nhau hoặc hai góc tù đều nhau.   

 

 

3. NHỮNG BÁNH XE VÀ TRỌNG LỰC

Bánh xe khi quay trên cái trục, nó làm cho một phần cái trục trở nên nhẹ hơn và đàng khác bị nặng hơn thậm chí nặng hơn gấp đôi lúc đầu khi nó không di chuyển khỏi vị trí của nó. 

Trong một cân tròn, không vật thể nặng nào sẽ nâng lên hơn mức trọng lượng của bản thân nó bằng cường lực từ trọng lượng đơn thuần của nó.

Tôi sẽ gọi cân tròn là cái bánh xe hay bánh cuốn dây (ròng rọc) nhờ đó nước được kéo lên khỏi giếng, và người ta chẳng bao giờ áp dụng hơn mức trọng lượng của nước được nhấc lên. 

Nếu bạn muốn hiểu chắc chắn chức năng và lực của cái ròng rọc, bạn cần phải biết trọng lượng của vật làm di chuyển hoặc trọng lượng của vật bị di chuyển; và nếu bạn biết rằng vật làm di chuyển nhân lên bổi số những bánh xe ròng rọc, và tổng kết quả sẽ là trọng lượng toàn bộ có thể di chuyển bởi vật di chuyển.

Nếu bạn gia tăng số cân (pound) từ thể trọng của bạn bằng số bánh xe đặt trong ròng rọc, bạn sẽ thấy con số của toàn bộ kết quả sẽ là toàn bộ số cân có thể nâng lên với trọng lượng của bạn. 

Do một giờ có thể chia thành ba ngàn phần, bạn có thể thực hiện việc này qua phương tiện cái đồng hồ, bằng việc đặt cái quả lắc cao hơn hoặc nặng hơn     

Khi sức gắn bó của vật nặng đi xa khỏi trung tâm bánh xe thì việc di chuyển quay vòng của bánh xe quanh trục của nó trở nên khó khăn hơn mặc dù động lực có thể không thay đổi. Cũng giống vậy đối với thời gian của những chiếc đồng hồ, vì, nếu bạn đặt hai vật nặng gần hơn hoặc xa hơn khỏi trung tâm đồng hồ, bạn làm cho giờ ngắn hơn hoặc dài hơn.

Sự kiện là một vật thể có thể vừa nâng lên hoặc kéo đi tạo nên sự khác biệt lớn về tính khó khăn đối với nguyên động cơ của nó; vì nếu nó nặng một ngàn cân và di chuyển đơn thuần bằng việc nhấc lên, thì bản thân nó cho thấy là một ngàn cân; trong khi đó nếu kéo lên thì trọng lượng của nó kém đi một phần ba; và nếu được kéo bằng những bánh xe thì trọng lượng của nó giảm nhiều theo mức độ tỉ lệ với kích thước bánh xe, và cũng căn cứ theo số bánh xe nhân lên. Khi tương đồng về thời gian và vận lực, nó có thể tạo ra cùng lộ trình, vời những cấp độ khác nhau về thời gian và vận lực cũng như tương đồng về thời gian và chuyển động; việc này được thực hiện chỉ bằng việc nhân lên số những bánh xe trên đó và những trục cũng phải nhân lên.          

   

4. ĐINH ỐC

Đinh ốc nào có độ dày bằng nhau thì việc tạo rãnh trên nó sẽ hết sức khó khăn. Và trong số những đinh ốc có độ dài và độ dầy bằng nhau, và con số đường sống (ridge) với cái nào có số đường cong trong đường sống nhiều nhất bạn sẽ thấy dễ di động nhất.

Vitruvius cho rằng [trong De Architectura, x.16.5] những mô hình nhỏ không giúp ích cho việc xác định hiệu quả của những mô hình lớn; vậy ở đây tôi đề xuất nhằm chứng minh rằng kết luận này là sai. Và chủ yếu bằng nêu lên chính cái luận cứ đã dẫn ông đến cái kết luận này; tức là, bằng việc thí nghiệm với một mũi khoan. Vì ông chứng minh rằng nếu một người, dùng một sức lực nhất định, tạo ra một cái lỗ có đường kính nào đó, và sau đó là một cái lỗ có đường kính gấp đôi, việc này không thể làm được chỉ với việc vận dụng gấp đôi sức lực, mà cần nhiều hơn. Đối với việc này, người ta có thể đáp lại rất rõ ràng rằng, một cái mũi khoan có đường kính gấp đôi không thể di chuyển bằng sự vận lực gấp đôi bởi vì bề mặt của vật có hình dạng tương tự và có gấp đôi chiều rộng thì gấp bốn lần số lượng và năng lực so với vật nhỏ.    



[1] Một phát biểu tương tự của Galilei hơn một trăm năm sau đã bị kết án là dị giáo

[2] Tác phẩm Spera của tác giả Goro Dati, Florence, 1482, những dòng 16-22 ca tụng mặt trời.  Còn tụng ca mặt trời của Marullus được phát hành trong Hymni et epigrammata của M. Tarcaniota, Florence, 1487.


*

CHƯƠNG III

 

PHI HÀNH

Vasari kể lại rằng Leonardo thường mua chim bị nhốt trong lồng để phóng sinh vì ông xót thương cho hoàn cảnh cầm tù của chúng. Một động cơ khác có thể là viện ông thán phục cách bay của chúng,và thường xuyên là nguồn cảm hứng cho ông. Ông thích nhìn chúng di chuyển trong không trung, bay vút, lượn, lướt, và vỗ cánh, ông so sánh hành vi của chúng với hành vi của những côn trùng và dơi khi đang bay và trong khi ông vẽ những hành động tức thời của chúng trong bút kí. Ở đây chúng ta cũng thấy những miêu tả cấu trúc đôi cánh và đuôi, cùng với những diễn tả việc hợp lực của chúng khi lái cơ thể.   

      Mối quan tâm này sát cánh cùng với việc nghiên cứu về môi trường trong đó xảy ra việc bay xảy ra. Không khí phản ứng như thế nào? Ở đây là cơ hội để nghiên cứu về những năng lực của tự nhiên, như trọng lượng, vận động, và động lực tác động vào một trong bốn nguyên tố, và để so sánh và tương phản tính chất của chúng với tính chất của một nguyên tố khác mà ông đã nghiên cứu—nước. Bằng cách nào mà những cơ thể nặng hơn không khí có khả năng giữ vững và tự chúng đẩy tới trong không trung? Con người có khả năng làm được như vậy nếu được trang bị phù hợp. Những bản thiết kế của ông cho thấy những cỗ máy khác nhau với phi hành gia trong những tư thế nằm ngang và thẳng đứng, trong khi đó sử dụng tứ chi để vận hành đôi cánh được chế tác; cũng vậy, một cánh quạt không khí báo trước loại trực thăng thời hiện đại, một cái dù, một tỉ trọng kế để xác định độ ẩm, và một công cụ để chỉ phương hướng và để đo sức gió và tốc độ gió.

      Trong lúc mải mê với những nghiên cứu này, ông có lần viết nhanh trong bút kí rằng ông hẳn là đã được tiền định để viết về việc này bởi vì một trong những hồi tưởng xa xưa của ông là giấc mơ về một con diều tới thăm chiếc nôi của ông và dùng cái đuôi của nó mở miệng ông ra.    

      Cuốn sách nhỏ của ông về việc bay của loài chim, được viết và minh hoạ năm 1505, hiện nay là một trong những báu vật của Thư viện Hoàng gia ở Turin, gần đây bị gia đình hoàng gia lưu vong đòi như tài sản riêng tư.    

 

 

I.                    VẬN ĐỘNG TRONG GIÓ VÀ NƯỚC

 

Khoa học về khí cụ và cơ giới là cao quý nhất và hữu ích hơn mọi khoa học khác, bởi vì bằng những phương tiện của nó, tất cả những sinh vật thể được vận động để thực hiện mọi động tác của chúng; và những vận động này có xuất phát điểm từ trung tâm trọng lượng của chúng được đặt ở trung ương bên cạnh những trọng vật không đều nhau, và nó có những loại cơ bắp vừa khan hiếm vừa dồi dào, và cũng có lực bẩy và phản lực bẩy.

 

Trước khi bạn viết về những sinh vật có thể bay, hãy viết một quyển sách về những vật vô cảm giác hạ xuống trong không trung thiếu gió và lại một quyển khác về những vật vô cảm giác hạ xuống với gió.

  

Để đưa ra khoa học chân chính về việc bay của loài chim trong không trung, đầu tiên bạn phải nêu ra khoa học về gió, và chúng ta sẽ chứng minh bằng vận động của nước; việc hiểu biết về khoa học này, có thể nghiên cứu qua các giác quan, sẽ dùng như cái thang để đi tới nhận thức về những vật thể bay trong không khí và gió.    

 

Hãy chia luận văn về loài chim thành bốn quyển, trong đó quyển đầu bàn về phi hành vỗ cánh của chúng; quyển nhì về phi hành không vỗ cánh và với trợ giúp của gió; quyển thứ ba về phi hành nói chung, chẳng hạn như của chim, dơi, cá, động vật, côn trùng; cuối cùng là cơ chế của sự vận động.

 

Đầu tiên, định nghĩa vận động của gió và tiếp theo mô tả bằng cách nào mà chim lái trong gió chỉ bằng việc quân bình đơn giản của đôi cánh và đuôi; và bạn sẽ mô tả việc này sau đó về cơ thể học của chúng.   

 

 

Vận động của loài chim

 

Để nói về chủ đề này, trong quyển thứ nhất bạn phải giải thích tính chất trở lực của không khí, quyển hai, cơ thể học về loài chim và đôi cánh của chúng, quyển thứ ba về phương pháp hoạt động của đôi cánh trong những vận động khác nhau, trong quyển bốn về năng lực của đôi cánh và của đuôi khi đôi cánh không chuyển động và khi gió giúp thuận lợi như là hướng dẫn trong những vận động khác nhau.

 

 

Động lực là gì?

 

Động lực là một năng lực truyền từ nguyên động cơ tới vật di động, và được sóng không khí duy trì trong không trung do nguyên động cơ sản sinh; điều này nảy sinh từ chân không và được sản sinh trái với quy luật tự nhiên, nếu không khí phía trước nó không làm đầy chân không, như vậy khiến cho không khí bị xua khỏi chỗ của nó bởi nguồn phát sinh đã nói trên để thoát li. Và không khí đi trước nó sẽ không làm đầy chỗ mà từ đó nó li khai, nếu như một bộ phận không khí không làm đầy chỗ mà không khí này đã li khai... Và sự vận động này sẽ tiếp tục đến vô hạn nếu không khí có khả năng bị nén đến vô hạn.

 

Động lực là ấn tượng về sự vận động cục bộ truyền từ nguyên động cơ tới vật di động trong không khí và được duy trì bằng không khí hay nước khi chúng di chuyển để ngăn chặn khoảng chân không.

      Động lực của vật di động trong nước thì khác với vật di động trong không khí, và những khác biệt này là do những khác nhau của những nguyên tố này, bởi không khí thì có thể ngưng tụ tới vô hạn mà nước thì không thể.

      Động lực của nước được chia thành hai bộ phận thông qua hai tính chất của nó, một là giản đơn và hai là phức hợp. Động lực giản đơn thì nằm hoàn toàn bên dưới mặt nước, còn động lực phức hợp thì nằm giữa không khí và nước, như khi thuyền vận hành.     

      Động lực giản đơn không nén nước lại ở phía trước sự vận động của loài cá, nhưng di chuyển nước ra phía sau với cùng tốc độ của nguyên động cơ; và sóng nước sẽ không bao giờ nhanh hơn nguyên động cơ của nó.

      Thế nhưng, sự vận động của con thuyền, được gọi là phức hợp vì được chia sẻ bởi nước và không khí, được chia thành ba bộ phận chính bởi vì nó tiến hành theo ba hướng, đó là hướng ngược dòng sông, hướng thuận dòng, và hướng băng ngang, đó là khi băng qua sông.

 

Mỗi vận động sẽ duy trì dìng của nó hay nói đúng hơn là mỗi vật thể khi vận động sẽ tiếp tục dòng của nó chừng nào năng lực của xung lực còn duy trì bên trong.

 

Động lực phát sinh trong dòng nước tĩnh có hiệu quả khác với động lực phát sinh trong không khí tĩnh. Động lực này cho thấy qua sự kiện rằng nước không bao giờ tự nén lại bởi bất kì vận động nào ở dưới bề mặt của nó, như không khí nén trong bản thân nó khi bị đả kích bởi một vật thể di động. Điều này được thấy từ những bọt bong bóng khi nước bị đè nặng từ bề mặt tới đáy của nó, và tụ tập xung quanh chỗ nước đổ đầy khoảng chân không mà con cá để lại đằng sau khi nó xâm nhập; và những vận động của dòng nước này va đập và thúc đẩy con cá đi, bởi vì nước chỉ có trọng lượng bên trong nước khi nó có sự vận động, và điều này là nguyên nhân chủ yếu để gia tăng vận động cho nguyên động cơ của nó.     

 

 

Gió

 

Không khí di chuyển giống như một dòng sông và mang những áng mây theo cùng; hệt như dòng nước chảy mang theo mọi thứ nổi trên nó.

 

Vận động của không khí ngược lại với một vật cố định thì cũng lớn như vận động của vật di động ngược lại với luồng không khí không vận động.

      Cũng như thế với nước mà một tình huống tương tự đã cho tôi thấy nó tác động cùng phương cách như không khí, như những cánh buồm của tàu được kèm theo trở lực bên cạnh của bánh lái.    

 

Khi một vật nặng hạ xuống trong không khí, và không khí di động ngược hướng để liên tục làm đầy khoảng không gian để trống bởi vật nặng này, sự vận động của không khí này là một đường cong, bởi khi nó muốn trỗi lên bằng tuyến ngắn nhất thì nó bị ngăn trở do vật thể nặng hạ xuống nó, và vì thế nó buộc phải uốn cong và rồi trở về bên trên vật nặng này để đổ đầy khoảng chân không đã bị nó bỏ lại. Và nếu không khí không bị nén dưới  tốc độ của vật thể nặng, thì loài chim hẳn sẽ không thể tự chống đỡ nơi không khí bị chúng đả kích; nhưng ở đây cần khẳng định rằng không khí bị nén bên dưới vật bị va đập và nó trở nên bị loãng ở bên trên để đổ đầy khoảng trống để lại do vật đã va đập nó.

 

 

Khoa học về trọng lượng tỉ lệ với năng lực của nguyên động cơ

 

Lực của nguyên động cơ phải luôn luôn tỉ lệ với trọng lượng của vật thể di động và với trở lực của môi trường trong đó vật liệu mà trọng vật di động. Nhưng người ta không thể diễn dịch quy luật của hành động này trừ phi người ta đầu tiên phải đưa ra lượng ngưng tụ của không khí khi bị đả kích bởi bất kì vật di động nào; và sự ngưng tụ này sẽ có độ đậm đặc nhiều hơn hoặc kém hơn tuỳ tốc độ lớn hơn hoặc kém hơn của vật di động đè ép trên nó; như cho thấy trong phi hành của loài chim, vì âm thanh mà chúng tạo ra với đôi cánh khi đập vào không khí thì trầm hơn hoặc lanh lảnh hơn tuỳ theo sự vận động đôi cánh có chậm hơn hoặc nhanh hơn không.  

 

 

II.                 CẤU TẠO CỦA ĐÔI CÁNH CHIM

 

Trước tiên, thực hiện cơ thể học về chim; rồi cơ thể học về lông vũ của nó, tước bỏ bộ lông vũ, rồi nghiên cứu tác dụng của bộ lông vũ.    

 

Bạn sẽ nghiên cứu cơ thể học về đôi cánh chim cùng với những cơ bắp ở lồng ngực vốn là nguyên động cơ của đôi cánh này. Và bạn cũng thực hiện cùng nghiên cứu này đối với con người để cho thấy khả năng rằng xem con người có tự mình chịu đựng được giữa không trung bằng việc vỗ cánh.   

 

Một biện hộ cho công cuộc giải quyết cách phản bác

      Bạn có thể sẽ nói rằng những thớ gân và cơ bắp của một con chim thì mạnh mẽ một cách vô song và mạnh mẽ hơn của con người, bởi tất cả sức mạnh của bấy nhiêu cơ bắp và thịt nơi lồng ngực trợ giúp và gia tăng sự vận động cho đôi cánh, trong khi xương lồng ngực tất cả liền một khối cho nên cung cấp cho chim năng lực rất lớn, và đôi cánh được bao phủ bằng một mạng lưới gân dày, cùng những dây chằng bằng sụn khác rất khoẻ và với bộ da rất dày có những cơ bắp đa dạng.

      Đáp lại điều này là, sức mạnh lớn như thế được coi như năng lực dự trữ vượt ngoài những gì thông thường dùng để hỗ trợ bản thân trên đôi cánh, vì điều này cần thiết hễ khi nào nó muốn tăng gấp đôi hoặc gấp ba lần sự vận động để thoát khỏi kẻ săn đuổi hoặc đuổi theo con mồi của nó. Vì vậy, trong trường hợp này, cần cho nó nảy sinh gấp đôi hoặc gấp ba lần số lượng vận sức, và thêm nữa là để mang theo qua không trung trong móng vuốt của nó một trọng lượng tương ứng với trọng lượng của bản thân nó, vì thế người ta nhìn thấy con chim ưng đang mang theo một con vịt và con đại bàng mang theo một con thỏ, và tình huống đủ cho thấy rõ việc xài vượt quá sức lực; vì chúng cần ít sức lực để chống đỡ và để giữ thăng bằng bản thân trên đôi cánh và để vỗ cánh theo hướng của gió, còn nếu để điều hướng đường bay, chúng chỉ cần một vận động nhẹ từ đôi cánh là đủ, và vận động này sẽ càng chậm hơn tỉ lệ so với chim thì lớn hơn về kích thước.

 

Lớp lông vũ có trở lực nhỏ thì được đặt dưới lớp lông vũ có trở lực lớn, và những mút điểm của chúng đều quay hướng tới phần đuôi chim; bởi vì không khí ở phần dưới những vật thể bay thì dày hơn không khí bên trên chúng, và không khí dày hơn ở phía trước hơn ở đằng sau; và việc phi hành thiết yếu đòi hỏi những mút điểm ở phần bên này của đôi cánh không thấy có sự đột kích của gió vì chúng hẳn sẽ lập tức bị tản mác ra và tách li, và tức thời bị gió thâm nhập. Do đó, những trở lực được đặt sao cho những bộ phận với một đường cong lồi được quay hướng tới bầu trời sao cho khi chúng càng bị gió đả kích thì chúng càng thấp hơn kéo lại gần hơn tới những trở lực thấp hơn bên dưới chúng để ngăn cản sự thâm nhập của gió bên dưới từ phía trước...    

 

Cánh chim luôn lõm vào ở bộ phận thấp hơn trải từ khuỷu tới vai, và phần còn lại thì lồi. Nơi bộ phận lõm của cánh thì không khí quay tròn, còn trong phần lồi thì nó nén và ngưng tụ.

 

Những lông vũ dài nhất của cánh sẽ uyển chuyển vì chúng không bị bao phủ bởi những lông vũ khác từ trung tâm tới đầu cánh.  

      Những tay lái thì đặt trên đôi vai của cánh thì cực kì cần thiết để chim giữ thăng bằng và bất động trong không khí khi đương đầu với luồng gió.

 

[Với bản vẽ.]

Cái tay lái này được đặt gần nơi lông vũ của cánh cong lại, và bởi vì sức mạnh, nó cong lại ít  hoặc không cong lại, được đặt ở vị trí rất khoẻ và có những dây gân và xương cứng, được bao phủ bằng những lông vũ rất khoẻ, bảo vệ và hỗ trợ cho nhau.

 

Loài chim đuôi ngắn lại có đôi cánh rất rộng; và nhờ bề rộng này thay cho cái đuôi; và chúng lợi dụng đáng kể những tay lái đặt trên đôi vai khi chúng muốn chuyển sang bất kì hướng nào.    

 

Tại sao những thớ gân dưới cánh lại khoẻ hơn những thớ gân ở mặt trên, chính là để thích ứng với việc vận động. Vai, là tay lái của cánh, trũng bên dưới như cái muỗng; và lõm bên dưới, nó lồi bên trên. Nó tạo kiểu như vậy là để cho tiến trình bay lên dễ dàng, bay xuống khó khăn và gặp trở lực; và đặc biệt nó thích hợp với việc đi tới và lùi theo hình thức cái dũa. 

 

Những tay lái hình thành trên vai của đôi cánh được cung cấp tính chất tiềm tàng như phương tiện thuận tiện cho việc bẻ lệch hướng động lực trực tiếp, vốn thường xảy ra trong khi bay tới vun vút. Vì một con chim thấy thuận lợi hơn khi uốn cong bằng lực trực tiếp một trong những bộ phận nhỏ nhất của đôi cánh hơn là toàn thể chúng; và lí do tại sao những lông vũ của chúng được cấu tạo rất nhỏ và rất khoẻ để chúng có thể dùng như tấm phủ lên nhau và như vậy trang bị và củng cố nhau bằng năng lực tuyệt diệu. Và những lông vũ này đặt cơ sở trên những xương nhỏ và rất khoẻ vận động và uốn cong trên những khớp xương lớn của đôi cánh này bằng những sợi gân.

      Sự vận động và vị trí của xương vai cánh chim tương tự như ngón cái của bàn tay con người, được bao quanh bằng bốn sợi gân có cự li đều nhau ở nền tảng, điều này tạo ra một con số vô hạn những vận động vừa vòng tròn vừa thẳng.

      Chúng ta cũng có thể nói giống như vậy về cái bánh lái đặt đằng sau chuyển động của con tàu, nó mô phỏng cái đuôi chim; theo kinh nghiệm dạy chúng ta cái bánh lái nhỏ này đã sẵn sàng quay biết bao nhiêu trong những chuyển động nhanh chóng của những con tàu lớn hơn là bản thân toàn bộ con tàu...

 

Những con dơi khi chúng bay thì cánh của chúng cần thiết bao phủ hoàn toàn bằng lớp màng, bởi vì những sinh vật ban đêm dựa vào đó chúng trốn thoát nhờ những động tác quay tròn mơ hồ và sự mơ hồ này được nâng cao bằng những cú uốn lượn. Vì thế đàn dơi đôi khi phải lộn ngược để đi theo con mồi, đôi khi trong tư thế nghiêng hoặc bằng những cách đa dạng khác và chúng không thể thực hiện mà không khiến cho bản thân bị huỷ hoại nếu đôi cánh của chúng bằng lông vũ và để cho không khí lọt qua.    

  

 

III.               BƠI VÀ BAY

 

Khi hai thế lực va đập nhau thì luôn luôn lực nhanh nhất sẽ nhảy vọt về phía sau. Cũng thế, với bàn tay của người bơi khi va đập và nén trên mặt nước khiến cho thân thể kẻ ấy trượt về phía trước theo vận động ngược lại; cũng vậy với cánh chim trong không khí.

 

Việc bơi trên mặt nước dạy con người cái cách mà loài chim bay trên không khí.

 

Việc bơi minh hoạ cho phương pháp bay và cho thấy trọng lượng lớn nhất gặp trở lực nhiều nhất trong không khí.

      Hãy quan sát bàn chân vịt: nếu nó luôn mở ra hoặc luôn đóng lại, thì con vật này hẳn không thể tạo được bất cứ loại vận động nào. Trong khi bằng đường cong của bàn chân hướng ra ngoài, nó có thêm cảm thụ với nước khi đi tới hơn là bàn chân khi nó rút lui; điều này cho thấy cùng trọng lượng khi càng rộng thì nó vận động càng chậm. Hãy quan sát con ngỗng di chuyển trên mặt nước, khi di chuyển bàn chân của nó hướng tới trước và khép lại, và choán ít nước và vì thế đạt được tốc độ; còn khi nó đạp lùi, chân dãn ra khiến chậm hơn, và bộ phận cơ thể tiếp xúc với không khí trở nên nhanh hơn.

 

Tại sao cá trong nước lại nhanh hơn chim trong không khí khi lẽ ra đụng phải tình huống tương phản, là vì nước nặng hơn và dày hơn không khí, còn cá thì nặng hơn và có đôi cánh nhỏ hơn chim? Bởi lí do này, cá không dời khỏi chỗ vì những dòng nước chảy siết giống như chim bị những cơn gió mạnh trong không khí; cũng vậy, chúng ta có thể thấy cá vượt nhanh hướng lên vào ngay dòng nước trút xuống hiểm trở với sự chuyển động rất nhanh như tia chớp giữa những đám mây không ngừng, gần như một điều kì diệu. Việc này tạo ra bằng tốc độ rất lớn, và chuyển động vượt quá sự vận động của nước trong khi làm cho nó gần như bất động khi so sánh với sự vận động của cá...

      Điều xảy ra này bởi vì nước bản thân nó dày hơn không khí cho nên nặng hơn, và do đó nhanh hơn trong việc làm đầy khoảng chân không mà cá bỏ lại đằng sau, trong chỗ từ đó rời đi; và cũng vậy, nước mà nó đụng ở phía trước mặt không bị nén như không khí ở đằng trước chim, mà đúng hơn là tạo ra đợt sóng bằng sự vận động của nó để chuẩn bị đường đi và gia tăng sự vận động của cá; và do đó, nó nhanh hơn chim gặp phải không khí bị nén ở phía trước.    

 

Cách một người nên học bơi. Cách một người nên nằm nghỉ trên mặt nước. Cách một người phải tự vệ chống lại khi bị dòng nước xoáy cuốn hắn xuống đáy. Cách một người khi bị cuốn xuống đáy phải tìm dòng nước phản xạ để quăng hắn ra khỏi chỗ nước sâu. Cách người ấy phải đẩy mình tới bằng đôi cánh tay. Cách người ấy phải bơi ngửa. Cách người ấy có thể duy trì dưới nước chừng nào còn nín thở.   

 

 

Tàu ngầm

 

Bằng cách nào mà một thiết bị có khả năng duy trì suốt một thời gian dưới nước. Bằng cách nào và tại sao tôi không mô tả phương pháp duy trì dưới nước được lâu dài như thời gian có thể duy trì khi thiếu thực phẩm; và tôi không công bố hoặc tiết lộ điều này vì tính ác độc của những kẻ gây ra việc sát hại dưới đáy biển bằng việc phá vỡ tàu bè ở những bộ phận thấp nhất và làm đắm chúng cùng với thuỷ thủ đoàn; Tuy nhiên, tôi sẽ đưa ra một số phương pháp khác đặc biệt vốn không nguy hiểm, vì ở trên bề mặt, miệng của một ống ngầm trồi lên nhờ đó họ có thể hít thở, được chống đỡ bằng lớp da đựng rượu hoặc những miếng bần (cork).    

 

Những tuyến chuyển động của chim khi lên cao có hai loại, một loại thì luôn theo hình xoắn theo kiểu đinh ốc. Còn loại kia theo đường thẳng và cong.

      Chim lên cao bằng cách chuyển động vòng tròn theo hình dạng xoắn ốc khiến cho việc chuyển động phản xạ của nó ngược lại cơn gió ập tới và ngược đường bay của gió, và luôn rẽ sang trái hoặc phải.  

 

Loài chim cần đập một bên cánh nhiều lần hơn là bên cánh kia để tiến hành chuyển động vòng tròn.

      Nếu chim không đập cánh và không muốn đáp xuống nhanh tới một độ sâu, vậy thì sau một độ nghiêng nhất định, nó sẽ tự trỗi lên bằng một vận động phản xạ và muốn xoay thành một vòng tròn lên cao theo lối của những con sếu khi chúng phá vỡ những tuyến trật tự trong chuyến bay và họp lại thành một đàn rồi tiếp tục lên cao bằng nhiều vòng theo kiểu đinh ốc, và sau đó, chúng trở về lại tuyến đầu, theo lại chuyển động đầu tiên và thả nhẹ nhàng xuống, và rồi trở về họp đàn lại và di chuyển thành một vòng tròn lên cao.

 

Khi chim bay tới hướng đông với gió từ hướng bắc và thấy cánh trái của nó ở trên cơn gió ấy thì nó sẽ lật lại, trừ phi cơn gió mãnh liệt, nó đặt cánh trái dưới cơn gió và bằng một số chuyển động, nó lao tới hướng đông bắc và ở dưới cơn gió.   

 

 

Làm sao loài chim chịu đựng được trong không khí

 

Không khí bị va đập bởi vật di động nhanh hơn thì bị nén ở mức độ nhiều hơn bên trong bản thân nó...

      Khí quyển là một nguyên tố có khả năng bị nén trong bản thân khi nó bị va đập bởi vật gì đó đang di chuyển ở một tỉ lệ tốc độ lớn hơn với tốc độ của nó và rồi nó hình thành một áng mây trong phần còn lại của không khí...

       Khi chim gặp gió, nó có thể tự giữ vững mà không cần phải đập cánh, là do chức năng chúng phải vận dụng đối với không khí mà không cần phải vận động. Sự chuyển động của không khí đối với đôi cánh bất động giữ vững chúng, trong khi sự chuyển động của đôi cánh thì giữ vững chúng khi không khí bất động.     

 

Khi gió băng qua những đỉnh núi thì trở nên nhanh và đậm đặc và khi nó thổi qua khỏi núi, nó trở nên loãng và chậm, như nước tuôn ra từ con kênh hẹp chảy vào biển rộng.     

      Khi chim băng qua luồng gió đang thổi từ chậm sang nhanh, nó để bản thân cho gió mang đi cho tới khi nó tìm ra sự trợ giúp mới cho bản thân...

      Khi chim chuyển động với xung lực cản lại gió, nó đập những nhịp cánh mau và lâu với chuyển động nghiêng, và sau khi đập như thế, đôi cánh của nó duy trì trong một chốc bằng các chi co rút lại và hạ thấp. Chim sẽ đảo lộn nếu ở vị trí ít nghiêng, nó ở vào chỗ như thế là để nhận từ bên dưới sự chấn động của bất kì cơn gió bên cạnh nào. Nhưng nếu chim bị gió va đập từ phía bên cạnh tới độ nó đảo ngược để gập cánh bên trên lại, nó lập tức trở về vị trí để cơ thể chuyển hướng xuống mặt đất, trong khi nếu nó gập cánh dưới nó sẽ lập tức lộn ngược xuống bởi gió.

 

Gió sử dụng cùng cường lực đối với chim giống như cái nêm nhấc vật thể nặng.      

 

Thiên nhiên đã ban cho mọi loài chim lớn có thể giữ yên ở một độ cao rất lớn, tới mức gió càng gia tăng thì việc phi hành của chúng có thể được thẳng dòng và mạnh mẽ. Vì nếu phi hành của chúng ở độ thấp trong vùng núi là nơi gió đi vòng quanh và không ngớt đầy những lốc xoáy và cuốn tròn và là nơi chúng không thể tìm ra chỗ trú thân giữa cuồng phong bị nén trong những hốc núi, vì thế chúng cũng không tự lái được bằng đôi cánh lớn để tránh bị lao vào vách đá, tảng đá và cây cao, điều này đôi khi chẳng phải là nguyên nhân tiêu diệt chúng hay sao? Trong khi ở độ thật cao, hễ gặp một số sự biến thì gió quay vào bất kì đâu, loài chim luôn cấp thời có thể điều hướng lại luồng bay và an toàn điều chỉnh lại việc phi hành để cho việc tiến hành luôn hoàn toàn tự do... Bởi vì mọi khởi đầu của sự vật thường là nguyên nhân cho những kết quả lớn, vì thế ta có thể thấy một vận động nhỏ hầu như không thể nhận thấy của chiếc bánh lái lại có sức chuyển hướng một con tàu với kích thước cực lớn chất nặng trĩu hàng hoá, và cũng vậy, giữa một trọng lượng nước áp lực lên từng sống neo (beam) của nó, và khi chống chỏi với cuồng phong bao trùm những cánh buồm đồ sộ của nó. Do đó, ta có thể chắc chắn trong trường hợp các loài chim có thể tự chống đỡ ở bên trên những luồng gió mà không phải vỗ cánh, vì chỉ cần một vận động nhẹ của cánh hoặc đuôi cũng đủ giúp chúng hạ xuống hoặc lên trên cơn gió, và cũng đủ ngăn chim không bị rớt xuống.     

 

Khi đàn chim bay nhanh chúng giữ cự li đều nhau ở bên trên mặt đất và vỗ cánh hướng hạ và về phía sau; hướng xuống trong mức độ cần thiết để ngăn chim khỏi hạ xuống, còn hướng ra phía sau để tuỳ cơ nếu nó muốn vượt lên với tốc độ lớn hơn.

      Tốc độ bay của loài chim được kiểm soát bằng độ mở và xoè đuôi.

 

Để thay đổi phương hướng, chim xoè đuôi ra. 

    Việc xoè đuôi và hạ thấp đuôi cùng việc xoãi cánh đồng thời đạt tới mức đầy đủ để hãm lại sự vận động nhanh của chim. Khi chim hạ xuống gần mặt đất và đầu ở thấp hơn đuôi, chúng hạ đuôi xuống và xoè rộng ra, rồi đôi cánh đập những nhịp ngắn; vì vậy đầu chim ngước lên cao hơn đuôi, và tốc độ được kiểm tra sao cho chim có thể đậu xuống đất mà không va chạm mạnh.   

 

Nhiều loài chim vận động đôi cánh nhanh nhẹn khi cất cánh cũng như khi đáp xuống; như chích choè và những loại chim tương tự.

      Một số loài chim có thói quen vận động đôi cánh nhanh hơn khi chúng hạ xuống hơn là khi chúng cất cánh, và điều này thấy qua trường hợp của chim câu và những loại chim tương tự. Có những loài chim khác hạ cánh xuống chậm hơn khi chúng cất cánh, và điều này thấy qua loài quạ và những loại chim tương tự. 

 

Diều hâu và những loài chim khác vỗ cánh chỉ nhè nhẹ để đi tìm luồng gió; và khi gió nổi lên ở một độ cao, ta có thể thấy chúng bay rất cao, còn nếu gió thổi thấp thì chúng giữ ở độ thấp. Khi không trung lặng gió, diều hâu năng vỗ cánh hơn trong lúc bay, tới mức độ khi nó lên cao và đạt được một xung lực; với xung lực này, rồi dần dần đáp xuống, nó có thể di động một cự li xa mà không phải vỗ cánh. Và khi đã hạ xuống, nó lại lập đi lập lại liên tục như thế, và trong việc hạ xuống mà không vỗ cánh, đôi cánh được dùng như phương tiện nghỉ ngơi trong không trung sau đợt vỗ cánh mệt mỏi trước đó

      Tất cả những loài chim bay vọt lên cao bằng việc đập cánh; còn trong lúc hạ cánh thì chúng tiếp tục nghỉ ngơi, vì khi hạ xuống chúng không đập cánh.

 

Khi diều hâu hạ xuống thì tự nó quay sang bên phải với đầu hướng xuống xuyên nhập không khí, nó buộc bẻ cong đuôi nghịch hướng với địa điểm nó muốn tới; và rồi vội bẻ đuôi cong theo hướng nó muốn để chuyển đổi theo tiến trình phù hợp với hướng quay của đuôi—như cái bánh lái con tàu khi chuyển hướng thì rẽ con tàu nhưng nghịch hướng.  

 

Một con chim đang tự giữ mình trên không ngược với chiều gió, có năng lực trong nó mang xu hướng hạ xuống, vừa năng lực tương tự khác trong gió va đập nó có xu hướng lên cao. Và nếu những năng lực này ngang nhau tới nỗi cái này không thể chế ngự cái kia, thì chim sẽ không có khả năng tự lên cao hoặc hạ thấp, vì vậy nó sẽ duy trì vị thế của nó vững vàng trong không trung.    

 

 

Tại sao cuộc phi hành của đàn chim khi thiên di lại ngược chiều gió

 

Phi hành của đàn chim khi thiên di đi ngược với chiều gió, không phải để sự vận động của chúng được nhanh chóng hơn mà vì ít bị mệt mỏi hơn. Việc này được thực hiện với việc vỗ cánh nhẹ, nhờ đó chúng vào trong cơn gió bằng sự vận động chao nghiêng từ bên dưới và sau đó để bản thân chúng chao nghiêng ở trên luồng gió. Gió đi vào bên dưới  độ chao nghiêng của con chim như một cái nêm và nâng nó lên trên trong thời gian xung lực hấp thu được và tự nó tiêu hao, sau đó, chim lại hạ xuống bên dưới gió... Rồi nó lập lại vận động phản xạ nói trên ở bên trên cơn gió cho tới khi lấy lại được độ lên cao bị mất, và cứ như thế, nó tiếp tục không ngừng.

 

 

Tại sao hiếm khi chim bay thuận chiều gió

 

Phi hành của chim thuận chiều gió rất hiếm khi xảy ra, điều này là do luồng gió này bao bọc chúng và làm phân tán lông vũ ra khỏi lưng và cũng làm buốt khoảng thịt bị hở. Nhưng trở ngại lớn nhất chính là sau việc hạ xuống nghiêng thì sự vận động của nó không thể đi vào luồng gió, trừ phi nó quay nghịch hướng để không đình trệ hành trình và mượn lực của gió để lao lên phía trên tới độ cao cũ.

      Loài chim xoè càng rộng lông vũ của cánh đang lúc phi hành trở nên chậm dần, điều này phù hợp với quy luật phát biểu rằng: ‘Vật thể có bề càng rộng sẽ càng nhẹ hơn’.      

Loài chim giảm sức nặng khi tự xoãi mình ra, và ngược lại, nó nặng hơn khi thu mình lại; còn những con bướm thực nghiệm điều này khi chúng đáp xuống.      

Khi chim muốn lên cao bằng việc đập cánh, nó nâng vai lên rồi vỗ đầu cánh hướng vào thân mình, làm cho không khí ngưng tụ chen vào giữa đầu cánh và ức chim, và áp lực từ không khí này nâng chim lên cao.

      Khi chim muốn rẽ sang bên phải hay bên trái bằng việc đập cánh, nó sẽ đập cái cánh thấp hơn xuống về bên nó muốn rẽ, và như vậy, sự vận động xoay vòng của chim phía sau xung lực của cái cánh được tăng tốc và nó sẽ tạo ra vận động phản xạ bên dưới cái cánh phát sinh từ phía đối trọng.

Khi chim bay ngược gió thì tiến trình của nó tạo ra theo tuyến nghiêng hướng xuống mặt đất, rồi đi vào bên dưới luồng gió... còn nếu chim muốn lên tới một độ cao thì nó sẽ đi vào bên trên luồng gió, và nó sẽ giữ được đủ xung lực đã hấp thu khi đáp xuống mà ta đã nói tới, như thế, nhờ những phương tiện của tốc độ có được, nó sẽ hạ thấp đuôi và khuỷu của đôi cánh xuống và nâng bánh lái lên. Và rồi nó sẽ ở bên trên luồng gió...   

      Bươm bướm, loại côn trùng tương tự, đều bay bằng bốn cánh, đôi cánh sau nhỏ hơn đôi cánh trước. Đôi cánh trước phủ một phần lên đôi cánh phía sau.

      Mọi loại côn trùng thuộc họ này đều có năng lực vận động lên cao trực tuyến, vì khi chúng lên cao thì những đôi cánh sau giữ một độ hở với đôi cánh trước cao hơn đôi cánh sau. Và điều này tiếp tục chừng nào xung lực còn thúc đẩy chúng lên trên; và sau đó, khi chúng hạ thấp đôi cánh thì cánh lớn kết hợp vào với cánh nhỏ, và như vậy khi chúng đáp xuống, chúng lại có được xung lực mới.

 

[Với bản vẽ một con chuồn chuồn].     

      Loài pannicola bay bằng bốn cánh, và khi đôi cánh phía trước cất lên thì đôi cánh phía sau hạ thấp.

      Nhưng cần thiết cho mỗi cặp cánh phải tự đủ khả năng chịu đựng toàn bộ trọng lượng.

      Khi cặp cánh này cất lên thì cặp cánh kia hạ thấp.

      Để thấy việc phi hành của loài bốn cánh, hãy đi vào những cái hào, bạn sẽ thấy loài “pannicole” đen.

      Động vật khi nó lao vào một Nguyên tố này thành một nguyên tố khác.

 

Bút kí này kèm theo bức vẽ một con cá chào mào đang bay với đuôi dương lên, cánh của nó dang ra trên điểm lao từ mặt nước vào không trung. Trên cùng trang giấy là những bức vẽ một con bướm, một con kiến sư tử, và một con dơi, tất cả đều dang cánh. 

 

IV.              MÁY BAY

 

Thiên tài của con người có thể tạo ra những phát minh đa dạng, bao gồm những khí cụ đa dạng có cùng mục đích; nhưng nó sẽ không bao giờ khám phá ra một phát minh nào tinh mĩ hơn, tiết kiệm hơn, hoặc trực tiếp hơn phát minh của thiên nhiên, bởi vì trong những phát minh của thiên nhiên, không có gì thiếu và không có gì thừa.   

Một con chim là một khí cụ vận hành theo quy luật toán học, và khí cụ này nằm trong khả năng con người chế tạo với mọi cơ năng của nó nhưng lại không có được sức mạnh như vậy, tuy nhiên, chỉ thiếu về năng lực duy trì sự quân bình. Vì vậy, ta có thể nói rằng một khí cụ như thế do con người dựng lên không bị thiếu gì ngoại trừ sinh lực của loài chim, và sinh lực này phải cần mô phỏng bằng sinh lực con người. Sinh lực vốn trú ngụ trong các chi thể của chim rõ ràng phục tùng nhu cầu của chúng tốt hơn là sinh lực của con người vốn tách biệt với các chi thể và đặc biệt là trong những vận động duy trì sự quân bình hầu như không thể nhận thấy. Vì chúng ta thấy rằng loài chim được trang bị cho rất nhiều loại vận động nhậy cảm đa dạng, nên chúng ta có thể từ kinh nghiệm này suy diễn rằng điều hiển nhiên nhất trong những vận động này sẽ có thể là nhận thức của con người có thể hiểu được, và điều mà con người muốn là một mức độ lớn có thể cung ứng chống lại huỷ diệt của loại khí cụ mà y đã tự tạo ra sinh lực và hướng đạo.

Một vật thể đưa ra sự đề kháng với không khí như vậy giống như không khí đề kháng với vật thể. Hãy nhìn vào cách đập đôi cánh vào không khí đã nâng đỡ một con đại bàng nặng trong làn không khí cực kì loãng gần với hoả cầu. Hãy quan sát cách mà không khí vận động trên biển khi làm đầy những cánh buồm căng phồng và đẩy mạnh những con tàu chất đầy hàng hoá.  

      Từ những ví dụ này, và những lí do đã nêu, một người có đôi cánh đủ lớn và được gắn đúng cách có thể học cách khắc phục trở ngại của không khí, và khi chinh phục nó thành công trong việc chế ngự nó và nâng mình lên trên nó.

      Nếu một người có cái tán rộng 12 và cao 12 thước Ý và phủ bằng vải,[1] thì y có thể gieo mình xuống từ bất cứ độ cao nào mà không bị tổn thương.

Người ở trong cỗ máy phi hành phải tự do từ thắt lưng trở lên để có thể giữ cân bằng như khi ở trên thuyền, sao cho trọng lượng trung tâm của kẻ ấy và của cỗ máy có thể đối trọng nhau và dịch chuyển tới nơi yêu cầu qua sự thay đổi của trung tâm trở lực.  

Bạn hãy nhớ, loại chim mà bạn mô phỏng thiết kế không loại nào khác ngoài dơi, bởi vì những tấm màng của nó dùng như cái sườn hay đúng hơn là phương tiện nối kết với cái khung, là cái khung của đôi cánh.

      Nếu bạn mô phỏng đôi cánh lông vũ của chim, thì đây là những phần mạnh hơn cả về cấu trúc bởi vì chúng có thể bị xâm nhập, khi mà những lông vũ tách ra và không khí lọt qua. Nhưng loài dơi được trợ giúp bằng những cái màng vốn gắn chặt toàn thể lại và không thể bị không khí xâm nhập. 

Hãy giải phẫu loài dơi, tập trung vào điều này, và thiết kế máy bay trên mô hình này.

Giả sử có một vật thể lơ lửng, tương tự như chim, và cái đuôi của nó xoắn sang một góc có nhiều độ khác nhau; bạn có thể bằng phương tiện này để suy ra một quy luật chung dựa theo những độ xoắn và xoay khác nhau theo chuyển động của chim gây ra bằng cách uốn đuôi. Trong các vận động khác nhau thì bộ phận nặng nhất của vật thể di động trở nên cái hướng đạo của vận động.   

Khi nguyên động cơ (mover) của vật thể bay có năng lực có thể chia thành bốn phần qua bốn cơ năng chủ yếu, nó có khả năng vận dụng chúng một cách đều và không đều, và cũng có khả năng vận dụng toàn bộ đều và toàn bộ không đều, dựa theo những quy tắc từ những vận động khác nhau của vật thể bay.

 Nếu bốn cơ năng toàn bộ di chuyển đều nhau, thì vật thể bay sẽ ở trong vận động có quy tắc.

      Nếu bốn loại cơ năng vận dụng theo tỉ lệ liên tục không bằng nhau, thì vật thể phi hành sẽ chuyển động theo vòng tròn.

Loại chim tôi đã mô tả phải bằng sự trợ giúp của gió để lên rất cao và điều này sẽ là sự an toàn của nó; bởi vì nều tất cả những xoay vòng nêu trên mà hỏng, nó vẫn có đủ thời gian để lấy lại vị thế cân bằng miễn là những bộ phận của nó có một sức đề kháng lớn; vì vậy, chúng có thể chống đỡ một cách an toàn đối với xung lực mãnh liệt của việc hạ xuống bằng trợ giúp của những lối tự vệ mà tôi đã nêu, và bằng những khớp nối được làm bằng da thuộc và chão của nó làm bằng những dây kết bằng loại tơ thô rất khoẻ; và đừng ai để mình bị vướng vào những phiến sắt vì những phiến này rất mau bị gẫy ở các khớp và chúng bị tiêu mòn; vì lí do này, tốt hơn là không nên bị vướng víu với chúng.              



[1] Leonardo đang mô tả một cái dù.

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét