Hà Vũ Trọng dịch
Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.
Ghi chú về văn bản:Tập chọn lọc những trước tác của Leonardo do Irma Richter thực hiện, phát hành đầu tiên năm 1952, dựa trên bản dịch sang tiếng Anh do thân phụ bà là Jean Paul Richter, được phát hành thành hai tập, The Literary Works of Leonardo da Vinci năm 1883. Công trình của J. P. Richter là bản dịch toàn diện đầu tiên các trước tác của Leonardo sang tiếng Anh, và đồ sộ về tầm mức cũng như đóng góp vào việc học thuật về Leonardo. Khoảng 5.000 trang thủ cảo được viết ngược chiều từ phải sang trái (bởi Leonardo thuận viết tay trái) đã được duyệt lại. Các bản dịch được xắp xếp theo chủ đề trong hình thức có tổ chức để giúp có thể tiếp cận với hàng ngàn trang khác hẳn nhau. Tập chọn lọc của Irma Richter cũng được trợ giúp một phần qua bản dịch của Edward MacCurdy, The Notebooks of Leonardo da Vinci, phát hành năm 1938.
______
LỜI ĐẦU
MỤC LỤC
CHƯƠNG I KHOA HỌC CHÂN CHÍNH
I. Kinh nghiệm
II. Lí tính và những quy luật tự
nhiên
III. Chứng minh toán học
IV. Thực nghiệm
V. Tìm kiếm tri thức chân chính
CHƯƠNG II VŨ TRỤ
I. BỐN
LOẠI NGUYÊN TỐ
1. Nước
2. Nước và đất
a. Hồng thuỷ và vỏ sò. b. Sông ngòi và địa
tầng c. Địa trung hải
3. Nước và không khí
4. Đất, nước, khí, và lửa
5. Tiểu vũ trụ và đại vũ trụ
6. Một tinh thần giữa những nguyên tố:
trong những giới hạn của nó
7. Vòm trời
II. BỐN NĂNG LỰC TỰ NHIÊN
Những đề cương cho cuốn sách về cơ học lí
thuyết
1. Trọng lượng
2. Cường lực và trọng lượng
3. Vận động
4. Vận động và trọng lượng
5. Vận động và cường lực
6. Động lực và chấn động
III. CƠ HỌC
Những đề cương cho các sách về cơ học
ứng dụng
1. Ma sát
2. Những công cụ để cân
3. Đinh ốc
CHƯƠNG III PHI HÀNH
I. VẬN ĐỘNG TRONG GIÓ VÀ NƯỚC
II. CẤU TẠO ĐÔI CÁNH CHIM
III. BƠI LỘI VÀ PHI HÀNH
IV. MÁY BAY
CHƯƠNG IV NGHỆ THUẬT
I. GIÁO
TRÌNH HỌC TẬP CỦA HOẠ SĨ
1. Con mắt và ngoại hình của sự vật
a. Năm giác quan b. Con mắt c. Phối cảnh
2. Bề mặt vật thể và ánh sáng
a. Cơ sở hình học b. Ánh sáng và bóng và màu
3. Sự sống và cấu tạo của vật thể
a. Tỉ lệ
b. Cơ thể học và vận động của cơ thể
c. Sinh lí học d. Lưỡi e. Môi
f. Bào thai g. Cơ thể học so
sánh h. Vải vóc i. Thực vật học
4. Biểu hiện của tinh thần
5. Bố cục
II. SO SÁNH CÁC MÔN NGHỆ THUẬT
1. Hội hoạ, âm nhạc, và thơ ca
2. Thời gian và không gian
3. Âm thanh và không gian
4. Hội hoạ và điêu khắc
III. LẬP ĐỒ ÁN KIẾN TRÚC
IV. ĐỜI SỐNG CỦA HOẠ SĨ
CHƯƠNG V CHUYỆN KỂ VÀ NGỤ NGÔN
CHƯƠNG VI NHỮNG SUY TƯ VỀ NHÂN SINH
I. ĐỜI SỐNG QUA ĐI
II. ĐỜI SỐNG THÂN THỂ
III. ĐỜI SỐNG TÂM LINH
IV. VỀ CHÍNH QUYỀN
CHƯƠNG VII HÀNH TRÌNH TRONG ĐỜI LEONARDO
I. TUSCANY
II. THỜI KÌ ĐẦU Ở MILAN
III. VENICE, FLORENCE, VÀ ROMAGNA
IV.THỜI KÌ THỨ HAI Ở MILAN
V. ROME, AMBOISE
*
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời trẻ của
mình ở Florence thời Phục hưng, Leonardo đã nhận thức hội hoạ là thiên chức cao
quý nhất mở ra cho nhân loại và ông đã khởi đầu với nhiệt tình theo đuổi nó.
Không
chỉ vẻ đẹp của tự nhiên mà còn cả vẻ đẹp tinh thần tác động dưới vẻ bên ngoài của
thế giới đã khiến ông say mê. Kết hợp tính linh cảm của người nghệ sĩ với niềm
khao khát tri thức của nhà khoa học, ông đã
phân tích những đối tượng của thị giác và phương thức vận hành của thị
giác. Điều này đòi hỏi nghiên cứu về tự nhiên, cấu trúc và đời sống của nó. Khi
ông xúc tiến thì mối quan tâm về khoa học tự nhiên càng sâu thêm. Ông dùng
những phương pháp điều nghiên khoa học để xác định những quy luật của Tự nhiên
và áp dụng chúng vào trong tác phẩm của mình. Ông tiến hành những nghiên cứu
này không chỉ để vẽ những bức tranh được các nhà bảo trợ uỷ nhiệm mà còn để đạt
được năng lực sáng tạo. Tác phẩm của ông thể hiện những hành động, cảm xúc;
những gương mặt được khuôn đúc bằng đời sống bên trong. Những phong cảnh miêu
tả việc hình thành nham thạch, sinh trưởng của thực vật, và vận động của nước.
Leonardo
thường sử dụng tri thức và kinh nghiệm của mình vào những mục đích thực tiễn.
Như vậy, con người này, kẻ đã sáng tạo nên một số nghệ phẩm tuyệt diệu và cũng
còn là vị tiền bối cho một thời đại mới trong khoa học và, luôn thể, là một kĩ
sư dân sự và quân sự với những phát minh thể hiện dưới hình thức sơ bộ cho những
nguyên lí cơ học hiện đại.
Ông
có khả năng đạt được điều ấy chính vì ông là một nhà nghệ thuật. Trong thời đại
ông, không có nhà khoa học chuyên môn nào thực hành qua thực nghiệm; còn những cách
quan sát hiện tượng tự nhiên do Aristotle truyền xuống và những triết gia cổ
đại khác tiếp tục hình thành nền tảng cho một tín điều được phê chuẩn bởi những
nhà triết học Kinh viện, họ chỉ trích những phương pháp thực nghiệm là phá hoại
và “vô học”. Nhưng là một nghệ sĩ, Leonardo đã tiến hành một phương hướng do
kinh nghiệm thị giác hướng đạo. Trí năng của ông được tự do và dốc toàn tâm sức
vào việc điều nghiên.
Đôi
khi, ông nhận ra nguyên nhân những gì là thảm hoạ trí mạng có khả năng từ những
quy luật phổ biến của tự nhiên gây ra. Có khi, ông phê phán mạnh mẽ tính vị kỉ cố
hữu và độc ác của con người. Dần dần, thái độ của ông hướng tới thế giới trở
nên cách biệt kì lạ và là một kẻ quan sát vô vị kỉ. Khi những nghi vấn nảy sinh
trong tâm trí về tín niệm cổ xưa nào đó thâm căn cố đế, ông sẽ nêu ra trong bút
kí. Nhưng vì ông không phải là nhà lí thuyết trừu tượng chủ ý thiết lập một hệ
thống luận lí, cũng không phải là nhà khoa học hiện đại tập trung vào một tuyến
điều nghiên đặc biệt nào, nhưng là một thiên tài “đại đồng” của thời Phục hưng
chủ tâm sáng tạo nghệ thuật, ông nỗ lực đặt nền tảng khoa học tự nhiên của mình
trên sự tiếp thu hệ thống triết học kế thừa từ tư tưởng Hi-lạp và tư tưởng
Trung cổ, vốn nhận thức về thế giới như một vũ trụ có tổ chức tương ứng với một
tác phẩm nghệ thuật; ông được bổ ích nhờ đó.
Đọc bút kí của ông, chúng ta có thể có thêm trực quan qua tư tưởng của ông. Ông thường mang theo bên mình những tập bút kí này để phác thảo những ấn tượng nhất thời hoặc chép xuống những ý tưởng nảy sinh bất chợt—những quan sát trong khi đi dạo và du hành, những phản ánh về các sự kiện và nhân vật, hoặc về những vấn đề rắc rối trong gia đình, về công việc, về đời sống nói chung. Những thủ bản còn sót lại bao gồm bản nháp thư tín, những miêu tả giàu và ngụ ngôn giàu tưởng tượng, những sơ thảo luận về thuỷ lực, luận về hội hoạ, về cơ thể học và về vận động của nhân thể, v.v... Nhưng chúng chỉ là những ghi chú. Thường thường, những nhận xét về những đề tài khác nhau được ghi vội trên cùng một trang, hoặc những tái xác định và giải minh về một ý tưởng và cùng ý tưởng nảy ra ở một trang khác. Những lời dưới đây viết trên trang đầu một bản thảo về vật lí học, miêu tả phương pháp viết của ông:
”Đây là một tập hợp không theo trật tự, rút ra từ nhiều trang, tôi chép lại ở đây, hi vọng sau này sắp xếp chúng theo đề tài mà chúng luận về; và tôi tin rằng tôi sẽ phải lập lại cùng một vấn đề nhiều lần; vì thế, xin độc giả đừng trách tôi, bởi đề tài thì nhiều, mà kí ức không thể nào kham được... hơn hết, là do những gián đoạn lâu dài giữa những lần viết.”
Ý
định của Leonardo muốn phân loại các bút kí đã chẳng bao giờ được thực hiện.
Cuốn sách này là nỗ lực muốn phối hợp một tập chọn lọc những đề tài quan tâm
chung. Sự chọn lựa thường khó khăn vì ông thường bị lôi cuốn và phân tán bởi
quá nhiều vấn đề, phụ thuộc vào tâm tình và những hoàn cảnh của ông. Chúng tôi
đã tự giới hạn khi trích dẫn những ví dụ điển hình về những luận đề chính. Ba
chương đầu bàn về khoa học và tự nhiên. Trong chương bốn, bình luận về hội hoạ
được tóm lược và các vấn đề tồn tại dai dẳng của nghệ thuật được bàn luận.
Chương năm gồm các trước tác về một loại văn học—chuyện kể, ngụ ngôn, cách
ngôn; chương sáu đưa ra những phản ánh về đời sống. Trong chương cuối tham
chiếu về những việc cá nhân của Leonardo và về tác phẩm của ông được sắp theo
chuỗi biên niên, xâu chuỗi trên sợi chỉ thống nhất về cuộc đời ông, như một
nhật kí. Ánh sáng rọi vào những hoàn cảnh ông đã sống, vào những biến cố và
những nhân vật lịch sử đã ảnh hướng tới sự nghiệp ông.
Độc giả đừng hi vọng một tự sự liên tục và mạch lạc. Trong một
số tình huống, việc sắp xếp văn bản phải bị “ngắt đoạn” (staccato). Leonardo đã
không nhận mình là văn nhân và am hiểu văn học cổ điển như đa số tác giả trong
thời đại ông. Với những tác gia đồng thời này trong tâm trí, ông khiêm tốn tự
nhận mình là omo sanza lettere (người không biết chữ), nhưng đấy là sự hóm hỉnh
thôi, vì ông hãnh diện về phương pháp của mình, bởi ông có những điều để nói vượt
ngoài tầm của họ; và ông làm thế bằng ngôn ngữ trong sáng và cương nghị của dân
Italia.
Ngày
nay, sau năm trăm năm, bút kí của Leonardo được coi là vô giá, và được đem vào
trong tủ sách Kinh điển Thế giới của Ấn quán Đại học Oxford.
Độc
giả sẽ thấy ông nỗ lực biểu đạt tư tưởng của mình. Họ sẽ học để hiểu ông, và sẽ
nhận ra một tính thống nhất tiềm ẩn. Vì những quan sát đa phương diện nảy sinh
từ một tinh thần nhất quán. Cuộc đời của một trong những nhân vật vĩ đại nhất
trong thời Phục hưng của Ý, ở đây được tự hoạ bằng lời.
Vasari
mở đầu tiểu sử về hoạ sĩ này rằng: “Đôi khi, trời gửi xuống cho chúng ta không
chỉ một con người mà còn là thần thánh, vì thế qua tư tưởng và trí tuệ phi phàm
của ông, chúng ta có thể vươn tới thiên đường.” Sống gần những tư tưởng lớn là
sự giáo dục tốt nhất, và cũng là niềm hạnh phúc lớn với chúng ta. Mục đích cuốn
sách này là cống hiến cho độc giả một cơ duyên như thế.
*
CHƯƠNG I
KHOA HỌC CHÂN
CHÍNH
Dự kiến của Leonardo về khoa học báo trước những phương pháp phê phán và kiến thiết của thời hiện đại. Ông xúc tiến từng bước. (1) Kinh nghiệm về thế giới quanh ta đạt được qua giác quan được xem như điểm xuất phát. (2) Lí tính và suy tưởng, tuy có liên kết với các giác quan, nhưng đứng trên và ở ngoài chúng, rút ra những quy luật vĩnh cửu và phổ biến từ những kinh nghiệm nhất thời và cá biệt. (3) Những quy luật phổ biến này phải được chứng minh bằng chuỗi luận lí giống như những mệnh đề toán học, và cuối cùng (4) chúng phải được trắc nghiệm và chứng thực bằng thực nghiệm, và rồi ứng dụng vào việc sản sinh ra những công trình tiện ích hoặc tác phẩm nghệ thuật căn cứ theo dự án. Chính vì mục đích của Leonardo nhờ có được tri thức để ông có thể đạt được năng lực và sản sinh ra những tác phẩm. Như vậy chân lí có thể được chứng thực. Ông đối lập với những hệ thống triết học thành lập chỉ bằng ngôn từ.
I. KINH NGHIỆM
Độc giả, hãy suy xét! Chúng ta có thể tin cậy điều gì vào người xưa, họ đã cố gắng định nghĩa Linh hồn và Sinh mệnh là gì—vốn vượt ngoài chứng cớ—trong khi đó, bất kì điều gì có thể biết rõ và chứng minh bằng kinh nghiệm qua nhiều thế kỉ lại không được biết tới hoặc bị hiểu sai.
Nhiều
người sẽ cho rằng họ có lí do trách cứ tôi, viện cớ những chứng cứ của tôi trái
với quyền uy của một số nhân vật vô cùng đáng kính bởi những phán đoán thiếu
kinh nghiệm của họ, mà không suy xét rằng những tác phẩm của tôi phát xuất từ
kinh nghiệm giản dị, hiển nhiên và vốn là nữ chúa chân thật.
Những quy luật này giúp cho bạn biết cái
đúng khỏi cái sai—và điều này khuyến khích chúng ta chỉ tìm kiếm những sự việc
trong khả năng và với tính trung dung thích hợp—và chúng cấm chỉ chúng ta dùng
cái áo khoác ngu muội, vốn chỉ mang lại cho bạn sự vô kết quả và thất vọng
buông mình cho nỗi buồn khổ.
Tôi hoàn hoàn ý thức rằng thực tế tôi
không phải là văn sĩ nên có thể là nguyên nhân cho một số người mạo muội lấy lí
do trách cứ tôi, viện cớ rằng tôi là người vô học. Thật xuẩn ngốc! Họ không
biết rằng tôi có thể trả đũa như Marius nói với những nhà quý tộc La-mã: “Những
ai tô điểm bản thân mình bằng thành quả lao động của kẻ khác sẽ không cho phép
tôi lấy làm thành quả của mình”.[1]
Họ sẽ nói rằng, bởi vì tôi không có kiến thức sách vở, nên tôi không thể hiện
được chính xác những gì tôi muốn trình bày—nhưng họ không biết rằng những chủ
đề của tôi đòi hỏi sự khai giải bằng kinh nghiệm thay vì là ngôn từ của kẻ
khác. Kinh nghiệm là chúa vương của bất cứ người viết văn nào; và cũng là nữ
chúa mà tôi sẽ trích dẫn trong mọi trường hợp.
Tuy
tôi không có sức trích dẫn những tác giả như họ, nhưng tôi sẽ trông cậy vào
điều lớn lao hơn và giá trị hơn—kinh nghiệm, là nữ chúa chỉ đạo cho những của
họ. Họ dương dương tự đắc và tô điểm không phải bằng thành quả lao động của họ,
mà của người khác, mà họ còn không cho phép tôi dùng những lao động của chính
mình. Và nếu họ khinh miệt tôi là nhà phát minh, họ đáng trách biết bao nhiêu
vì họ không phải là những nhà phát minh mà chỉ là những kẻ thổi kèn và trích
tụng tác phẩm người khác!
Những nhà phát minh và những nhà thông
giải giữa Tự nhiên và Con người, nếu so sánh với những kẻ thổi kèn và trích
tụng tác phẩm của người khác, thì chỉ đáng xem như một vật ở trước gương so với
hình ảnh của nó thấy trong gương, một cái bản thân là thật, cái kia là hư
không; những người mắc nợ với tự nhiên thì nhỏ nhoi, bởi họ chỉ ngẫu nhiên được
phú cho hình hài con người, và chỉ với điều này, tôi có thể xếp loại họ vào
những bầy thú.
Xét
rằng tôi không thể tìm ra bất cứ chủ đề nào ích lợi lớn hoặc thú vị, bởi những
vị đi trước đã đem theo với họ mọi chủ đề ích lợi và thiết yếu, do sự nghèo nàn
của mình, tôi sẽ làm như kẻ cuối cùng tới phiên chợ, vả lại, không thể tự chu
cấp, nên chọn lấy tất cả mọi thứ mà người khác đã nhìn thấy và không lấy đi hoặc
từ chối vì xem là ít giá trị; tôi sẽ chất lên cá túi đeo lưng khiêm tốn của
mình những hàng hoá bị khinh rẻ và vứt bỏ, cùng những đồ vật bỏ lại của nhiều
khách hàng; và tôi sẽ đi khắp nơi phân phát, không ở những đô thị lớn, mà ở
những thôn xóm nghèo, và tôi sẽ nhận lấy sự đền đáp theo vật mà tôi cho xứng
đáng là bao nhiêu
Những nhà tóm lược[2]
(những tác phẩm) làm tổn hại tri thức và tình yêu, vì tình yêu với bất kì điều
gì đều là con cái của tri thức, tình yêu càng nồng nhiệt tỉ lệ với tri thức thì
càng chắc chắn bấy nhiêu. Và tính chắc chắn này phát sinh từ một tri thức trọn
vẹn về mọi bộ phận vốn khi thống nhất sẽ hợp thành trọn vẹn cái vật đáng được yêu.
Vậy, ích lợi gì đối với kẻ rút ngắn bộ phận của sự vật mà y tự cho là để đưa ra thông tin đầy đủ, cho nên đã loại bỏ phần lớn những thứ vốn kết hợp thành toàn thể. Cũng giống như tính thiếu kiên nhẫn, bà mẹ của rồ dại, nó ca tụng sự vắn tắt, như thể những kẻ ấy không sống lâu đủ để mà thủ đắc tri thức trọn vẹn về một bộ môn, chẳng hạn như nhân thể. Đã thế, họ muốn lĩnh ngộ tinh thần của Thượng đế vốn bao bọc toàn vũ trụ, họ cân đo và băm nhỏ ra thành những bộ phận vô hạn, như thể họ mổ xẻ nó. Ôi, sự ngu xuẩn của con người! Các người không nhận thấy đã phí cả đời với bản thân mình, mà còn chưa nhận ra điều mà các người chủ yếu sở hữu, đó chính là sự xuẩn ngốc? Cũng như vậy với đám nguỵ biện, các người tự huyễn gạt mình và người khác, khinh miệt những khoa học có cơ sở là toán học bao hàm thông tin chân thực về những bộ môn mà họ xử lí. Và rồi các người hân hoan bận rộn với những kì tích và viết lách, đưa thông tin về những điều mà trí óc con người không có khả năng, và không thể chứng minh bằng bất kì ví dụ nào từ tự nhiên. Và các người tưởng rằng đã tạo ra những kì tích trong khi các người lại làm hỏng công trình của một số đầu óc chân phương nào đó và không nhận thức rằng các người đang rơi vào cùng những sai lầm giống như kẻ tước bỏ khỏi cây những trang điểm cành nhánh trĩu lá lẫn với hoa quả thơm để mà chứng minh sự tiện ích của cây cho việc làm ra những tấm ván. Như Justinus[3] từng làm, ông đã rút ngắn sử kí của Trogus Pompeius, người đã viết bằng một văn phong hoa lệ tất cả hành vi vĩ đại của tổ tiên ông, đầy những mô tả đáng khâm phục và đẹp như tranh; với việc biên soạn một tác phẩm khô khốc như thế chỉ thích hợp cho những đầu óc thiếu kiên nhẫn vì họ nghĩ rằng lãng phí thời gian, khi mà họ được bổ ích nếu dành nó để nghiên cứu những tác phẩm về tự nhiên và hành vi của con người.
Tất cả tri thức bắt nguồn từ những tri giác của chúng ta.
Con
mắt vốn được gọi là cửa sổ linh hồn, là khí quan chính nhờ đó việc nhận thức có
thể được đầy đủ nhất và thưởng ngoạn dồi dào trước những tác phẩm vô hạn của tự
nhiên.
Kinh nghiệm quyết không sai lầm; chỉ có phán đoán của bạn sai lầm khi tự hứa hẹn những kết quả không được tạo bằng những thực nghiệm. Bởi vì, khi đưa ra một khởi điểm, những gì tiếp theo nó phải là những hệ quả thực sự nếu không có chướng ngại. Còn nếu có chướng ngại, thì cái kết quả đáng ra phải tuân theo ngay từ cái khởi đầu nói trên sẽ dự phần vào với chướng ngại này trong cấp độ hơn kém, cân xứng với chướng ngại này và ít nhiều mạnh mẽ hơn khởi điểm đã nói trên. Kinh nghiệm không sai lầm, chỉ có phán đoán của bạn sai lầm khi đặt kì vọng vào nó những cái không có trong năng lực của nó. Người ta sai khi than phiền về Kinh nghiệm và với những trách móc gay gắt và buộc tội nó dẫn họ đi lạc. Hãy để Kinh nghiệm một mình, đúng hơn, hãy hướng những than phiền chống lại sự ngu muội của chính mình, nó khiến bạn bị cuốn đi bởi những dục vọng vô ích và ngu ngốc khi kì vọng từ kinh nghiệm những cái vốn không nằm trong năng lực của nó; và cho rằng nó là sai lầm. Người ta sai khi than phiền về Kinh nghiệm ngây thơ, và buộc tội nó thường lừa gạt và chứng minh dối trá.
Đối
với tôi, gần như mọi ngành khoa học đều vô ích và đầy dẫy sai lầm nếu không được
sản sinh từ Kinh nghiệm, người mẹ của mọi xác thực, và không được thử thách
bằng Kinh nghiệm; nghĩa là, ngay từ đầu, giữa, hoặc kết, không được thông qua
năm giác quan. Vì nếu chúng ta hoài nghi về tính xác thực của sự việc thông qua
các giác quan, chúng ta còn chất vấn bao nhiêu thứ nữa dựa vào những cái mà các
giác quan này nổi loạn, chẳng hạn như bản tính của Thượng Đế, linh hồn và những
thứ tương tự, về những thứ đó, người ta không ngớt tranh luận và dị nghị. Và
thật sự xảy ra rằng nơi đâu thiếu lí tính, nơi đó bị ồn ào chiếm cứ. Điều này
chẳng bao giờ xảy ra khi sự việc được chắc chắn. Do đó, ở đâu có tranh cãi, ở
đó thiếu khoa học chân chính; bởi chân lí chỉ có một cách kết luận—nơi nào chân
lí được biết thì dị nghị bị câm tiếng cho đến muôn đời, còn nếu dị nghị vẫn cứ
lại phát khởi, vậy thì những kết luận của chúng ta chắc hẳn thiếu chắc chắn và
hoang mang chứ không phải chân lí được tái sinh.
Tất cả những khoa học chân chính là kết quả của Kinh nghiệm vốn đã kinh qua các giác quan, vì vậy làm im miệng lưỡi những kẻ tranh biện. Kinh nghiệm không nuôi dưỡng những nhà điều tra về những huyễn mộng, mà luôn xúc tiến từ những nguyên lí đầu tiên đã được quyết định chính xác, từng bước theo đúng trình tự chân thật đi tới kết luận; như có thể thấy trong những thành tố của toán học... Ở đây không ai cãi lại như 2 lần 3 là nhiều hơn hoặc ít hơn 6 hay không hoặc những góc của một tam giác là ít hơn 2 góc vuông hay không. Ở đây mọi tranh cãi kết thúc bằng sự im lặng vĩnh cửu và những ngành khoa học này có thể được hân thưởng bởi những người tận tuỵ với nó trong hoà bình. Điều này, những loại khoa học huyễn gạt thuần tuý tư biện không thể đạt được.
Hãy
cảnh giác với lời dạy của những nhà tư biện này, bởi lí giải của họ không được
Kinh nghiệm chứng thực.
LÍ TÍNH VÀ NHỮNG
QUY LUẬT CỦA TỰ NHIÊN
Những giác quan là thuộc đất; lí tính đứng cách biệt khỏi chúng trong chiêm nghiệm.
Trí tuệ là con gái của kinh nghiệm.[4]
Kinh nghiệm, là nhà thông giải giữa tự nhiên hình thành và loài người, nó dạy rằng những gì mà tự nhiên này hành sự giữa nhân sinh bị ước thúc do tính tất yếu không thể vận hành bằng cách nào khác hơn là bằng lí tính, vốn là bánh lái của nó, và chỉ dẫn nó hành sự.
Đầu tiên, tôi sẽ kiểm tra bằng thực nghiệm trước khi xúc tiến xa hơn, bởi chủ ý của tôi là thăm dò kinh nghiệm trước và sau đó bằng việc lí giải cho thấy tại sao kinh nghiệm ấy buộc phải vận hành theo cách ấy. Và đây là quy tắc đích thực nhờ đó những ai phân tích những hiệu quả của tự nhiên phải xúc tiến: tự nhiên tuy khởi đầu bằng nguyên nhân và kết thúc bằng kinh nghiệm, nhưng chúng ta phải tiến hành ngược dòng, tức là, khởi đầu bằng phương tiện kinh nghiệm khảo sát đến nguyên nhân.
Ôi, tính tất yếu thần kì! Bằng lí tính tối cao, mi ước thúc mọi hiệu quả trở thành kết quả trực tiếp từ nguyên nhân của chúng, và bằng quy luật tối cao và bất khả kháng, mọi hành động tự nhiên phải phục tùng mi bằng tiến trình ngắn nhất khả dĩ.
Tự nhiên không phá vỡ quy luật của Nàng; tự nhiên bị ước thúc bởi tính tất yếu luận lí của quy luật vốn tiềm tàng trong Nàng.
Tính tất yếu là nữ chúa và hướng đạo của tự nhiên.
Tính tất yếu là chủ đề và là nhà phát minh của tự nhiên, là sự ước thúc và quy luật vĩnh cửu của nó.
Tự nhiên đầy những nguyên nhân vô hạn chẳng bao giờ xảy ra trong kinh nghiệm.
Trong
tự nhiên, không hiệu quả nào không có nguyên nhân; hiểu được nguyên nhân, bạn
không cần tới thực nghiệm.
CHỨNG MINH TOÁN
HỌC
Phương pháp Leonardo
đề cử cho việc đệ trình kết quả khảo sát của ông phù hợp với hình học Euclid.
Việc
trình bày phải được thực hiện theo trình tự luận lí. Đầu tiên là phát biểu về
định lí, “mệnh đề”; rồi đến “thoái nhượng” hoặc “thỉnh nguyện”, tức là những
định đề không yêu cầu hoặc không có được chứng cứ và phải được chấp nhận như
thế thôi; sau đó việc kiểm tra chủ đề được xem xét.
Những ai không phải nhà toán học xin chớ đọc những yếu tố trong tác phẩm của tôi.
Không có sự xác thực khi người ta không thể áp dụng bất kì khoa học có cơ sở toán học nào hoặc bất kì những gì gắn liền với các khoa học có cơ sở toán học.
Bất cứ ai kết án tính xác thực tối cao của toán học thì ăn theo sự hỗn loạn, và chẳng bao giờ có thể làm yên những mâu thuẫn trong khoa học nguỵ biện và dẫn tới một loại rởm đời mãi mãi.
Khoa học là cuộc điều tra bằng tinh thần vốn khởi đầu bằng nguồn gốc tột cùng của một chủ đề, ngoài nó không gì trong tự nhiên có thể tìm thấy để hình thành một phần của đối tượng. Ví dụ, hãy lấy cái số lượng liên tục trong khoa hình học: nếu ta khởi đầu quan sát bề mặt một vật thể, chúng ta thấy rằng nó do những tuyến mà thành, những tuyến biên giới của bề mặt. Nhưng chúng ta không để cho vấn đề ngừng ở đây, vì chúng ta biết rằng bản thân tuyến được quyết định bằng những điểm, và điểm là đơn vị rốt ráo và không có gì nhỏ hơn nữa. Vì vậy, điểm là khởi đầu trước hết của hình học, bất luận trong tự nhiên hoặc trong tâm trí con người, không gì có thể phát sinh điểm... Không có điều tra nào của con người có thể gọi là khoa học chân chính mà không đi qua những trắc nghiệm của toán học; và nếu bạn nói rằng những khoa học khởi đầu và kết thúc trong tâm trí chứa đựng chân lí, điều này không thể nhượng bộ được và bằng mọi lí do phải bị chối bỏ. Trước tiên và trên hết là vì trong những luận thuyết tinh thần, kinh nghiệm không có nhập vào, không có nó thì không gì tự mở phơi với tính chắc chắn.
Quy cách về những gì tôi yêu cầu nên coi là đương nhiên trong những chứng minh của tôi về phép phối cảnh. Tôi yêu cầu, hãy coi là đương nhiên khi mọi tia sáng đi qua không trung đều cùng loại và đi bằng những đường thẳng tuyến từ nguồn sáng chiếu tới những vật thể mà nó dội lại.
Ở đây, bạn phải xúc tiến theo phương pháp; đó là, bạn phải phân biệt giữa những thành phần khác nhau của mệnh đề, để cho không có hoang mang gì và bạn được hiểu rõ.
Hãy
lo liệu những ví dụ và những chứng cứ đưa ra trong tác phẩm này được định nghĩa
trước khi bạn viện dẫn.
IV. THỰC NGHIỆM
Nhưng trước khi bạn đặt một quy luật lên trường hợp này, hãy trắc nghiệm nó hai hoặc ba lần và xem những trắc nghiệm sản sinh ra cùng hiệu quả hay không.
Việc thực nghiệm này nên được làm nhiều lần sao cho không có sự ngẫu nhiên có thể xảy ra làm trở ngại hoặc làm sai lệch chứng cứ này, vì thực nghiệm có thể sai lầm dù nó có huyễn gạt người điều tra hay không.
Khi bạn kết hợp khoa học về sự vận động của nước, hãy chú ý bao gồm trong mỗi mệnh đề tính ứng dụng và công dụng của nó, để những khoa học này không thành vô dụng.
Khoa học là thủ lĩnh, thực hành là chiến sĩ.
Hỡi những kẻ tư biện về mọi sự, đừng phô trương về việc hiểu sự vật mà tự nhiên thông thường mang lại; nhưng hãy vui mừng nếu các người biết kết quả của những thứ mà các người chế tạo ra.
Những ai yêu việc thực hành mà thiếu khoa học thì giống như người thuỷ thủ đi lên con tàu mà thiếu báh lái hoặc la bàn, và y chẳng thể xác định được mình đang đi đâu.
Cơ
học là thiên đường của khoa học về toán, bởi vì bằng phương tiện của nó người
ta tới được thành quả của toán học.
V. TÌM KIẾM TRI THỨC CHÂN CHÍNH
THUẬT LUYỆN ĐAN
Leonardo khiển
trách những nhà luyện đan (alchemist) khảo sát quá trình của tự nhiên thay vì
kiếm tìm vàng. Những nhà hoá học thời kì đầu này hoạt động suốt thời Trung Cổ,
họ đã lưu truyền một bộ phận văn học lớn lao, là nhân chứng cho sự cả tin và vô
tri của những thời đó. Cho đến thời điểm có những người như Leonardo khởi đầu quan
sát Tự nhiên vì mục đích để học những phương thức của nó, vẫn chưa thực sự có
tiến bộ nào. Trích dẫn dưới đây những quan điểm khoa học hiện đại pha trộn với
những huyễn tưởng thơ mộng thời Trung Cổ—vàng được coi là biểu trưng cho mặt
trời, những cơ cấu tự nhiên được gọi là ‘nguyên tố’.
Tự
nhiên có quan hệ với việc sản sinh ra những vật cơ bản. Tuy nhiên, con người từ
những vật cơ bản này lại sản sinh ra vô số những hợp chất; mặc dù con người
không có khả năng tạo ra được nguyên tố nào ngoại trừ một đời sống khác như
chính y—đó là, con cái của y.
Những nhà luyện đan thời xưa sẽ là những
chứng nhân cho tôi, họ chưa bao giờ bằng ngẫu nhiên hoặc bằng thực nghiệm mà thành
công trong việc tạo ra một nguyên tố nhỏ nhất mà tự nhiên đã tạo ra; tuy nhiên,
những nhà sáng tạo ra những hợp chất đáng được tán dương vô chừng vì sự hữu
dụng của những sự vật được phát minh cho con người sử dụng, và thậm chí còn
đáng tán dương hơn nếu họ không phải là những nhà phát minh ra những thứ tai hại
như độc chất và những thứ khác tương tự để tàn phá đời sống hoặc tinh thần; đó
là những thứ mà họ khó được miễn khiển trách. Hơn nữa, bằng nhiều việc nghiên
cứu và thực nghiệm, họ tìm cách luyện ra không phải những sản phẩm thấp kém
nhất của Tự nhiên nhưng là sản phẩm tuyệt hảo nhất, là vàng, đứa con chân chính
của mặt trời, bởi trong hết thảy tạo vật, nó giống với măt trời nhất. Không có
tạo vật nào bền vững hơn vàng. Vàng không sợ lửa huỷ diệt, mà lửa vốn có sức
mạnh trên mọi tạo vật khác, hoá chúng thành tro, thuỷ tinh, hoặc khói. Và nếu
như lòng tham tệ hại dẫn bạn tới những sai lầm ấy, tại sao bạn không đi tới
những mỏ vàng do Thiên nhiên sản sinh, và ở đó bạn trở thành môn đệ của Nàng?
Tự nhiên sẽ thành tâm chữa căn bệnh điên rồ cho bạn, và cho bạn thấy rằng trong
lò luyện của bạn không có thứ gì thuộc vào những thứ mà Nàng dùng để sản sinh
ra vàng. Ở đây không có thuỷ ngân, không có loại lưu huỳnh nào, không có lửa
cũng không có nhiệt nào khác hơn bằng những thứ của Thiên nhiên ban đời sống
cho thế giới chúng ta; và Nàng sẽ cho bạn thấy những mạch vàng [kim thạch] toả khắp
lam ngọc, và màu sắc của nó không bị hoả lực biến đổi.
Và hãy kiểm nghiệm kĩ chi nhánh này của
vàng và bạn sẽ thấy những cực độ liên tục bành trướng bằng chuyển động chậm, và
chuyển hoá thành vàng với bất kì thứ gì nó tiếp xúc; chú ý trong đó bao hàm một
cơ quan sống động, đấy là thứ mà năng lực của bạn không thể tạo được.
Trong
mọi kiến giải của con người, điều xuẩn ngốc nhất là tin vào thuật chiêu hồn
(necromancy), đứa em của thuật luyện đan. Nhưng nó lại dễ lĩnh hội hơn thuật
luyện đan bởi nó chẳng bao giờ đẻ ra bất kì thứ gì trừ những thứ giống nó, ấy
là, những dối trá; điều này không xảy ra trong thuật luyện đan mà chức năng
không thể thi hành bởi chính tự nhiên, vì trong luyện kim không có những khí
quan hữu cơ để tác động công việc nên con người phải thực hiện bằng đôi tay
mình, với việc lợi dụng nó, con người đã làm ra thuỷ tinh, và những thứ khác...
Còn thuật chiêu hồn, ngọn cờ, cái phướn phất theo gió, bảng chỉ đường của đám đông
ngu xuẩn, và không ngớt chứng kiến những tác dụng vô hạn của cái kĩ xảo này; và
họ trám đầy sách vở, tuyên bố rằng bùa mê và linh hồn có thể hoạt động, nói
chuyện mà không cần miệng lưỡi, và có thể nói chuyện mà không cần những khí
quan hữu cơ—thiếu nó, không thể nào có tiếng nói—và có thể nhấc những vật cực nặng
và hô phong hoán vũ; và những kẻ đó có thể hoá thành mèo, sói và những cầm thú
khác, tuy quả là những kẻ khẳng định những điều đó là những người đầu tiên hoá thành
cầm thú. Vậy chắc là nếu thuật chiêu hồn này đã tồn tại, như được tin bởi những
trí óc nông cạn, thì chẳng còn gì trên trần gian là quan trọng cho lắm như giữa
việc hại và lợi với con người; nếu thực là có một kĩ xảo kiểu ấy về một uy lực
khuấy động sự thanh tĩnh của không trung và biến nó thành bóng tối, để tạo nên những
chớp sáng và gió với tiếng sấm kinh hồn và tia chớp xuyên màn đêm, và với bão
tố dữ dội phá đổ những toà nhà cao và làm bật rễ cây rừng; và bằng những cơn
bão này để lung lay quân đội, làm tan tác và đánh bại họ, và—quan trọng hơn cả
điều này—để tạo ra những cơn bão tàn phá và do đó, tước đoạt mùa màng của người
nông dân. Có phương pháp chiến tranh nào gây phương hại cho kẻ thù cũng như sức
mạnh tước đoạt những thu hoạch của y? Có trận thuỷ chiến nào sánh được với những
gì mà một kẻ khi khai chiến, y có thể ra lệnh cho gió và tạo ra cuồng phong làm
chìm bất cứ hạm đội nào? Chắc chắn, kẻ nào chỉ huy được những lực lượng cường
bạo như thế sẽ là chúa tể các quốc gia, và không có con người thông minh tài
trí nào có khả năng chống trả những lực lượng huỷ diệt của y. Những kho tàng
chôn giấu, những châu ngọc nằm dưới lòng đất, tất cả sẽ phơi bày với y. Mặc dù
bất khả xâm phạm, không có cái khoá hay thành trì nào hữu dụng để cứu được ai
đối với ý chí của một nhà chiêu hồn như thế. Y sẽ tự du hành trên không trung
từ Đông sang Tây, và qua mọi thái cực của vũ trụ. Nhưng tại sao tôi lại còn
phải bàn rộng thêm nửa về điều này? Có gì mà một nghệ nhân như thế không thể làm
được? Hầu như không có, trừ việc tránh khỏi cái chết.
Do đó, chúng ta đã giải thích một phần sự phá phách và công dụng của loại kĩ xảo như thế nếu nó có thật. Và nếu nó có thật, tại sao nó không duy trì với những kẻ rất mong muốn nó, mà lại không hề tôn kính một thần linh nào? Vì tôi biết có vô số kẻ, để thoả mãn thị hiếu của mình, họ có thể huỷ diệt Thượng Đế và toàn vũ trụ. Nếu kĩ xảo này chẳng bao giờ tồn tại, mặc dù quá cần thiết với họ, thì như thế nó chẳng hề tồn tại, và sẽ không tồn tại.
Không thể có thứ gì đơn độc tự thân là nguyên nhân của sự sáng tạo ra nó; và những sự vật nào vốn thuộc tự thân đều là vĩnh hằng.
[1] Lời Marius nói với những
công dân ở Sallust, Bellum Iugurthium.
[2] abbreviatori, danh
xưng này để chỉ các thư kí làm việc trong phòng hồ sơ của Vatican. Trong thời
gian Leonardo ở Rome, ông bị Vatican cản trở việc nghiên cứu về giải phẫu học.
Ở đây có lẽ nhắc tới sự ngăn cản của họ.
[3] Iunianus Iustinus, sử gia La-mã vào thế kỉ thứ 2, người biên tuyển bộ thông sử do Pompeius Trogus viết trong thời đại Augustus. Cuốn sách này rất thông dụng trong thời Trung cổ.
CHƯƠNG II
VŨ TRỤ
Trong thời đại của
Leonardo, vũ trụ được nhận thức như là tác phẩm của đấng sáng tạo toàn năng và
có mục đích. Bên trong một khối cầu bao la vạn tượng, bốn nguyên tố có những
vùng đồng tâm được ấn định. Mặt đất chiếm tại trung ương. Bao quanh nó là nước;
tiếp đến một tầng không khí; và rồi, bao vây toàn bộ, là lửa. Bốn nguyên tố này
không yên nghỉ trong cõi riêng của chúng và không ngừng dao động và lấn vào những
khu vực lân cận; và chính đặc tính của chúng cuốn hút chúng trở về nơi gốc—có
thể gọi đó là định luật hấp dẫn. Leonardo đã lớn lên với quan niệm này dựa trên
những truyền thống cổ đại và đã chấp nhận nó hoàn toàn; và vì ông đã tự học nên
đôi lúc khó phân biệt ra đâu là những ghi chú biểu hiện tư tưởng độc sáng của
ông hay đâu là những sao chép từ những sách tìm được trong suốt những cố gắng
liên túc của ông đến với giác ngộ.
Tuy
nhiên, khi lí giải hiện tượng, ông không tham khảo những tác nhân mang tính giả
thuyết xa lạ, mà bằng chính những hoạt động của tự nhiên. Mặc dù đồng ý với một
số lí thuyết ổn cố, ông bác bỏ những lí thuyết khác bằng phương pháp kinh
nghiệm và thực nghiệm nghiêm nhặt của ông.
Ông
khởi sự kiểm tra những tương tác của bốn năng lực tự nhiên: tức là, trọng lực
và cường lực, vận động và chấn động. Ông quan sát những năng lực này khi dòng tác
động bên trong bốn nguyên tố, trong nhiệt mặt trời, và trong lửa, trong gió,
trong sóng và dòng nước, trong hình thành vỏ quả đất, trong sinh trưởng của
thực vật, trong năng lượng cơ bắp của người và động vật.
Ông
xúc tiến việc thiết lập những quy luật điều hành sự giải phóng năng lực và
truyền lực. Tại sao không kiểm soát năng lực này và lợi dụng nó vào công việc
cơ giới.
Ông
đã thí nghiệm với lực bẩy, lực kéo, lực đẩy, và va chạm. Những phát minh đa
dạng là kết quả từ những nghiên cứu của ông. Tuy nhiên, điều ông nghĩ tới là
con người có thể lạm dụng đặc quyền của mình để gây nên sự huỷ diệt. Hơn nữa, Thiên
nhiên lẽ nào không nổi dậy phản kháng và gây ra tai hoạ hay sao? Phần đầu
chương này gồm việc mô tả về thế giới vật lí theo hình dung của Leonardo. Trong
phần 2, một số ghi chú của ông về năng lực và về cơ học lí thuyết được phối
hợp. Phần 3 đưa ra một vài trong nhiều ghi chú của ông bàn về cơ học ứng dụng: về
ma sát, về những dụng cụ cân, ròng rọc, bánh xe, đinh ốc, v.v... Những nỗ lực
của ông muốn kiến tạo một máy bay được mô tả trong Chương III.
I.
BỐN
LOẠI NGUYÊN TỐ
Anaxagora
Mọi
vật đều từ mọi vật, mọi vật được tạo từ mọi vật, mọi vật có thể chuyển thành
mọi vật khác; bởi vì cái tồn tại trong những nguyên tố được hợp thành bởi những
nguyên tố ấy.
Cấu hình những nguyên tố
Về
cấu hình những nguyên tố; đầu tiên, tôi phản đối những ai phủ định lối kiến
giải của Plato, họ cho rằng nếu những nguyên tố này thâm nhập nhau trong hình
thức mà Plato [trong Timaeus] đã quy cho,
thì một khoảng chân không hẳn được tạo nên giữa nguyên tố này và nguyên tố kia.
Tôi cho rằng điều này không đúng, vậy tôi chứng minh dưới đây, nhưng trước tiên
tôi muốn đề xuất một số kết luận. Không cần thiết cho rằng những nguyên tố thâm
nhập phải có kích thước tương xứng với mọi thành phần thâm nhập và bị thâm nhập.
Chúng ta thấy rằng thuỷ cầu rõ ràng có độ sâu khác nhau từ bề mặt tới đáy; và
nó không chỉ thâm nhập đất trong hình khối lập phương, mà còn trong hình bát
giác, như Plato đưa ra; thế nhưng, khi nó thâm nhập và đất có vô số góc cạnh
của đá và những lồi lõm khác nhau, thế nhưng lại không có khoảng chân không nào
phát sinh giữa đất và nước; cũng vậy, không khí bao vây thuỷ cầu cùng sơn cốc
vốn nhô trên phạm vi đó, và không có khoảng chân không nào còn lại giữa mặt đất
và không khí, vì vậy hễ ai nói rằng một khoảng chân không phát sinh ở đó, thì
nói một cách ngớ ngẩn..
Với Plato, tôi đáp rằng bề mặt những cấu hình nguyên tố theo ông, không thể nào tồn tại. Mọi nguyên tố uyển chuyển và lỏng thì cần thiết có bề mặt hình cầu. Điều này được chứng minh bằng thuỷ cầu. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đưa những quan niệm và những kết luận nhất định. Rằng vật thể càng cao thì càng xa khỏi trung tâm thế giới, và vật thấp hơn thì gần hơn với trung tâm. Nước không di chuyển tự thân trừ phi nó hạ xuống và nó hạ xuống khi lưu hành. Bốn khái niệm này, kết hợp theo từng cặp, dùng để chứng minh rằng nước không tự thân lưu hành và có bề mặt cách đều nhau so với trung tâm của thế giới. Chúng ta nói về đại khối và không nói về giọt hay tiểu khối hấp dẫn nhau như mạt thép.
Các
thể nguyên tố đều thống nhất và bên trong chúng không có trọng lực hoặc khinh
lực. Trọng lực và khinh lực được sản sinh từ hỗn hợp các nguyên tố.
[Với bản vẽ về bốn vòng tròn hướng tâm bao
quanh bốn nguyên tố và một quả cân đặt bên trên.]
Tại sao quả cân không giữ nguyên vị trí
của nó?
Nó không giữ nguyên vị trí bởi nó không có
vật đỡ.
Nó sẽ di chuyển tới đâu? Nó sẽ di chuyển tới
trung tâm. Tại sao không bằng những đường khác? Bởi trọng lượng không được nâng
đỡ sẽ rơi xuống bằng đường ngắn nhất tới điểm thấp nhất là trung tâm thế giới.
Và tại sao trọng lượng biết cách tìm ra đường ngắn như thế? Bởi nó không đi
giống như một vật vô cảm giác và không đi quanh những hướng khác nhau.
Nguyên
tố nước sẽ bị ngăn giữ trong những bờ sông đắp ụ và bờ biển. Vì thế, không khí
bao quanh sẽ phải vây kín và tạo chu vi một kết cấu thổ nhưỡng gia tăng và càng
phức tạp; và đại khối lượng đất này treo giữa nguyên tố nước và lửa sẽ bị cản
trở và bị tước đi nguồn cung cấp độ ẩm cần thiết. Vì thế, những dòng sông sẽ
cạn nước; đất tốt sẽ không còn nảy nở xum xuê; ruộng đồng không còn tô điểm
bằng đám lúa nhấp nhô; tất cả động vật, không tìm thấy cỏ tươi đề ăn, sẽ bị
diệt vong; thực phẩm sẽ thiếu đối với lũ sư tử và chó sói háu ăn cùng những thú
săn mồi khác; và con người sau nhiều di dời tuyệt vọng sẽ buộc phải bỏ rơi sinh
mạng mình, và nhân loại ngừng tồn tại. Theo cung cách này, mặt đất phì nhiêu và
hoa lợi sẽ bị khô cằn và vô sinh; nhưng nhờ nước chứa trong lòng đất, và nhờ
hoạt tính của thiên nhiên, nó sẽ duy trì trong một thời gian ngắn nữa theo quy
luật sinh trưởng, cho tới khi không khí lạnh và loãng biến mất. Và rồi trái đất
sẽ buộc phải chấm dứt với nguyên tố lửa và bề mặt của nó bị cháy thành than, và
việc này sẽ kết liễu mọi thiên nhiên trên mặt đất.
I. NƯỚC
Nước đối với
Leonardo là mối hấp dẫn lớn. Ông xem nước như là động lực của vũ trụ và cho rằng
có lẽ ông đã giải được những mầu nhiệm sáng tạo bằng việc nghiên cứu những quy
luật vận động của nó qua đất và không khí.
Những
bản vẽ và bản ghi nhớ rải rác trong khắp những thủ bản đề ngày tháng khác nhau
cho thấy rằng chủ đề này thu hút sự chú tâm của ông ít nhiều có tính liên tục.
Chúng ta có thể thấy ông đang đi dạo, bút kí trong tay, dọc bờ biển và đang
trầm tư trước những đợt thuỷ triều lên và xuống, gió gợn mặt nước, sóng trào,
cát xô dạt; hoặc có thể ông đang đứng bên bờ sông nhìn những dòng nước và xoáy
nước, đang xem xét những lớp phù sa hai bên bờ sông; hoặc đang nấn ná bên ao tù
nhìn vào những phản chiếu, ánh lấp lánh trên thảo mộc, và xem cá đùa ở dưới.
Ông sẽ ném một viên đá vào nước lặng và so sánh những vòng tròn mãi lan rộng
trên bề mặt với những sóng âm vang dội trong không trung. Lúc khác, có lẽ ông đang
leo lên một sơn cốc để truy tìm nguồn một con suối trong khi quan sát thác nước
và sự tán nghiền không ngừng của đá và sỏi. Những vỏ sò và những hoá thạch của
biển tồn tại trong nội địa ở độ cao với tầng đất, đá khác nhau đem ông tới nhận
thức về những dòng nước là những tác nhân chính trong việc hình thành bề mặt
quả đất, và ông đã báo trước khái niệm về sự tiến hoá từng bước. Là một kĩ sư,
ông khởi sự những đồ án về kênh đào, thuỷ lợi, hệ thống thoát nước và đưa sức
nước vào những việc bơm, cưa, và xay nghiền. Là một kiến trúc sư, ông thiết kế
các vòi nước phun và vườn cảnh. Là nhà nghệ thuật, ông thích đem vào trong bối
cảnh những dòng suối quanh co qua những hình thành nham thạch, vì ông cho rằng
người hoạ sĩ có thể miêu tả vừa hình tượng người vừa cảnh tự nhiên vô sinh, và
con người phải được hình dung như là bộ phận hình thành của cuộc sáng tạo. Sự
mô tả đầy tưởng tượng về trận Hồng thuỷ vẽ nên bức tranh về sức huỷ diệt của
nguyên tố này. Ông cũng viết một cuốn sách luận về Tính chất của nước, và nó nằm trong phòng của ông khi Hồng y xứ
Aragon tới thăm ông tại Amboise năm 1517. Một thủ cảo nhan đề “Luận về tự
nhiên, trọng lượng và vận động của nước” hiện nay được bảo tồn dưới danh mục
Leicester Codex (trong Sưu tập Bill and Melinda Gates).
Nước
là kẻ thúc đẩy của tự nhiên.
Nước, vốn là khí chất sinh động của bộ
máy địa cầu, tự thân lưu động bằng nhiệt lượng tự nhiên.
Trước
tiên hãy viết về tất cả nước, trong từng chuyển động, rồi mô tả tất cả tầng đáy
của nó và những chất liệu khác nhau của chúng, luôn tham chiếu tới những mệnh
đề liên quan tới những dòng nước được nhắc tới; và hãy sắp xếp tốt trật tự, nếu
không, công việc này sẽ bị hỗn loạn. Hãy miêu tả mọi hình dạng mà nước khoác
lấy từ hình sóng cực lớn tới hình sóng cực nhỏ, và những nguyên nhân của chúng.
Những phân chia của cuốn sách
Cuốn 1 về tính chất của nước
Cuốn 2 về biển
Cuốn 3 về sông ngầm
Cuốn 4 về sông
Cuốn 5 về tính chất của nước sâu
Cuốn 6 về những chướng ngại vật
Cuốn 7 về sỏi
Cuốn 8 về mặt nước
Cuốn 9 về những vật thể vận động trên mặt
nước
Cuốn 10 về việc chỉnh đốn sông
Cuốn 11 về đường dẫn nước
Cuốn 12 về kênh đào
Cuốn 13 về máy thuỷ lực
Cuốn 14 về việc đưa nước lên
Cuốn 15 về những thứ bị nước tiêu huỷ
Từ trình tự cuốn sách về nước
Thuỷ
triều lên và xuống có được gây ra do mặt trăng hay mặt trời hay không, hoặc do
sự phá tan của bộ máy trái đất. Thuỷ triều lên xuống giữa các quốc gia khác với
nhau ra sao.
Cuối cùng núi bị san bằng bởi nước ra sao,
nhìn chúng gội rửa địa cầu che phủ và để lộ nham thạch, rồi bắt đầu vỡ vụn và nguôi
dịu vừa bằng nhiệt lượng vừa bằng băng giá liên tục biến đổi thành đất trồng
trọt. Nước xói mòn nền tảng và núi non sụt lở dần dần sụp đổ xuống sông...
chính vì nguyên nhân sụp đổ này, những dòng nước dâng lên thành trận lụt và
hình thành những biển lớn.
Trong bão tố mãnh liệt, những đợt sóng
quăng xuống mọi vật thể nhẹ ra sao và cuốn hút thật nhiều đất vào lòng biển,
làm cho nước biển đục khắp một phạm vi lớn.
Bằng cách nào mà những khối đá rời ở dưới
chân thung lũng rộng và dốc, khi chúng bị những đợt sóng nhồi đã trở nên những
viên tròn nhẵn, và nhiều vật thể cũng vậy khi bị sóng xô hay hút vào lòng biển.
Bằng cách nào mà sóng yên và trải rộng khắp
những vùng nước lặng sóng trên đại dương khi mà những luồng gió phản hướng gặp
nhau.
Trình tự của cuốn sách đầu tiên về nước
Trước
tiên định nghĩa trọng lượng và độ sâu nghĩa là gì; và một nguyên tố này được
định vị bên trong một nguyên tố khác ra sao. Tiếp đến, trọng lượng đặc và trọng
lượng lỏng nghĩa là gì; nhưng trước tiên, trọng lực và khinh lực tự thân chúng
là gì. Sau đó miêu tả tại sao nước chuyển động, và tại sao chuyển động của nó
ngừng lại; rồi mô tả tại sao dòng nước trở nên nhanh hoặc chậm hơn.
Trong
bốn nguyên tố thì nước đứng hàng thứ hai về trọng lượng và về tính lưu động. Nó
không bao giờ yên cho đến khi hoà vào biển, nơi đó, khi không bị gió quấy
nhiễu, tự nó tạo lập và duy trì bề mặt cách đều với trung tâm thế giới.
Nước sẵn sàng bốc lên bởi khí nóng trong
màn hơi nước mỏng qua không trung. Khí lạnh khiến nó đóng băng. Tức là, khí
nóng khiến nước vận động, khí lạnh khiến nó đóng băng, tính bất động làm hư thối
nó.
Nước là sự khuếch trương và khí chất của
mọi cơ thể cần thiết cho sự sống. Thiếu nó, không gì bảo trì được hình thể.
Bằng sự lưu nhập, nước kết hợp và tăng cường những cơ thể.
Nước nhận vào mọi mùi, màu, và vị mà bản
thân nó không có.
Nước,
bằng trọng lượng của nó, là nguyên tố thứ hai bao quanh địa cầu, và một bộ phận
của nó nằm ngoài thuỷ cầu sẽ nhanh chóng tìm cách quay về nơi gốc. Và nó càng
dâng cao trên vị trí nguyên tố của nó thì sẽ hạ xuống nơi gốc với tốc độ càng
nhanh. Những phẩm chất của nó là ẩm và lạnh. Chính vì tính chất của nó là luôn
tìm những nơi nằm thấp khi không bị kiềm chế. Nó sẵn sàng bốc lên cao bằng hơi
nước và sương, và biến thành mây, lại thành mưa rơi xuống bằng những thành phần
li ti của mây tập hợp và tạo thành những giọt. Ở những cao độ khác nhau, nó
mang nhiều hình dạng khác nhau, đó là nước hoặc tuyết hoặc mưa đá. Nó không
ngừng bị nhồi do không khí chuyển động, và nó tự gắn liền với vật thể nào đã dễ
bị khí lạnh tác động nhất, và nó mang mùi và vị dễ chịu.
Không
thể mô tả tiến trình vận động của nước trừ phi người ta trước tiên định nghĩa
trọng lực là gì và nó được sản sinh và tiêu tan như thế nào...
Nếu toàn bộ biển nằm lên và tự nó chịu sức
nặng lên đáy biển, thành phần của biển nằm trên thành phần của đáy biển; và khi
nước có trọng lượng từ nguyên tố của nó sẽ đè nén và ép lên những vật thể nằm
dưới đáy biển. Chúng ta thấy ngược lại; vì khi rong biển và cỏ mọc dưới những
độ sâu đều không bị cong oằn hoặc bị nghiền nát dưới đáy này mà chúng rẽ qua nước
một cách mau mắn như thể chúng đang mọc trong không khí.
Vì thế, chúng ta đi tới kết luận này: tất cả những nguyên tố, dù chúng không có trọng lượng trong phạm vi của chúng, nhưng có trọng lượng ở ngoài phạm vi của chúng, nghĩa là, khi chuyển động hướng lên bầu trời, mà không phải hướng xuống trung tâm địa cầu. Bởi vì nếu một nguyên tố di chuyển tới trung tâm này, nó gặp một nguyên tố khác nặng hơn chính nó, mà thành phần mỏng nhất và nhẹ nhất đang tiếp xúc một nguyên tố nhẹ hơn chính nó, và thành phần nặng hơn được đặt gần nguyên tố cũng nặng hơn chính nó.
Năng lực đó tự cho thấy lớn hơn đối tượng bị đè nén ở mức đề kháng nhỏ hơn. Kết luận này là phổ quát và chúng ta có thể ứng dụng đối với việc thuỷ triều lên xuống để chứng minh rằng mặt trời hay mặt trăng có sức đè nén mạnh hơn lên đối tượng của nó, tức là, trên thuỷ lưu, khi những dòng này độ sâu kém hơn. Do đó, những đầm nước cạn phải phản ứng mạnh với nguyên nhân của thuỷ triều hơn là những nơi cực kì sâu của đại dương.
Nước
làm suy mòn những đỉnh núi cao. Nước vừa làm trơ trụi vừa di chuyển sơn thạch.
Nước còn di đời những hải ngạn cổ khi nó nâng nền đáy biển lên bằng việc vun
đất nó mang theo. Nước làm vỡ lở và phá huỷ những bờ cao. Ở đây, không sự ổn
định nào có thể thấy được mà tính chất của nó lại không lập tức dẫn tới số
không. Nước tìm kiếm qua những dòng sông ở mọi thung lũng dốc từ đó nó cuốn đi
hoặc tích tụ thổ nhưỡng mới. Do đó, có thể nói rằng có nhiều sông ngòi qua đó
tất cả nguyên tố nước này đã đi qua và đã nhiều lần trả biển về cho biển. Và không
có bộ phận nào của mặt đất là quá cao vì biển đã ở ngay nền tảng của nó, và
không có đáy biển nào là quá thấp vì những núi cao nhất đều có móng ở đó. Vì
thế, nước khi thì đột ngột khi thì nặng nề, khi chua khi đắng, khi ngọt khi dày
hoặc mỏng, có khi nó mang lại thiệt hại hoặc bệnh dịch, và rồi đem tới sức
khoẻ, và cũng cả chất độc. Vì vậy, ta có thể nói rằng nước biến đổi thành nhiều
tính chất tuỳ theo những địa phương khác nhau mà nó kinh qua. Như tấm gương
biến hoá theo màu sắc vật thể, cũng thế nước biến hoá theo tính chất của nơi nó
đi qua: ban sức khoẻ, gây tai hại, nhuận tràng, cầm máu, lưu huỳnh, muối, huyết
tinh, ưu uất, ác liệt, giận dữ, đỏ, vàng, lục, đen, lam, trơn trượt, dày, mỏng.
Khi thì mang tới hoả hoạn rồi dập tắt; khi ấm khi lạnh; khi mang đi xa rồi dìm
xuống, khi đào trũng khi vun lên, khi giật xuống khi củng cố, khi đổ đầy rồi
làm cạn, khi dâng cao và rồi đào sâu thêm, khi tăng tốc lực và rồi nằm im, có
khi là nguyên nhân sống khi là nguyên nhân chết, khi sản sinh khi tước đoạt,
khi nuôi dưỡng và có khi ngược lại, có khi mặn có khi nhạt, và có khi với những
trận hồng thuỷ nhận chìm những thung lũng rộng lớn. Với thời gian, mọi thứ biến
đổi. Có khi nó hướng lên phía bắc làm xói lở chân những bờ sông; khi thì lật
nhào vào bờ sông đối diện phía nam; có khi nó chuyển hướng tới địa tâm để chiếm
ngự ở dưới đáy vốn nâng đỡ nó; khi thì nó vọt lên sủi bọt và sùng sục hướng lên
trời. Có khi nó hợp dòng cuộn thành vòng tròn, và có khi nó trải ra phía tây và
cướp đoạt công lao trồng trọt của người nông dân, và rồi nó bồi đất lên bờ phía
đông. Và như vậy, đôi lúc nó đào sâu và đôi lúc nó đổ đầy, cũng như khi thì lấy
đi và khi thì bồi thêm. Như vậy, không ngừng nghỉ, nó mãi di dời và tiêu hao
bến bờ của nó. Đôi khi nó cuồn cuộn và gầm lên cuồng nộ, đôi khi nó trong trẻo
và thanh thản với dòng chảy hiền lành vui chơi giữa những đồng cỏ xanh tươi. Có
khi nó từ trời rơi xuống bằng mưa hoặc tuyết hoặc mưa đá, có khi tạo thành
những đám mây lớn đầy sương mù li ti. Có khi nó tự di chuyển, có khi bằng lực
của những thứ khác; có khi nó nâng đỡ sự vật sinh ra nhờ độ ẩm có sinh khí, có
khi hôi thối hoặc đầy mùi thơm tho. Không có nước, không gì tồn tại được. Có
khi nó tắm trong khí nóng, hoà vào hơi nước để hỗn hợp với không khí, và được
hút lên bởi nhiệt, nó lên cao tới vùng lạnh rồi nén lại với nhau do tính chất
tương phản của nó, và những hạt li ti kết lại với nhau. Giống như bàn tay dưới
nước bóp một miếng bọt bể đẫm nước khiến cho nước trong đó vuột qua những kẽ hở
và xua phần còn lại ra khỏi vị trí bằng đợt sóng của nó, cũng thế với khí lạnh bị
nén do độ nhiệt ẩm. Vì khi giảm thiểu sang hình thức cô đặc thì không khí bị
nén trong nó thoát ra bằng lực thì bộ phận yếu nhất rồi xì ra như thể nó phát
ra từ những ống bễ bị nén bởi một trọng lực không thể chịu nổi. Và như vậy,
những đám mây nhẹ hơn trong những vị trí khác nhau hình thành những chướng ngại
trong dòng theo luồng bị cuốn trôi.
Sóng
Sóng
là sự thoái hồi của va đập và nó sẽ lớn hơn hoặc kém hơn về tỉ lệ tuỳ vào sức va
đập lớn hơn hoặc kém hơn. Một đợt sóng không bao giờ chỉ một mình mà trộn lẫn với
nhiều đợt sóng khác không đều lên trên bờ là nơi sóng sản sinh...
Nếu bạn ném một viên đá vào trong cái ao với những bờ lồi lõm khác nhau, tất cả những đợt sóng sẽ đánh vào những bờ này đều thoái hồi hướng về điểm nơi viên đá va vào; và khi gặp những đợt sóng khác chúng không bao giờ ngăn cản dòng của nhau... một đợt sóng sinh ra trong cái ao nhỏ sẽ đi và nhiều lần trở lại vị trí nó phát sinh... chỉ có ở ngoài khơi, sóng tiến tới mà không cuộn lại. Trong những ao nhỏ thì cùng một đả kích sẽ sản sinh ra nhiều chuyển động tiến và thoái. Đợt sóng lớn hơn được bao trùm vô kể những đợt sóng khác vận động theo những hướng khác nhau; và những đợt sóng này sâu hay nông tuỳ theo lực phát sinh ra chúng... nhiều đợt sóng xoay theo những hướng khác nhau có thể được tạo nên giữa bề mặt và đáy tầng của cùng khối lượng nước đồng thời... mọi ấn tượng gây nên bởi những vật thể đập lên mặt nước có thể xâm nhập lẫn nhau mà không bị tiêu tan. Một đợt sóng không bao giờ xâm nhập vào một đợt sóng khác; mà chúng chỉ cuộn lại từ chỗ mà chúng va chạm.
Khi đợt sóng cuốn tới bờ biển bởi lực gió, nó hình thành một cái mô để đặt phần trên của nó vào đáy và xoay lại cho tới khi nó vươn tới vị trí nơi nó bị nhồi trở lại bởi một đợt sóng kế tiếp đến từ bên dưới rồi xoay và lật nó lại, và như thế lật đổ cái mô và đánh lưng lần nữa lên bờ biển như đã nói trên, và cứ thế tiếp tục nhiều lần, và giờ đây lăn lên bờ bằng chuyển động phần trên còn phần dưới thì nó rút ra khỏi bờ... Nếu nước biển trở về với đáy biển sau việc va đập lên bờ, vậy bằng cách nào nó mang theo được các con sò, các loài nhuyễn thể, ốc, và những thứ tương tự được vớt lên từ đáy biển rồi để chúng lại trên bờ? Chuyển động của những thứ này hướng tới bờ biển bắt đầu khi sự va đập của đợt sóng đang trút xuống gặp đợt sóng phản xạ, bởi vì những vật thể dâng lên từ đáy biển thường nhảy vọt vào trong đợt sóng theo hướng tới bờ, và những thể rắn được đưa lên trong cái mô rồi kéo chúng trở xuống biển; và cứ thế chuỗi này tiếp tục cho tới khi bão bắt đầu yếu đi, và chúng được để lại từng bước một mỗi khi những đợt sóng lớn hơn vươn tới và kí gửi những chiến lợi phẩm mà chúng mang theo, và những đợt sóng sau không thể truy tới cùng dấu vết đó. Vì thế lưu lại những vật thể do biển cả ném lên.
Một
đợt sóng biển luôn vỡ tan ngay trước chân sóng, và thành phần đó của ngọn sóng sẽ
thấp hơn so với trước đó là cao nhất.
Chuyển
động trôn ốc hoặc quay tròn của mọi thể lỏng thì nhanh hơn về tỉ lệ khi nó gần
hơn tới trung tâm xoáy của nó. Đây là một thực kiện đáng chú ý, bởi vì vận động
quay tròn thì chậm hơn nhiều khi nó tới gần với trung tâm của vật thể đang xoay
quanh...
[Với bức vẽ cho thấy nước giống hình dạng làn
tóc.]
Hãy quan sát chuyển động của mặt nước, nó
tương tự như thế nào với chuyển động của tóc gồm hai vận động—một đàng phụ
thuộc vào trọng lượng của tóc, một đàng phụ thuộc vào hướng theo lôn tóc; như
vậy, nước hình thành những xoáy tròn, một phần thuận theo động lực của dòng chủ
lưu, và phần khác thuận theo chuyển động ngẫu nhiên và hồi lưu.
Trung
tâm của một thuỷ cầu cá biệt hình thành những hạt sương li ti, thường thấy
trong dạng cực tròn rơi xuống trên lá cây; hạt sương nhẹ tới mức nó không bị
dẹp ra trên địa điểm nó đậu, và nó gần như được không khí bao quanh hỗ trợ, vì
thế bản thân nó không dùng bất cứ áp lực nào hoặc hình thành bất cứ cơ sở nào;
và bởi điều này, bề mặt của nó hướng tới trung tâm với lực bằng nhau từ mọi
phía; và như thế mỗi phần tìm gặp nhau với dẫn lực bằng nhau và chúng trở nên
hấp dẫn nhau, với kết quả là mỗi giọt cần thiết trở thành hình cầu hoàn hảo,
hình thành trung tâm của nó ở giữa, cự li đều nhau từ mỗi điểm của bề mặt và
chúng hút nhau như nam châm, và khi nó bị kéo cùng mức độ bởi mỗi phần trọng
lực, nó luôn đặt bản thân nó vào trung điểm giữa những phần đối ngịch với trọng
lượng bằng nhau. Nhưng khi trọng lượng của hạt nước này tăng lên, trung tâm của
bề mặt hình cầu lập tức rời bỏ thành phần nước đặc thù này, và di chuyển tới
trung tâm chung của hình cầu; và trọng lượng giọt nước này càng tăng, thì trung
tâm của đường cong tiếp cận hướng tới trung tâm của thế giới.
Nếu
một giọt nước rơi vào biển khi biển lặng, nó nhất thiết phải tuân theo toàn bộ mặt
biển là dâng cao một cách tinh vi, bởi vì nước không thể bị nén vào như không
khí.
NƯỚC VÀ ĐẤT
Bề
mặt của thuỷ cầu không ra khỏi chu vi của nó quanh trung tâm của thế giới vốn
bao vây ở cự li đều. Và nó sẽ không di chuyển khỏi sự cách đều này nếu địa cầu,
vốn chống đỡ và là bình chứa nước, không dâng lên ở trên nó, và xa khỏi trung
tâm thế giới.
Địa cầu được di chuyển khỏi vị trí bằng
trọng lượng của một con chim nhỏ đậu xuống nó.
Bề mặt của thuỷ cầu được di chuyển bằng một giọt nước nhỏ rơi vào nó.
Nước thiết yếu phải có nhiều hơn đất, và thành phần của biển nhìn thấy được không cho thấy điều này; vì thế ắt phải có nhiều nước nằm trong lòng đất, ngoài ra, còn có cái bốc lên khí thấp và cái chảy qua sông, qua suối.
Trong
mọi nguyên nhân huỷ diệt tài sản của con người, đối với tôi, những dòng sông
giữ vị trí quan trọng nhất vì những tràn ngập quá độ và cuồng bạo. Nếu có ai
muốn dùng lửa để chống cự cơn giận dữ của những trận hồng thuỷ, tôi cho rằng, y
hẳn là thiếu sức phán đoán, vì lửa sẽ suy yếu và tắt khi nhiên liệu cạn, nhưng
chống cự lại sự tràn ngập không thể vãn hồi
gây ra do những dòng sông dâng lên và cao mạn thì không còn giải pháp
tiên liệu nào của con người có thể hữu hiệu; vì một loạt những đợt sóng dữ và cuồn
cuộn làm sạt lở những bờ cao, trở nên đục ngầu do đất từ ruộng đồng đã cày xới,
phá huỷ nhà cửa và bật rễ những cây cao, nó mang theo những thứ này cùng với
nạn nhân của nó ra biển vốn là nơi ẩn trốn của nó, mang theo con người, cây
cối, động vật, nhà cửa và đất đai, quét sạch mọi đê điều và mọi loại rào chắn,
và mang theo những vật nhẹ, tàn phá và huỷ diệt những vật nặng, gây ra sự lở
đất lớn từ những rãnh nứt nhỏ, lũ lụt ngập những thung lũng thấp, và ồ ạt ập
đến với khối lượng nước phá huỷ và không thể ngăn chặn. Kẻ nào cận kề thì chỉ
cần có cánh là bay lên!
Ôi, bao nhiêu thành phố, bao nhiêu đất
đai, lầu đài, dinh thự, và nhà cửa bị tiêu tán!
Bao nhiêu công lao của nông dân bất hạnh trở nên vô ích và vô lợi! Bao nhiêu gia đình tan nát và chìm ngập! Tôi biết nói gì về những đàn gia súc chết đắm và mất tích! Và thường thường từ những đáy biển cổ đại lởm chởm đá phun ra và quét đi ruộng đồng đã trồng trọt...
(a)
Hồng
thuỷ và vỏ sò
Bởi vì sự vật cổ xưa hơn văn tự, nên không lấy làm lạ nếu trong thời đại chúng ta không có ghi chép nào tồn tại về những vùng biển này đã bao bọc nhiều xứ sở như thế nào; vả lại, nếu loại ghi chép như thế từng tồn tại, thì chiến tranh, hoả hoạn, hồng thuỷ, những thay đổi về ngôn ngữ và pháp luật, đã tiêu huỷ mọi vết tích của quá khứ. Nhưng chúng ta lại có đủ chứng từ về sự vật đã sản sinh trong nước mặn và tìm thấy lại trong những núi cao, xa khỏi những vùng biển ngày nay.
Trong tác phẩm này của bạn, đầu tiên bạn phải chứng minh rằng những vỏ sò ở độ cao một ngàn thước Ý (braccia) đã không được mang lên đó bởi cơn Hồng thuỷ, bởi chúng được thấy ở một mức độ và cùng mức độ, và nhiều quả núi được thấy lên cao trên mức độ đó một cách đáng kể; và muốn điều tra rằng trận Hồng thuỷ là do mưa gây ra hay do biển dâng lên; và sau đó bạn phải cho thấy bằng cách nào, không phải do mưa khiến sông dâng lên, cũng không phải do sự ngập lụt của biến khiến cho vỏ sò, là những vật nặng, được biển cuốn lên núi hoặc do sông mang lên đó ngược với những dòng chảy của chúng.
Giờ
đây bạn phải chứng minh rằng vỏ sò không thể phá sinh nếu không ở trong nước
mặn, mà hầu như tất cả thuộc loại đó; vỏ sò ở Lombardy đều ở bốn mức độ, và như
vậy nó ở mọi nơi, được làm ra vào những thời đại khác nhau. Và chúng tất cả
phát sinh trong những thung lũng mở hướng ra biển.
Vỏ sò và nguyên nhân hình dạng của chúng
Sinh
vật trú bên trong vỏ sò tạo căn nhà của nó bằng những khớp, đường nối và mái
che cùng những bộ phận khác nhau, giống như con người trong ngôi nhà của mình;
và sinh vật này mở rộng căn nhà và lợp mái dần dần khi thân thể tăng trưởng vì
nó gắn với những cạnh của vỏ. Do đó, độ sáng và độ nhẵn của những con sò này ở bên
trong hơi bị mòn ở điểm chúng gắn với sinh vật trú trong đó, và khoảng hốc thì
nhám, để tiếp nhận việc những cơ bắp đan chặt chẽ với nhau là phương tiện nhờ
đó sinh vật tự thu mình ở trong khi nó muốn đóng căn nhà lại. Còn nếu bạn muốn
nói rằng vỏ sò được thiên nhiên sản sinh nơi những quả núi này nhờ chịu ảnh
hưởng của tinh tú, vậy bạn sẽ phải cho thấy với cách nào mà ảnh hưởng này sản
sinh ra ở cùng một địa điểm những vỏ sò có kích thước và thời đại khác nhau, và
có nhiều loại?
Sỏi
Và
bạn sẽ giải thích ra sao với tôi sự kiện đá sỏi tất cả đều cùng tập trung và nằm
nhiều lớp ở những độ cao khác nhau trên núi cao? Vì đây đó có thể thấy sỏi từ những bộ phận
khác nhau cho tới cùng địa điểm bên những dòng sông chảy theo dòng; và loại sỏi
này không gì khác ngoài là những mảnh đá vốn đã mất đi góc nhọn khi lăn lóc suốt
một thời gian dài, và từ những cơn bão và thác nước khác nhau mà chúng đã kinh
qua trong hành trình của những dòng thuỷ lưu đã đem chúng tới địa điểm này.
Nếu Hồng thuỷ đã đem vỏ sò có cự li khoảng ba và bốn trăm dặm từ biển vào, hẳn là đã mang theo hỗn tạp với những vật thể tự nhiên khác và chồng chất tất cả lên nhau; nhưng ngay cả ở cách xa biển như thế, chúng ta thấy những con trai và cả loài giáp xác cùng cá mực và mọi loài sò khác tập hợp lại, tất cả đều đã chết; và những vỏ sò đơn độc tìm thấy đã lìa khỏi nhau như chúng ta thấy chúng hàng ngày trên bãi biển.
Và chúng ta phát hiện những con trai tập
trung thuộc nhiều chi họ, trong số đó, có thể thấy những vỏ vẫn còn dính khớp, biểu
thị rằng chúng bị biển ở lại đó và chúng vẫn còn sống khi eo Gibraltar đã bị
cắt qua. Trong vùng núi Parma và Piacenza, vô số vỏ sò và san hô với các lỗ có
thể thấy vẫn còn dính vào nham thạch.
Dưới lòng đất và dưới những tầng khai quật
sâu từ những mỏ đá là những xà gỗ được phát hiện đã hoá thành than. Chúng được
phát hiện trong thời của tôi trong những cuộc đào xới ở Castel Fiorentino. Và
những xà gỗ này bị chôn vùi trong những địa điểm sâu trước khi dòng Arno lắng
cát trong biển và rồi bao phủ bình nguyên rồi nâng lên tới độ cao như thế, và
trước khi bình nguyên Cassentino hạ thấp xuống rất nhiều do sự di dời của mặt
đất và dòng Arno không ngừng cuốn trôi đi từ đó...
Đá đỏ của núi Verona được phát hiện thấy toàn
bộ pha trộn với vỏ sò đã hoá thành loại đá này; miệng của một số vỏ sò đã bị xi-măng
bịt kín vốn là chất liệu của đá; và ở một số bộ phận chúng vẫn giữ tách biệt
với khối lượng đá mà chúng bao bọc; bởi vì lớp bọc ngoài của vỏ sò đã xen vào
và ngăn trở chúng kết hợp; còn ở những địa điểm khác, loại xi-măng này đã hoá
thạch lớp bọc ngoài.
Và nếu bạn có cho rằng những vỏ sò này đã
được tạo ra và vẫn còn không ngừng được tạo ra ở những nơi như thế do tính chất
địa phương ảnh hưởng và qua thần lực của các tầng trời tại các địa điểm này,
lối kiến giải đó không thể nào tồn tại trong những bộ óc nào có năng lực lí
tính, bởi vì qua bao năm tăng trưởng được đếm bằng những lớp bọc bên ngoài vỏ
sò; và những lớp bọc lớn và nhỏ có thể thấy và chúng hẳn là không thể tăng
trưởng mà thiếu thức ăn và không thể nào được nuôi dưỡng mà thiếu vận động, và
ở đây, hẳn là chúng không thể vận động.
Và
nếu bạn nói rằng chính Hồng thuỷ đã mang những vỏ sò này xa khỏi biển cả hàng
trăm dặm, điều này không thể xảy ra vì Hồng thuỷ gây ra bằng mưa; bởi vì mưa dĩ
nhiên buộc những dòng sông chảy ra biển và mang theo những vật thể, và chúng cũng
không đưa lên núi những vật chết từ bờ biển.
Và nếu bạn nói rằng Hồng thuỷ dâng nước
lên trên núi, vận động của nước biển theo hành trình của nó ngược dòng với sông
hẳn là chảy rất chậm tới nỗi không thể mang theo, hoặc trôi nổi trên đó những
vật thể nặng hơn bản thân nó; và thậm chí nếu có nâng đỡ chúng, thì sau đó khi
Hồng thuỷ rút xuống sẽ để lại chúng rải rác khăp nơi khác nhau. Chúng ta phải
giải thích thế nào đây với đám san hô thấy hàng ngày về hướng Monferrato ở
Lombardy với những lỗ sâu ăn trên chúng, và dính chặt lên những tảng đá do
những dòng sông để lại? Những tảng đá này bao phủ toàn bộ những giống và họ
hàng của loài trai, như ta biết chúng không di động, mà luôn bám cố định bằng một
trong những van của chúng vào đá, và mặt khác, chúng há ra nuôi những vi sinh
vật bơi trong nước mong tìm thấy lương thảo, trở thành lương thực cho những
loại sò này.
Ở đây, một nghi vấn phát sinh: trận Hồng
thuỷ xảy ra trong thời Noah có mang tầm mức toàn thế giới hay không. Và dường
như là không, vì những lí do sẽ nêu ra đây: Kinh Thánh nói rằng trận Hồng thuỷ
liên tục 40 đêm ngày và mưa lớn khắp thế giới, và trận mưa này dâng cao mười
cubit trên cả quả núi cao nhất thế giới. Tuy nhiên, nếu đúng như vậy thì trận
mưa có tính toàn thế giới này hẳn là hình thành một lớp bọc quanh hình thể địa cầu.
Và bề mặt hình cầu này trong mọi thành phần cách đều trung tâm của khối cầu; và
các dòng nước của khối cầu tự tìm thấy điều kiện như đã nói trên thì không thể
nào cho nước trên bề mặt di chuyển được; bởi vì nước không di chuyển tự ý trừ
phi chảy dốc xuống. Vậy làm sao mà lượng nước lớn của trận hồng thuỷ rút lui
được, nếu có chứng minh rằng nó không có năng lực vận động? Và nếu nó rút lui
được, nó đi bằng cách nào trừ phi đi lên trên? Vậy ở đây, những lí do tự nhiên
không lí giải được với chúng ta; do đó, để giải quyết nghi vấn này chúng ta
phải cần tới hoặc là cầu cứu tới một phép lạ, hoặc cách khác, nói rằng nhiệt
mặt trời đã làm bốc hơi trận nước này.
(b)
Sông
ngòi và địa tầng
Về
những tỉ lệ khác nhau của tốc độ dòng chảy từ mặt nước xuống đáy.
Về những độ nghiêng cắt ngang giữa mặt
nước và đáy.
Về những dòng chảy khác nhau trên mặt
nước.
Về những dòng chảy khác nhau trên mặt lòng
sông.
Về những độ sâu khác nhau của sông.
Về những dạng khác nhau của núi bao phủ
bởi nước.
Về những dạng khác nhau của núi để lộ ra bởi
nước.
Nơi nước chảy xiết dưới đáy mà không ở bên
trên.
Nơi nước chảy chậm dưới đáy và chảy xiết ở
bên trên.
Nơi nước chảy chậm ở dưới và bên trên và
chảy xiết ở giữa.
Nơi nước trong sông tự khoáng trương và
nơi nó thu rút. Nơi nó uốn khúc và nơi nó tự duỗi thẳng.
Nơi nó lưu nhập đều trong những nơi trong
cả mặt sông và nơi không đều. Nơi nó thấp ở giữa và cao ở hai bên.
Nơi nó cao ở giữa và thấp ở hai bên.
Nơi thuỷ lưu chảy thẳng ở giữa dòng. Nơi thuỷ
lưu xoáy, tự phân ra cảc phía khác nhau.
Về những độ nghiêng khác nhau trong những
dòng chảy dốc của nước.
Thuỷ lưu là gì?
Thuỷ lưu là sự hợp tụ của những phản xạ dội lại từ bờ sông hướng về trung tâm của nó, trong đó hợp tụ của hai dòng nước dội lại từ hai bờ sông đối diện gặp nhau; và những dòng nước này khi chúng gặp nhau sản sinh ra những đợt sóng lớn nhất của sông, và khi những đợt sóng này rơi trở vào dòng nước thì chúng xâm nhập và đánh xuống lòng sông như thể chúng là chất thể nặng hơn phần còn lại của nước, rồi cọ sát xuống đáy, xới lên, làm tiêu hao, rồi mang theo và chuyển những vật liệu mà chúng đã đánh bật ra. Vì thế, độ nước sâu nhất của một dòng sông thì luôn ở bên dưới dòng thuỷ lưu lớn nhất.
Tôi nhận ra rằng bề mặt địa cầu từ cổ xưa được hoàn toàn đổ đầy và bao phủ lên bằng những tầng bình nguyên nước mặn, núi là xương cốt của địa cầu với nền móng rộng, đã xâm nhập, vượt trội lên không trung, rồi phủ lên và bọc bằng lớp đất rất cao. Tiếp theo, những cơn mưa không ngớt đã khiến cho những dòng sông càng dâng nước lên và bởi việc trôi chảy luôn tái diễn đã lột trần bộ phận những đỉnh cao ngất ngưởng của những quả núi này, vì thế nham thạch tự tìm cách phô bày ra ngoài trời, và đất lìa khỏi những địa điểm này. Và đất từ những sườn và những đỉnh núi cao cũng đã hạ xuống chân núi, và nâng đáy biển vốn bao quanh những chân núi này, và làm cho bình nguyên lộ xuất, và ở một số bộ phận đã đẩy biển ra rất xa.
Trong
mỗi hốc lõm trên đỉnh núi chúng ta luôn tìm thấy những phân đoạn địa tầng trong
nham thạch.
Trước kia, đại bộ phận thung lũng bị các hồ bao phủ như thế nào, bởi vì thổ nhưỡng của chúng luôn hình thành những bờ sông, và bởi biển, rồi sau đó, qua tác dụng kiên trì của những dòng sông... đã cắt ngang qua núi; và những dòng sông trong dòng chảy lãng đãng đã cuốn trôi những bình nguyên cao bị núi bao vây; và những đường cắt ngang núi hiển thị bằng địa tầng trong nham thạch tương ứng với những vệt cắt tạo ra bởi những dòng chảy của sông đã nói ở trên.
Một
dòng sông chảy từ núi đã để lại khối lượng lớn những cự thạch dưới đáy sông, và
những cư thạch này vẫn còn bảo lưu một số góc và cạnh; và khi nó tiếp tục dòng
chảy thì nó mang theo những khối đá nhỏ hơn với những cạnh và góc bị mòn, và vì
thế những khối đá lớn làm thành những khối nhỏ hơn; và cứ thế đầu tiên nó để
lại sỏi thô nhám và rồi láng mịn, và như vậy tiếp tục dòng nước đục với cát và
sỏi ra tới biển.
Cát lắng đọng lên bờ biển là do sự vỗ lại của sống biển, cho đến khi cát trở nên thanh mịn gần như nước. Và cát sẽ không ở lại trên bờ biển mà về lại với những đợt sóng bởi vì độ nhẹ của nó, bao gồm lá cây mục và những vật thể rất nhẹ khác. Và do đó, như đã nói, gần như mang tính chất của nước, rồi thì, khi thời tiết yên tĩnh, cát rơi xuống và nằm yên dưới đáy biển, và nhờ độ thanh mịn, nó nén lại và đề kháng lại những đợt sóng vượt qua nó vì độ trơn tru của nó; và ở đây ta thấy những vỏ sò; và đây là loại đất trắng thích hợp để làm đồ gốm.
Mọi
nguồn nước tuôn ra từ núi rồi chảy ra biển và cuốn theo đá núi trôi ra biển; và
do sự dội lại của nước biển vỗ vào núi cho nên những hòn đá này bị trả về núi,
và vì những dòng nước hướng ra biển và trả về những hòn đá lật cùng với chúng
và trong khi chúng lăn thì những góc của chúng va mạnh vào nhau; còn những bộ
phận ít đề kháng thì bị xói mòn bằng những cú va đập nên bị mòn nhẵn, những hòn
đá không còn góc cạnh đã trở nên hình tròn, như chúng ta thấy trên bờ biển Elba.
Còn những khối đá lớn hơn ở lại vốn ít di chuyển khỏi địa điểm bản địa của nó; còn
những khối càng nhỏ thì càng bị mang đi xa hơn khỏi địa điểm đó; vì thế trong
quá trình chúng biến thành những viên sỏi nhỏ và rồi thành cát và cuối cùng
thành bùn. Sau khi biển đã rút xuống khỏi những quả núi đã nói trên, thì nó để muối
đọng lại bằng hơi ẩm khác từ mặt đất kết hợp với sỏi và cát này, do vậy sỏi
biến thành đá và cát biến thành đá vôi. Và chúng ta thấy ví dụ này ở Adda, nơi
nó xuất hiện từ những quả núi vùng Como và ở Ticino, Adige, Oglio và Adria từ
rặng Alps nước Đức, và cũng vậy ở Arno từ Monte Albano gần Monte Lupo và
Capraia nơi những tảng đá lớn nhất đều hình thành từ sỏi rắn lại từ những viên
đá khác nhau và màu sắc khác nhau.
Điều
đầu tiên và thiết yếu nhất là tính ổn định. Giống như với những nền móng gồm
những thành phần của đền đài và những công thự, mà những độ sâu của chúng có
cùng tương quan với nhau, tuỳ theo trọng lượng đặt trên chúng. Mọi thành phần
thuộc độ sâu của đất trong một địa điểm nào đó được kết hợp bằng những tầng, và
mỗi tầng được kết hợp bằng những thành phần nặng hơn và nhẹ hơn; tầng thấp nhất
là tầng nặng nhất. Và nguyên nhân ở đây là những tầng này được hình thành từ sự
trầm tích từ nước thải ra do thuỷ lưu của sông chảy vào nó. Thành phần nặng
nhất của lớp trầm tích này là thành phần đã thải ra đầu tiên và cứ thế theo các
mức độ: ở đây là tác động của thuỷ lưu khi nó trở nên cố định, mặc dù đầu tiên
khi nó di chuyển nó mang theo. Những tầng đất này có thể thấy trên bờ sông mà
những dòng chảy liên tục của chúng đã cắt ngang và chia quả đồi này ra khỏi quả
đồi khác bằng một kẽm sâu, nơi những dòng nước đã rút lui khỏi đá cuội từ những
bờ sông; và điều này đã khiến chất liệu
này trở thành khô cạn và thành đá cứng, đặc biệt là đất bùn thuộc kết cấu mịn
nhất như thế.
(c)
Địa
trung hải
Mọi
sơn cốc đều do những dòng sông hình thành, và tỉ lệ giữa những sơn cốc cùng tỉ
lệ giữa sông và sông. Sông lớn nhất trong thế giới chúng ta là sông Địa trung
hải, nó chảy từ những nguồn sông Nile tới Đại Tây Dương.
Lòng
Địa trung hải, như một biển lục địa, đón nhận những dòng nước chính từ châu Phi,
châu Á, và châu Âu chảy về nó; và những dòng thuỷ lưu của nó chảy tới chân
những ngọn núi và bao quanh rồi hình thành nên những bờ sông.
Và những đỉnh Apennines dựng đứng trong
vùng biển này như những hải đảo bao quanh bởi nước mặn. Cho đến nay Châu Phi
cũng chưa như thế, đằng sau rặng Atlas của nó, phơi mở ra mặt đất gồm những
bình nguyên rộng lớn lộ thiên trong phạm vi khoảng ba ngàn dặm. Và Memphis dựng
trên bở biển của vùng biển này, và ở trên những bình nguyên của Ý, nơi những
đàn chim trời đang bay ngày nay, lũ cá vẫn còn bơi trong những vũng lớn.
Về sự tiêu thoát hay bốc hơi của nước Địa trung hải
Địa trung hải, một dòng sông bao la toạ lạc giữa châu Phi, châu Á, và châu Âu, tập hợp trong bản thân nó khoảng 300 dòng sông chính, và ngoài ra, nó tiếp nhận lượng mưa rơi trên nó suốt một không gian ba ngàn dặm. Nó trả về cho đại dương hùng vĩ lượng nước của nó và lượng nước mà nó nhận; nhưng không hồ nghi, nó trả về cho đại dương ít hơn những gì nó nhận; vì từ nó truyền xuống nhiều mạch suối chảy dưới lòng đất và tạo thêm sức sống cho cỗ máy của đất. Như vậy là do bề mặt của Địa trung hải xa trung tâm của thế giới hơn là bề mặt của đại dương... và ngoài ra, hơi nóng mặt trời liên tục làm bốc hơi một bộ phận nước của Địa trung hải, và do đó, lượng biển này có thể tiếp thu nhưng lại ít tăng thêm từ những cơn mưa nói trên.
Thuỷ triều lên xuống không đều ra sao, vì trên bờ biển Genoa không có gì biến động; ở Venice chỉ biến động 2 thước Ý; giữa Anh và Pháp biến động 18 thước Ý. Bằng cách nào dòng thuỷ lưu chảy qua những eo Sicily rất mạnh, bởi vì mọi dòng nước sông qua những eo này, chúng tự chảy vào biển Adriatic.
Dòng Danube hay Donau chảy vào Hắc Hải, vốn trước kia mở rộng gần như tới Áo và bao phủ tất cả bình nguyên nơi Danube chảy qua ngày nay. Bằng chứng cho thấy những con trai và vỏ sò, điệp và xương của những loại cá lớn vẫn còn thấy ở nhiều nơi trong những sườn cao của những quả núi ấy: và biển này đã được thành hình bằng việc đổ đầy những đỉnh núi nhọn của rặng Adula vốn mở rộng tới phía đông, và liên kết những đỉnh răng cưa lởm chởm của rặng Taurus mở rộng tới phía Tây. Và gần Bithynia, những dòng nước của Hắc Hải này rót vào Propontis đổi vào Biển Aegean, đó là Địa trung hải, nơi cuối một thuỷ lưu dài những đỉnh của rặng Adula tách ra khỏi những đỉnh của rặng Taurus; và Hắc Hải chìm xuống và lộ ra khu thung lũng Danube với những tỉnh mang địa danh nêu trên, và toàn bộ vùng Tiểu Á bên kia rặng Taurus về phía bắc, và bình nguyên trải từ Núi Caucasus tới Hắc Hải ở phía tây, và bình nguyên Don phía bên này của dãy Núi Ural, chính là chân của chúng. Như thế, Hắc Hải hẳn là phải chìm thấp xuống khoảng 1,000 thước Ý để lộ xuất những bình nguyên bao la như thế.
Không thể phủ nhận sông Nile luôn bị đục khi đổ vào Biển Ai-cập và bị đục gây ra do đất mà sông này cuốn theo liên tục từ những nơi mà nó đã đi qua; đất không trở lại, và biển cũng không tiếp nhận ngoại trừ nó ném đất lên những bờ biển. Hãy nhìn vào đại dương cát bên kia Núi Atlas, nơi nó đã từng bao phủ bằng nước mặn.
Bằng
cách nào sông Po trong một thời gian ngắn lại có thể làm khô cạn Biển Adriatic
cùng với cách như nó đã làm khô một bộ phận lớn vùng Lombardy.
3. NƯỚC VÀ KHÔNG
KHÍ
Hãy
mô tả những đám mây được thành hình ra sao và chúng tan biến ra sao, và nguyên
nhân nào khiến hơi nước từ nước của địa cầu đi vào trong không khí, và những
nguyên nhân gây nên sương mù và không khí trở nên dày đặc, và tại sao nó xuất
hiện có màu lam đậm hoặc nhạt vào lúc này chứ không phải lúc khác; và cũng miêu
tả những vùng không khí, và nguyên nhân gây ra tuyết và mưa đá, nước co lại và
thành nước đá, và mô tả về những hình dạng mới mà tuyết kết thành trong không
trung, và những hình dạng mới của lá cây ở những xứ lạnh, và trên những đỉnh
núi cao đóng băng, sương muối tạo ra những hình dạng thảo mộc kì quái với lá
cây đa dạng, sương muối tác động y như thể sương dùng để nuôi và bổ dưỡng cho
các loại lá cây ấy.
Nước vận động trong nước, cách tiến hành
tương tự không khí trong không khí.
Âm học (acoustics)
Mặc
dù các loại âm thanh thâm nhập không khí, nguyên được phát sinh bằng chuyển
động vòng tròn, tuy nhiên, những vòng tròn hướng ngoại từ những trung tâm khác
nhau mà không có cản trở nào, và chúng thâm nhập và băng qua nhau nhưng vẫn duy
trì trung tâm mà chúng nảy sinh.
Bởi trong mọi trường hợp vận động của nước có điểm rất tương tự với không khí, cho nên tôi sẽ dẫn chứng nó làm ví dụ cho mệnh đề nói trên. Tôi cho rằng: nếu bạn đồng thời ném hai viên đá nhỏ vào chỗ hai mặt nước tĩnh vào hai thời gian khác nhau, bạn sẽ quan sát thấy quanh hai điểm chúng chạn vào mặt nước, là hai loạt vòng tròn riêng biệt được hình thành, chúng sẽ gặp nhau khi khuếch đại kích thước và rồi thâm nhập và giao nhau, trong khi vẫn luôn duy trì trung tâm của chúng ở những điểm mà các viên đá đã va chạm. Và lí giải cho tình huống này, tuy hiển nhiên là ở đó cho thấy vận động nào đó, nhưng nước không đời chỗ bởi vì những lỗ hổng tạo ra bởi những viên đá không ngừng khép lại, và chuyển động gây ra bởi những lỗ hổng bất ngờ và việc nước đóng lại tạo nên một loại dao động nhất định mà người ta có thể mô tả như là rúng động thay vì chuyển động. Và điều tôi mô tả có thể rõ ràng hơn với bạn, hãy nhìn những cọng rơm, vì độ nhẹ tênh của chúng nổi trên mặt nước và không di chuyển khỏi vị trí gốc bởi đợt sóng cuộn dưới chúng là khi những vòng tròn này tới. Cái dấu ấn trên mặt nước, vì thế, (mang tính chất) là rúng động hơn là chuyển động, những vòng tròn không thể làm vỡ nhau khi chúng gặp gỡ, và bởi nước vẫn cùng phẩm chất khắp nơi mọi thành phần của nó, và truyền độ rung động từ vòng tròn này sang vòng tròn kia cho nhau mà không đổi chỗ của chúng. Vì nước luôn giữ nguyên vị trí, nó có thể dễ dàng đưa độ rung này từ những thành phần kế cận sang những thành phần kế cận khác, và cường độ của nó suy giảm đều đặn cho đến khi kết thúc.
Hệt
như viên đá ném vào mặt nước trở thành trung tâm và nguyên nhân của những vòng
tròn khác nhau, sóng âm thanh tạo ra trong không trung lan toả bằng những vòng
tròn, vì thế mọi vật thể đặt trong không trung được chiếu sáng tự nó lan đi bằng
những vòng tròn và làm đầy những thành phần bao quanh bằng vô số hình tượng của
chính nó, và xuất hiện ra toàn thể trong toàn thể và toàn thể trong mỗi phần.
Không khí
Không
khí khởi động nhanh hơn so với nước, vì thường khi sóng li khai khỏi địa điểm
tạo ra nó mà không thay đổi vị trí; tương tự những đợt sóng khi mà luồng gió tạo
ra trên cánh đồng lúa vào tháng Năm, ta nhìn thấy những đợt sóng cuồn cuộn trên
cánh đồng không làm cho những bông lúa thay đổi vị trí của chúng.
Các nguyên tố có thể hoá thành nhau, khi không khí hoá thành nước qua việc tiếp xúc với vùng lạnh, điều này tự hấp dẫn mãnh liệt tất cả không khí bao quanh và di chuyển mãnh liệt để làm đầy phạm vi bị bỏ trống do không khi đã thoát ra; và như thế cứ khối lượng này di chuyển tiếp theo một khối lượng khác, cho tới khi chúng được cân bằng một phần cái không gian mà không khí đã phân li, và đấy là gió. Nhưng nếu nước hoá thành không khí, thì lúc đó thoạt đầu không khí chiếm không gian mà trong đó sự gia tăng vừa nói chảy vào cần phải nhường chỗ để tăng tốc độ và xung động tới cho không khí được tạo ra, và đấy là gió.
Mây hoặc hơi nước trong gió được sản sinh bởi nhiệt và nó bị tác động mạnh và bị hơi lạnh xua đuổi, và bị xua đi ở phía trước nó, ở đâu hơi ấm bị trục xuất thì hơi lạnh ở lại. Và bởi mây bị xua không thể lên cao vì hơi lạnh nén nó xuống và cũng không thể hạ xuống vì nhiệt nâng nó lên, vì vậy nó phải theo hướng ngang; và tôi cho rằng nó không tự vận động, vì như đã nói, những năng lực thì đồng đều, chúng hạn chế chất thể này ở giữa chúng một cách đồng đều, và nếu nó có ngẫu nhiên tránh thoát thì nó phân tán và rải rác ở mọi hướng hệt như miếng bọt bể đầy nước bị vắt tới nỗi nước vọt ra ngoài trung tâm miếng bọt bể ra mọi hướng. Do đó, gió bắc cũng vậy, có lúc và đồng thời trở nên nguồn gốc của mọi cơn gió.
Loại
gió ấy sẽ có sự vận động ngắn hơi tuy mạnh hơn lúc đầu; và lửa dạy chúng ta khi
nó phát ra từ khẩu súng cối, cho thấy hình dạng và tốc độ qua làn khói nhả ra
không khí bằng chuyển động ngắn và rải rác. Nhưng độ mạnh từng cơn của gió cho
thấy làn bụi tốc lên không trung theo những cách xoắn và cuốn khác nhau. Người
ta cũng nhận thấy giữa những dãy núi Alps có sự va chạm của các cơn gió gây ra
bởi xung động của nhiều lực khác nhau; người ta thấy những lá cờ trên những
chiếc tàu phất phới theo những luồng chảy khác nhau ra; trên mặt biển một bộ
phận nước bị va đập mà không phải một bộ phận khác; và cũng điều này xảy ra ở
những quảng trường và trên những bãi cát của sông, nơi cát bụi bị quét đi dữ
dội ở một bộ phận này mà không phải bộ phận khác. Và bởi vì những hiệu ứng đó
cho ta thấy tính chất của nguyên nhân, ta có thể nói với chắc chắn rằng cơn gió
nào khởi đầu có xung lực mạnh hơn sẽ có vận động ngắn hơn; và điều này đưa ra
bằng thí nghiệm nói trên cho thấy vận động ngắn của làn khói từ miệng súng cối.
Và điều này phát sinh từ sự đề kháng mà không khí bị nén lại do chấn động của
làn khói này vốn bản thân nó cũng bị nén để mà chống lại gió. Nhưng nếu gió vận
động chậm nó sẽ trương rộng ra một khoảng cách rất dài theo một đường thẳng, bởi
không khí bị nó thâm nhập sẽ không ngưng tụ phía trước nó và sẽ không cản trở vận
động của nó, mà sẵn sàng lan toả luồng của nó trên một không gian rất dài.
4. ĐẤT, NƯỚC, KHÍ,
VÀ LỬA
Ở
đây, Leonardo leo lên núi Monte Rosa vào một ngày hè đẹp với bầu trời trên đầu
xanh biếc. Khao khát của ông là muốn nhìn kĩ những khu vực thượng tầng ngoài
khí quyển—phạm vi của Nguyên tố Lửa. Ông giả định đó là những vùng “bóng tối
bao la” còn màu xanh lam của bầu trời là do phản chiếu của ánh sáng từ những
hạt nhỏ trong không khí, đã được xác nhận bằng những khảo sát gần đây trong
tầng tĩnh khí.
Về màu sắc của khí quyển
Tôi
cho rằng màu xanh lam nhìn thấy trong bầu khí quyển không phải là màu tự thân
nó mà được tạo nên do độ nhiệt ẩm bốc hơi bằng những nguyên tử rất tinh vi
không thể nhận thấy và tia mặt trời khiến chúng phát quang trên nền bóng tối
bao la của vùng nguyên tố lửa hình thành một tấm bọc phủ bên trên chúng. Điều
này có thể thấy, như chính tôi đã thấy, bởi bất cứ ai leo lên Monte Rosa (Hồng
Sơn), một đỉnh thuộc rặng Alps phân đôi Pháp khỏi Ý...
Tại đó, tôi thấy khí quyển âm u ở bên trên
đầu và mặt trời khi nó chiếu lên vùng núi này lại chói chang hơn nhiều so với
trên bình nguyên phía dưới, do lớp khí quyển mỏng hơn bởi một phạm vi nhỏ hơn giữa
đỉnh núi và mặt trời.
Để minh hoạ thêm về màu sắc của khí quyển,
ta lấy làn khói từ gỗ khô và cũ, khi nó bốc lên từ ống khói thì một màu xanh lam
đậm hơn dễ nhận thấy trên nền trời sẫm. Nhưng khi nó toả lên cao hơn trên nền
khí quyển sáng thì lập tức nó biến thành sắc xám tro. Và điều này xả ra bởi vì không
còn màn tối bên ngoài nó nữa... nếu làn khói phát sinh từ khúc gỗ tươi thì nó
sẽ không có màu xanh lam, bởi vì nó không trong suốt và đã bị tích tụ nhiều hơi
ẩm, nó sẽ sinh ra hiệu quả của đám mây dày đặc mang những độ sáng và tối như
thể nó là một vật thể rắn. Điều này cũng xảy ra khi một lượng lớn khí quyển nằm
giữa mắt nhìn và nguyên tố lửa, sắc độ của màu xanh lam sẽ sâu thẳm hơn; như
chúng ta nhìn qua thuỷ tinh xanh lam và qua ngọc phỉ thuý vốn sẫm hơn vì chúng
dày hơn về tỉ lệ. Nhưng khí quyển trong những tình huống này như thể tác động chính
xác theo cách tương phản, vì ở đâu có một lượng lớn khí quyển nằm giữa mắt và khu
nguyên tố lửa, thì nơi đó nó xuất hiện trắng hơn nhiều. Điều này xảy ra về
hướng chân trời. Và mức độ khí quyển càng ít giữa mắt và khu nguyên tố lửa thì
độ xanh lam xuất hiện càng nhiều, ngay cả khi chúng ta ở những bình nguyên
thấp. Vì thế, tôi có thể nói, khí quyển mang màu xanh da trời này là do những
hạt hơi nước bắt gặp tia sáng mặt trời.
Hãy chứng minh bề mặt của khí cầu nơi nó
tiếp giáp với hoả cầu, và bề mặt của hoả cầu và nơi nó chấm dứt bị ánh thái
dương xâm nhập và truyền đi những hình tượng thiên thể, to khi chúng đi lên và
nhỏ khi chúng ở kinh tuyến.
Hãy lấy a là địa cầu, và ndm là
bề mặt không khí giáp với hoả cầu; hfg
là quỹ đạo mặt trời; vậy tôi nói rằng khi mặt trời xuất hiện ở chân trời g thì quang tuyến nhìn thấy xuyên qua bề
mặt của không khí ở góc nghiêng—om; đây
không phải trường hợp ở dk. Và vì thế
quang tuyến xuyên qua một khối lượng lớn không khí.
Về nhiệt trong thế giới
Ở
đâu có sự sống ở đó có nhiệt, và ở đâu có sinh nhiệt ở đó có vận động của hơi
nước. Điều này đã được chứng minh, do đó chúng ta thấy nguyên tố lửa bằng nhiệt
lượng của nó luôn luôn thu hút về nó tới làn hơi ẩm và sương mù dày, chẳng hạn như
những đám mây mờ đục mà nhiệt bốc lên từ biển cũng như hồ, sông và thung lũng
ẩm thấp; khí nóng này thu hút theo những cấp độ tới tận vùng lạnh, bộ phận đầu
ngưng lại, bởi vì nhiệt và ẩm không thể tồn tại cùng với lạnh và khô; và ở đâu
bộ phận đầu tiên ngưng, phần còn lại ổn định, và như vậy hết bộ phận này đến bộ
phận khác được bổ sung, những đám mây dày và tối được hình thành.
Mây thường lướt nhẹ và được gió mang đi từ vùng này tới vùng khác, ở đâu ngưng tụ, chúng trở nên rất nặng đến nỗi rơi xuống thành cơn mưa lớn; và nếu nhiệt của mặt trời tăng cường lực của nguyên tố lửa, thì những đám mây bị kéo lên cao hơn và tìm một cấp độ lạnh nhiều hơn, từ đó chúng hình thành băng đá và rơi xuống thành những trận bão đá. Có khi cùng loại nhiệt nâng lên một trọng lượng nước rất lớn mưa xuống từ những đám mây, kéo chúng từ dưới lên trên, từ dưới chân những quả núi, và dẫn đưa và tích giữ chúng trên những đỉnh núi, và chúng tìm những kẽ núi, liên tục thoát ra và tạo nên những dòng sông.
Giống
như nước chảy ra theo những lối khác nhau từ miếng bọt bể bị vắt, hoặc không
khí thoát ra từ cặp ống bễ, cũng vậy với những đám mây mỏng trong suốt bị xua
lên cao qua phản chiếu do nhiệt gây ra; một bộ phận tự tìm thấy ở vị trí cao
nhất vươn tới vùng lạnh trước tiên và tạm nghỉ ở đó bởi nó gặp độ lạnh và khô, chờ
đồng hành của nó. Bộ phận ở dưới bốc lên tới bộ phận đứng yên xử lí với lớp
không khí ở giữa như thể nó là chiếc ống hút, và rồi bộ phận này thoát ra theo
kiểu giao nhau và hướng xuống; nó không thể hướng lên bởi nó gặp đám mây dày
tới nỗi không thể xâm nhập.
Vì lí do đó, mọi cơn gió đánh lên mặt đất đều
giáng xuống từ bên trên, và khi chúng đánh lên mặt đất đang cản lại thì chúng
phát sinh một loại vận động cuộng lại, khi nó cố gắng trỗi dậy để gặp cơn gió đang giáng xuống, vì thế việc lên
cao để phá vỡ trật tự tự nhiên bị kìm hãm, và nó phải đi hướng ngang và tiếp
tục theo đuổi dòng mãnh liệt không ngớt sượt qua mặt đất.
Khi những cơn gió nói trên đánh lên những dòng
nước biển, thì hướng gió có thể thấy rõ theo góc độ được hình thành do những tuyến
tới (incidence) và cuộn lại (recoil); và từ những thứ này dẫn đến những đợt
sóng nhô lên, đe doạ và nhận chìm, đợt này là nguyên nhân của đợt khác.
Như hơi ấm tự nhiên lan toả khắp chi thể con
người bị đẩy lùi bởi khí lạnh bao quanh, vốn là đối nghịch và là kẻ thù của nó,
chảy về lại cái hồ của quả tim, và lá gan tự nó củng cố lại, làm cho những thứ
này trở nên thành trì và tự vệ, cũng vậy, những đám mây được tạo nên bằng hơi
ấm và độ ẩm, và vào mùa hè có hơi nước khô nhất định, tự chúng tìm tới vùng
lạnh và khô, tác động theo cách bông hoa và lá khi bị tấn công bởi sương muối
lạnh thì nén hơi lạnh lại và tăng lực đề kháng.
Vì thế, những đám mây ấm này thoạt đầu
tiếp xúc với khí lạnh, chúng bắt đầu đề kháng và không muốn vượt xa hơn; những
đám mây khác ở dưới tiếp tục lên cao; bộ phận ở trên dừng lại tiếp tục dày đặc;
hơi ấm và độ khô thoái lui về trung tâm; bộ phận ở trên bị hơi ấm bỏ rơi bắt
đầu đông lại hoặc đúng hơn là tan dần; những đám mây bên dưới tiếp tục lên cao
và nén hơi ấm tới gần vùng lạnh; và như vậy hơi ấm bị kiềm hãm trở về với
nguyên tố cơ bản của nó bất ngờ chuyển thành lửa và tự chạy ngoằn ngoèo khắp
vùng hơi nước khô, và trong trung tâm của mây càng lúc càng tăng cường, và thắp
nhóm lên trong đám mây vốn đã trở nên mát lạnh, nó tạo nên tiếng ầm ì tương tự
như tiếng nước sùng sục trong chiếc bình đun sôi hoặc dầu, hoặc tiếng của đồng
bị nấu chảy khi nhúng vào nước lạnh; dù vậy, bị đẩy ra bởi phía đối ngịch,
nhưng nó phá tan đám mây chống đỡ cho nó và và lao đi khắp không trung để phá và
huỷ mọi thứ nào chống lại nó; đấy là sét.
Ở đâu lửa không thể cháy thì không động vật hít thở
nào có thể sống được
Phần
đáy của ngọn lửa là khởi điểm của ngọn lửa và qua nó tiêu đi tất cả những dưỡng
chất dầu mỡ; và nó ít độ nóng hơn phần còn lại của ngọn lửa, cũng như ít độ
sáng hơn; còn sắc lam của ngọn lửa, chính ở đây dưỡng chất của nó được tống
xuất và tiêu hao. Bộ phận kia có ánh lửa sáng hơn, nhưng đây là khởi đầu khi
ngọn lửa xuất hiện và nó sinh ra trong hình cầu, rồi sau đó, nó sản sinh bên
trên hình cầu một ngọn lửa rất nhỏ có màu sắc sáng rực và hình dạng như quả
tim, với điểm nhọn hướng lên trời; và ngọn lửa này tiếp tục nhân lên tới vô tận
bằng việc hấp thu chất nuôi dưỡng nó.
Ngọn lửa màu lam được tạo thành dạng hình
cầu... và không tự tạo thành một hình kim tự tháp cho tới khi nó làm ấm đủ
không khí bao quanh; và nhiệt chủ yếu của ngọn lửa xanh lam này hướng lên theo xu
hướng di chuyển tự nhiên của ngọn lửa, cũng là lộ trình ngắn nhất tới hoả cầu.
Màu
của ngọn lửa lam không di động. Dưỡng chất để nuôi ngọn lửa này bằng cây nến
bản thân không di động. Do đó, sự vận động tất phải phát sinh do những nguyên
nhân khác. Cái phát sinh ra sự không di động này là không khí, nó ùa tới làm
đầy khoảng chân không tạo ra do không khí bị tiêu hao bởi ngọn lửa trước đây.
Ánh sáng sinh ra khoảng chân không, rồi không khí ùa tới cứu trợ cho khoảng
chân không này.
5. TIỂU VŨ TRỤ VÀ
ĐẠI VŨ TRỤ
Những thế giới hữu
cơ và vô cơ cả hai đều mang tính chất tương tự và chịu cùng những quy luật tự
nhiên. Con người là một bộ phận của một thế giới, là một tiểu vũ trụ nằm trong
một đại vũ trụ.
Phần mở đầu luận về nước
Con
người đã từng được người xưa gọi là một tiểu vũ trụ, danh xưng này quả rất
thích hợp. Xét rằng, nếu con người được kết hợp bằng đất, nước, khí, và lửa,
thì cơ thể của địa cầu cũng tương tự. Trong khi nội bộ con người có xương cốt
làm giá đỡ và khung sườn của thịt, thế giới có nham thạch để chống đỡ đất.
Trong khi nội bộ con người có một kho máu trong đó có phổi khi kẻ ấy hô hấp nở ra
hoặc co vào, cũng thế, cơ thể của đất có đại dương cũng dâng lên và rút xuống
cứ mỗi sáu giờ cùng hô hấp của thế giới; cũng như từ cái kho máu nảy sinh các
huyết mạch và toả các nhánh khắp nhân thể, cũng thế, đại dương đổ đầy cơ thể
của đất với vô số mạch nước.
Tuy nhiên, trong cơ thể của đất thiếu những
dây thần kinh, và những thứ này vắng bởi dây thần kinh được tạo ra cho mục đích
vận động; và vì thế giới thường xuyên bình ổn, ở đây không có sự vận động xảy
ra, cho nên không cần thiết có dây thần kinh. Nhưng trong mọi thứ khác thì con
người và đất rất tương tự.
Giải thích về sự hiện diện nước trên những đỉnh núi
Tôi cho rằng, giống như nhiệt tự nhiên của máu trong những huyết mạch lưu giữ nhiệt trong đầu người, và khi con người chết thì máu lạnh chìm xuống những bộ phận phía dưới, còn khi mặt trời làm ấm đầu người thì lượng máu trong đó gia tăng và tăng trưởng rất nhanh cùng với những dịch thể (humour) khác, chính do áp lực trong huyết quản nên nó thường xuyên gây nên những chứng đau đầu; cũng tương tự như vậy với những dòng suối rẽ nhánh đi khắp cơ thể địa cầu, và bởi nhiệt tự nhiên lan khắp cơ thể hàm chứa, cho nên nước ở lại trong những dòng suối trên đỉnh núi cao. Và nước chảy qua một thuỷ đạo phong kín bên trong cơ thể của núi như một vật chết không ra khỏi trạng thái dưới nhiệt thấp, bởi nó không được sưởi ấm bởi sinh nhiệt của dòng suối đầu tiên. Hơn nữa, nhiệt của nguyên tố lửa và ban ngày là nhiệt mặt trời có năng lực kích hoạt sự ẩm ướt của những vùng thấp và kéo chúng lên đỉnh núi giống như kéo những đám mây và triệu tập độ ẩm từ lòng biển.
Cùng nguyên nhân làm lưu động những dịch thể trong mọi loại sinh thể đi ngược với luật tự nhiên về hấp lực, nó cũng thúc đẩy nước chảy qua những mạch của đất mà nó phong kín trong đó và phân phối nước qua những thông đạo nhỏ. Và như máu dâng lên từ phía dưới và trút qua những mạch gẫy trên trán, như nước đưa lên từ bộ phận thấp nhất của dây nho lên các nhánh đã bị cắt, cũng thế từ độ sâu nhất của biển, nước dâng lên tới những đỉnh núi, ở đó, nó tìm những đợt sóng bị vỡ, trào ra và quay về đáy biển. Như vậy, sự vận động của nước bên trong và bên ngoài luân phiên thay đổi, khi thì buộc phải dâng lên, khi thì đổ xuống tự do theo tự nhiên. Như vậy khi liên hoàn với nhau, nó đi vòng vòng và liên tục xoay quanh, đi tới đi lui lúc bên trên bên dưới, chẳng bao giờ nằm yên, hoặc trong dòng chảy của nó hoặc trong bản tính của nó. Bản thân nó không có gì nhưng lại nắm giữ mọi thứ, thay đổi thành nhiều tính chất khác nhau tuỳ những địa phương khác nhau trong dòng chảy của nó, tác động y như chiếc gương phản chiếu nhiều hình tượng tuỳ vào có bao nhiêu vật thể qua trước mặt nó. Vì thế nó liên lục biến đổi, khi thì về vị trí, khi thì về màu sắc, khi thì hấp thu những mùi mới hoặc vị mới, khi thì nó bảo lưu những thể chất hoặc phẩm chất mới, khi thì nó mang sự chết chóc, khi sự khoẻ mạnh, đôi khi nó vào không khí hoặc tự đẩy lên cao do nhiệt, và khi vươn tới vùng lạnh, nhiệt đưa nó lên bị ép bởi khí lạnh. Và như bàn tay ép vào miếng bọt bể dưới nước thì nước chảy ra tràn vào dòng nước khác, vì thế, khí lạnh nén không khí trộn lẫn vào với nước, khiến cho nó thoát ra mãnh liệt và xua đẩy lớp không khí khác; vậy đây là nguyên nhân của gió.
Thật
là niềm thán phục cao độ đối với những ai quan sát nước tự trỗi lên từ độ sâu
nhất của biển lên tới những đỉnh núi cao nhất rồi rót xuống qua những mạch đứt rồi
trở về với biển sâu và lại trỗi lên nhanh chóng và lại hạ xuống, và cứ như thế,
toàn bộ nguyên tố này tuần hoàn. Cứ từ cao xuống thấp, cứ chảy vào chảy ra, khi
thì vận động tự nhiên, còn khi vận động ngẫu nhiên thì nó tương tập và kết hợp.
Cho nên, vòng thay đổi theo sự tuần hoàn liên tục theo cách truyền nước của cây
nho khi nó rót nước qua những nhánh bị cắt rồi lại rơi xuống trên gốc rễ của
nó, và lại dâng qua những thông đạo rồi lại rơi trở lại trong vòng tuần hoàn
liên tục.
Nước gặp không khí qua những mạch đứt của
những đỉnh núi cao, đột nhiên bị bỏ rơi bởi lực đem nó tới, và rồi thoát li
khỏi những lực này và bắt đầu lại quá trình tự nhiên của nó trong tự do.
Cũng vậy, nước trỗi lên từ rễ thấp của cây
nho tới phần ngọn cao rồi rớt lên qua những nhánh bị cắt rớt xuống rễ rồi lại dâng
lên chỗ mà từ đó nó rớt.
6. MỘT TINH THẦN GIỮA NHỮNG
NGUYÊN TỐ:
NHỮNG GIỚI HẠN CỦA
NÓ
Về tinh thần
Chúng
ta đã nói, định nghĩa về tinh thần là một năng lực kết hợp với thân thể, bởi tự
thân nó không thể nào lên cao hoặc làm bất cứ loại vận động nào trong không
gian, và nếu bạn nói rằng tự nó có thể lên cao, mà điều này không thể tồn tại
trong những nguyên tố. Vì nếu tinh thần là một lượng vô hình thể, thì lượng này
được gọi là một chân không được phát sinh, và chân không này không tồn tại
trong tự nhiên; giả định rằng chân không đó được tạo thành, lập tức nó ắt bị đổ
đầy do sự ập vào của nguyên tố trong chân không đã phát sinh đó. Do đó, bằng định
nghĩa về trọng lượng, nói rằng trọng lực là một năng lực ngẫu nhiên, được tạo
nên do một nguyên tố hấp dẫn hoặc ép đẩy hướng tới một nguyên tố khác, thì nó
đi theo bất cứ nguyên tố nào không có trọng lượng trong một nguyên tố hấp thu
trọng lượng bởi việc đi vào nguyên tố ở trên nó, và nhẹ hơn bản thân nó. Chúng
ta thấy rằng một bộ phận của nước không có trọng lực hoặc khinh lực (levity)
khi nhập vào bộ phận của nước khác, nhưng sẽ hấp thu trọng lượng nếu bị kéo lên
không khí; và nếu bạn kéo không khí xuống phía dưới nước, nước tự thấy mình nằm
trên vùng không khí này hấp thu trọng lượng, mà trọng lượng nó không thể tự
chống đỡ, và vì thế sự sụp đổ của nó là không thể tránh khỏi; và nó sẽ rơi
xuống nước ở địa điểm có chân không. Cũng giống như vậy tất xảy ra với một tinh
thần nếu nó ở giữa những nguyên tố nơi nó liên tục phát sinh một chân không
trong bất kể nguyên tố nào, nó thấy mình trong đó và vì lí do này hẳn nó sẽ
liên tục bay hướng tới bầu trời cho tới khi nó rời bỏ những nguyên tố đó.
Tinh thần có thân thể giữa những nguyên tố hay không
Chúng
ta đã chứng minh một tinh thần không thể tự tồn tại giữa những nguyên tố mà
không có thân thể, nó cũng không thể tự vận động tuỳ ý trừ phi trỗi lên cao.
Giờ chúng ta cho rằng một tinh thần khoác lấy một thân thể bằng không khí tất
yếu phải hỗn hợp vào không khí này; bởi nếu nó vẫn giữ đơn nhất thì với không
khí nó sẽ phân li và rơi xuống khi chân không phát sinh, như đã nói trên; do
đó, thật cần thiết nếu nó có khả năng duy trì trạng thái lơ lửng trong không
trung, và nó sẽ phải hấp thu một lượng không khí nhất định; và nếu nó có hỗn
hợp với không khí, hai khó khăn theo sau, nó sẽ làm hiếm phần không khí mà nó hỗn
hợp với, và vì lí do này không khí bị hiếm đó sẽ bay lên trên tự ý và sẽ không
ở lại giữa không khí vốn nặng hơn bản thân nó; và, hơn nữa, khi tinh yếu này lan
rộng, nó trở nên ngăn cách và tính chất của nó biến đổi và vì thế nó đánh mất
một số năng lực ban đầu. Thêm vào đó, còn có khó khăn thứ ba, đó là thể khí lấy
ra khỏi tinh thần thì bị phơi ra trước những đợt gió xâm nhập và không ngừng tách
ra và xé lẻ những bộ phận kết hợp của không khí, xoay và cuốn chúng giữa lớp
khí kia; do đó, tinh thần bị thấm nhuần trong không khí này bị chặt hoặc bị xé
và bị phá bằng thứ không khí mà nó bị thâu nhập.
Tinh thần mang thể khí có thể tự vận động hay không
Tinh
thần thấm nhuần vào một lượng không khí nhất định thì sẽ có một năng lực di
động khí này; điều này đã chứng minh ở trên khi nói rằng tinh thần làm thưa
thớt một phần không khí mà nó nhập vào; vì thế, khí ấy sẽ trỗi bên trên khí kia,
và sự vận động này sẽ được khí tạo ra qua độ nhẹ của nó, mà không phải qua vận
động tuỳ ý của tinh thần, và nếu khí này gặp gió, [căn cứ vào lí do] ở phần
luận thứ 3 ở trên, thì khí sẽ di động bởi gió mà không bởi tinh thần khuếch tán
vào trong đó.
Tinh thần có thể nói hay không
Nếu
muốn chứng minh tinh thần có thể nói hay không, điều cần thiết trước tiên là
định nghĩa tiếng nói là gì, và nó phát sinh ra sao; vậy ta sẽ mô tả như sau:
tiếng nói là sự vận động của không khí ma sát vào một vật thể đậm đặc, hoặc một
vật thể đậm đặc ma sát vào khí—đều tương tự; và sự ma sát với thể hiếm ngưng tụ
với thể hiếm và gây nên đề kháng; hơn nữa, thể hiếm khi di động mau, và thể
hiếm di động chậm thì ngưng tụ nhau khi tiếp xúc, và tạo nên tiếng ồn hoặc tiếng
động lớn; và tiếng nói hoặc tiếng thì thầm gây ra do thể hiếm này đi qua một độ
loãng khác với tốc độ vừa phải thì giống như một ngọn lửa lớn tạo ra tiếng ồn trong
không khí. Còn tiếng gầm lớn nhất do thể hiếm tạo ra với một thể hiếm khác khi
một thể hiếm di chuyển mau xâm nhập vào thể hiếm khác bất động; ví dụ như ngọn
lửa phát sinh từ khẩu súng lớn đột kích vào không khí; cũng vậy, như ngọn lửa
phát sinh từ đám mây đập vào không khí, và vì thế tạo ra sét.
Vì thế, ta có thể nói rằng không có vận
động của không khí thì tinh thần không thể sản sinh ra tiếng nói, trong tinh
thần không có tiếng nói nào và nó không thể bật ra những gì mà nó không có; và
nếu nó muốn di động không khí mà nó khuếch tán, thì tinh thần cần thiết phải tự
nhân lên, và nó không thể nhân lên mà không có số lượng. Và như trong phần thứ
tư đã nói, thể hiếm không thể di động được trừ phi nó có một điểm cố định để từ
đó sinh ra vận động; hơn thế nữa, trong trường hợp của một nguyên tố vận động
bên trong nguyên tố của nó, mà tự bản thân không vận động, ngoại trừ bằng sự
bốc hơi đều tại trung tâm của vật được bốc hơi: như xảy ra với miếng bọt bể bị vắt
trong bàn tay bóp dưới nước; nước thoát ra khỏi nó ra mọi hướng với vận động
đều nhau qua những khoảng hở giữa những ngón tay của bàn tay vắt ép.
Tinh thần có phát ra tiếng nói hay không,
và có thể nghe được tinh thần hay không, và nghe và thấy gì, và sóng âm thanh
qua không khí ra sao và những hình ảnh vật thể đi qua mắt ra sao.
Không
có tiếng nói nếu không có vận động hoặc chấn động trong không khí; không có
chấn động của không khí nếu không có khí cụ; không có khí cụ nào mà không có
thân thể; hiển nhiên, một tinh thần có thể không có tiếng nói, hoặc thân thể,
hoặc sức mạnh; và nếu như nó mang lấy một thân thể thì nó không thể nhập được
vào cửa đã đóng. Và nếu có ai nói rằng qua không khí tụ lại và nén lại, một
tinh thần có thể mang những thân thể của những hình dạng khác nhau, và nhờ đó
nó có thể lên tiếng và di chuyển bằng lực— tôi xin đáp lại kẻ ấy rằng ở đâu
không có dây thần kinh hoặc xương cốt thì ở đó không thể có những tinh thần đảm
đương sức thi triển trong bất cứ vận động nào tạo ra do những tinh thần tưởng
tượng.
7. VÒM TRỜI
Theo những truyền
thống cổ đại được chấp nhận phổ quát trong thời đại Leonardo, địa cầu với những
nguyên tố của nó được bao kín và vây quanh bởi cõi trời với những thiên thể vừa
không nặng, không nhẹ, vừa không bị huỷ hoại. Nhìn xa ngoài hiện tượng của địa
cầu này, Leonardo đã gắng áp dụng những phương pháp quan sát và diễn dịch vòm
trời. Ông thiết dựng một loại loại đài quan sát bằng cách lắp đặt một khí cụ
quang học dưới cửa sổ trời của mái nhà của mình và khảo sát về tính chất của
mặt trăng.
Những
hồ nghi nảy sinh trong đầu ông về hệ thống theo Ptolemy. Mặt trời có xoay quanh
địa cầu không? Trên một trang bút kí toán học, ông đã viết bằng những con chữ
lớn: “Mặt trời không chuyển động”.
Để
nhìn thấy tính chất của những hành tinh, hãy mở mái cửa sổ trời, và ghi nhận một
hành tinh đơn độc ở mặt đáy: sự vận động phản chiếu lên mặt đáy này sẽ cho thấy
tính chất của hành tinh này; nhưng sắp đặt sao cho mặt đáy chỉ phản chiếu chỉ
một lần mỗi thời điểm.
Hãy
kiến tạo những kính [phóng đại] để nhìn thấy mặt trăng được to hơn.
Có
thể tìm những phương tiện nhờ đó mắt thường không nhìn thấy những vật thể ở xa sẽ
được thu nhỏ lại nhiều như chúng ở trong phối cảnh tự nhiên, ở đó chúng thu nhỏ
bởi vì độ lồi của mắt cần thiết giao nhau tại bề mặt những hình chóp của mỗi
hình ảnh truyền tới mắt giữa những góc vuông hình cầu. Nhưng phương pháp mà tôi
cho thấy ở đây cắt những hình chóp này ở những góc vuông gần bề mặt của đồng tử.
Đồng tử lồi của mắt thu vào vào toàn bộ cảnh tượng bán cầu của chúng ta trong
khi điều này cho thấy chỉ một ngôi sao; nhưng ở đâu nhiều ngôi sao nhỏ truyền
hình ảnh của chúng tới bề mặt đồng tử thì những ngôi sao sẽ cực nhỏ; ở đây, chỉ
một ngôi sao được thấy nhưng nó sẽ lớn. Cũng thế, mặt trăng sẽ lớn hơn và những
vết đốm của nó càng nổi bật. Bạn thử đặt một li thuỷ tinh đầy nước gần con
mắt... nước làm cho vật thể ngưng kết trong những khối cầu thuỷ tinh kết tinh
xuất hiện như thể không có thuỷ tinh.
Về con mắt. Những vật thể nhỏ kém hơn đồng
tử nếu ở gần nhất thì con mắt sẽ ít nhận ra nhất. Từ kinh nghiệm này chúng ta
biết rằng thị lực không bị giảm thành một điểm... Thế nhưng, những hình ảnh vật
thể truyền tới đồng tử được phân phối trên đồng tử này hệt như chúng được phân
phối trong không trung: bằng chứng cho thấy là khi chúng ta nhìn vào bầu trời
đầy sao mà không nhìn cố định hơn vào một ngôi sao nào; vậy thì bầu trời xuất
hiện tất cả với muôn sao tản mác; và lỉ lệ của chúng trong con mắt tương tự như
trong bầu trời, và cũng tương tự như vậy với các khoảng cách giữa chúng.
Về mặt trăng
Mặt
trăng tự thân không có sáng, nhưng chỉ phần nào mặt trời nhìn thấy thì chiếu
sáng. Phần chiếu sáng đó mà ta chỉ thấy khi nó quay về ta. Và đêm của nó nhận được
đúng số ánh sáng mà nước trên trái đất gửi cho nó khi nước này phản chiếu trên
mặt trăng hình ảnh của mặt trời, và được chiếu gương trên tất cả những nước đối
diện với mặt trời và mặt trăng.
Bề mặt của nước, của mặt trăng và của trái đất chúng ta luôn luôn rập rờn ít hoặc nhiều, và độ gồ ghề này là nguyên nhân cho sự khoáng đại ra vô số hình tượng của mặt trời phản chiếu lên đồi núi và thung lũng, biên duyên và ngọn sóng; trong những điểm sáng khác nhau trên mỗi đợt sóng cũng nhiều như có những con mắt nhìn từ những vị trí khác nhau. Điều này không thể nào xảy ra nếu thuỷ cầu với đại bộ phận bao phủ mặt trăng đều có hình cầu một cách đồng bộ, và như vậy ở đó sẽ có một hình ảnh của mặt trời cho mỗi con mắt, và những phản chiếu của nó sẽ rõ rệt và sự toả sáng của nó luôn mang hình cầu như cho thấy rõ ràng trong những quả cầu mạ vàng đặt trên chóp những toà nhà cao. Nhưng nếu những quả kim cầu đều gồ ghề hoặc được tạo bằng những viên nhỏ như quả dâu tằm vốn là loại trái cây màu đen lại gồm nhiều hạt tròn nhỏ, vậy thì mỗi bộ phận của những hạt tròn nhỏ này đều thấy được qua mặt trời và với mắt sẽ phô bày với mắt sự lấp lánh sản sinh do sự phản chiếu của mặt trời. Như thế, trong một vật thể duy nhất sẽ có nhiều mặt trời li ti; và thường thì những mặt trời này sẽ hỗn hợp ở khoảng cách xa và liên tục xuất hiện.
Không
vật sáng nào tồn tại gồm những vật thể ít sáng hơn. Mặt trăng có vị trí trong
những nguyên tố của nó hay không. Và nếu mặt trăng không có vị trí đặc biệt như
địa cầu giữa những nguyên tố, bằng cách nào nó lại không rơi vào chính giữa
những nguyên tố của chúng ta? Không vật nhẹ nào tồn tại giữa những vật nhẹ hơn.
Và nếu nó nhẹ hơn mọi nguyên tố khác thì tại sao nó đặc và không trong suốt?
Chứng minh địa cầu là một tinh cầu
Trong thuyết trình của bạn, bạn phải chứng minh rằng địa cầu là một tinh cầu rất giống với mặt trăng, và sự huy hoàng của vũ trụ; sau đó, bạn phải trình bày kích thước của các tinh cầu theo các tác giả.
Mặt trời không chuyển động.[1]
Mặt trời có chất thể, hình dạng, vận động, toả sáng, nhiệt, và nguyên động lực (generative power): những phẩm chất này tất cả đều phát xạ từ nó mà không suy giảm.
Mặt trời không hề thấy bất kì bóng tối nào.
Tán dương mặt trời
Nếu
bạn nhìn vào những tinh cầu không tia sáng (như khi nhìn vào chúng qua một cái
lỗ nhỏ đục bằng mũi kim cực nhỏ và và đặt sao cho hầu như áp sát mắt), bạn sẽ nhìn thấy những
tinh tú này rất nhỏ gần như thể không gì nhỏ hơn được nữa; thực sự thì cự li
thật xa là nguyên nhân cho sự thu nhỏ của chúng, vì nhiều tinh cầu trong số
chúng lớn hơn gấp nhiều lần cái tinh cầu vốn là địa cầu với nước. Vậy thử nghĩ xem, cái tinh cầu này của chúng
ta gần như ở một cự li vô cùng xa là gì, và rồi thử xem có bao nhiêu tinh cầu
có thể đặt vào kinh độ và vĩ độ giữa những tinh cầu này và rải rác khắp bóng
tối mênh mang này. Tôi có thể chẳng làm gì khác hơn là khiển trách nhiều người
trong số những người xưa khi họ cho rằng mặt trời không lớn hơn vẻ bên ngoài
của nó; trong số họ là Epicurus; và tôi tin rằng ông lí giải như vậy là từ
những hiệu quả của một nguồn sáng đặt trong tầng khí quyển của chúng ta có cự
li đều từ trung tâm; bất cứ ai thấy nó, không bao giờ thấy nó suy giảm kích
thước ở bất cứ cự li nào... nhưng ước gì tôi có ngôn từ dùng để khiển trách
những ai hân hoan tán tụng việc sùng bái con người hơn cả việc sùng bái mặt trời;
vì trong toàn vũ trụ, tôi không thấy một thực thể nào có kích cỡ lớn hơn và
mạnh hơn thực thể này, còn ánh sáng của nó thắp sáng mọi thiên thể phân phối
khắp vũ trụ. Mọi hoạt lực bắt nguồn từ nó bởi nhiệt trong những tạo vật phát
sinh từ linh hồn (tia sáng đời sống); và cũng không có nhiệt hay ánh sáng nào
khác trong vũ trụ... Và chắc chắn những ai đã chọn sùng bái những nhân vật như
những thần linh, chẳng hạn Mộc tinh, Thổ tinh, Hoả tinh, và những thứ tương tự,
phạm một sai lầm rất lớn, bởi ngay cả nếu một kẻ dù có to lớn như địa cầu, y hẳn
là có vẻ giống như một trong những thứ nhỏ nhất của những tinh cầu, có vẻ chỉ
là một cái đốm trong vũ trụ; huống chi những kẻ ấy đều phải chết và và phải chịu
huỷ hoại và thối rữa trong những nấm mồ.
[Tác phẩm] Spera và Marullo cùng những người khác đều tán dương mặt trời.[2]
BỐN NĂNG LỰC CỦA TỰ NHIÊN
Trọng
lực, cường lực, cùng với những chấn động, thường được cho là những cái sản sinh
ra sự vận động cũng như được sự vận động sản sinh ra. Trong ba năng lực ngẫu
nhiên này, thì hai loại năng lực có cùng một tính chất khi chúng phát sinh, xu
hướng, và kết cục.
Trọng lực, cường lực, đả kích và động lực là con cái của sự vận động bởi vì chúng được sinh ra từ đó. Trọng lực và cường lực luôn có xu hướng tử diệt và được duy trì bằng sự bạo liệt. Động lực thì thường xuyên là nguyên nhân cho sự vận động kéo dài xu hướng của vật thể vận động.
Hấp
lực cùng với chấn động không chỉ hoán đổi để được gọi là mẹ và các con gái, cái
này của cái kia và tất cả là chị em với nhau, bởi chúng đều có thể sản sinh do sự
vận động, nhưng chúng vừa là nhà sản sinh vừa là các con gái của sự vận động
này; bởi không có những thứ này trong chúng ta thì sự vận động không thể tạo ra
được, cũng không có năng lực như vậy được phơi mở nếu không có vận động.
ĐỀ CƯƠNG CHO CUỐN
SÁCH LUẬN VỀ CƠ HỌC LÍ THUYẾT
Luận
trước tiên về trọng lực [hấp lực]
rồi về sự chống đỡ của nó [tĩnh lực học]
rồi về sự ma sát
rồi về sự vận động [động lực học]
và cuối cùng về sự chấn động.
Trước tiên luận về trọng lực, tiếp theo là sự vận động tạo ra cường lực, rồi với cường lực này và cuối cùng về sự tác động.
Sắp xếp cuốn sách về những Nguyên tố của cơ học bằng những ví dụ trước việc chứng minh về sự vận động và cường lực của con người cùng những động vật khác và bằng những phương tiện ấy bạn có thể chứng minh mọi mệnh đề của mình.
Luận
văn của bạn về sự vận động của những vật thể nặng bàn về những dịch thể nặng,
về không khí, và về vận động của lửa. So sánh vận động của lửa với những lốc
xoáy trong không trung và trong nước và bạn sẽ thấy những xoáy lốc trong lửa
vốn có khả năng kết hợp những vòng xoay. Trong thí nghiệm này bạn có thể thực
hiện với những thiết bị đo và với nước đun sôi.
Về cơ giới
Tại
sao tự nhiên không thể cấp năng lực vận động cho những động vật mà không có
công cụ cơ giới, như tôi đã trình bày trong cuốn sách về sự vận động mà tự
nhiên đã tạo ra trong các động vật. Vì lí do này, tôi đã vạch ra những quy tắc
của bốn năng lực tự nhiên, thiếu chúng không gì có thể ban sự vận động cục bộ
cho những động vật này. Vì thế, chúng ta trước tiên sẽ mô tả sự vận động cục bộ
này, nó sản sinh và được sản sinh bởi một trong ba năng lực kia như thế nào.
Tiếp theo, chúng ta sẽ mô tả trọng lực tự nhiên, tuy không có trọng lực nào có
thể nói khác hơn là ngẫu nhiên nó làm hài lòng chúng ta để diễn tả nó như thế,
như vậy để biện biệt nó với cường lực trong mọi vận hành của nó thuộc tính chất
của trọng lực và do đó gọi là trọng lực ngẫu nhiên, và đây là cường lực sản
sinh ra bởi năng lực thứ ba của tự nhiên, nó là năng lực cố hữu và tự nhiên.
Năng lực thứ tư và cuối cùng được gọi là chấn động, nó cũng là chung kết và
kiềm chế của vận động. Vậy chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc cho rằng mỗi vận động
không cảm nhận được cục bộ sản sinh do một vận động cảm nhận được, hệt như
trong chiếc đồng hồ với quả lắc được một người lên giây cũng là kẻ khởi động
nó. Hơn nữa, những nguyên tố đẩy hoặc hút nhau, như ta nhìn thấy nước tống
không khí ra khỏi bản thân nó, và lửa đi vào theo nhiệt dưới đáy của nồi nước và
sau đó thoát ra bằng bong bóng trên mặt nước đang sôi. Cũng vậy, ngọn lửa hút không
khí vào nó, và nhiệt mặt trời hút nước trong dạng hơi ẩm bốc lên và sau đó rơi
xuống bằng cơn mưa lớn. Tuy nhiên, sự chấn động là năng lực bao la được phát
sinh trong những nguyên tố.
I. TRỌNG
LỰC
Nóng
và lạnh sinh ra từ khoảng cách gần hoặc xa mặt trời. Nóng và lạnh tạo sự vận động
cho các nguyên tố. Không nguyên tố nào tự thân nặng hoặc nhẹ...
Sự vận động phát sinh từ sự kiện những gì
loãng hơn có thể không đề kháng hoặc chống đỡ những gì đặc hơn.
Nhẹ sinh ra từ nặng và nặng sinh ra từ
nhẹ; và chúng đồng thời luân phiên sinh ra; đền đáp lại cùng lúc cái ân huệ của
sự tạo thành, chúng tăng trưởng về năng lực cũng như chúng tăng trưởng về đời
sống, và có đời sống hơn khi chúng có nhiều vận động hơn; và chúng huỷ diệt
nhau trong cùng khoảnh khắc trong sự báo thù chung về cái chết.
Như thế, đã được chứng minh, cái nhẹ không
được tạo ra trừ phi nó kết với nặng, cũng thế, nhẹ không hề tồn tại trừ phi nó
nằm bên dưới nặng... Và như vậy chính bằng những nguyên tố. Nếu, ví dụ, một
lượng không khí nằm bên dưới nước, nước sẽ lập tức hấp thu trọng lực; không
phải vì bản thân nó đã thay đổi, mà vì nó không gặp một lượng đề kháng thích
hợp; do đó, nó hạ xuống vị trí do không khí chiếm bên dưới nó, trong khi không
khí làm đầy chân không mà trọng lực đã bỏ lại.
Không
có nguyên tố nào nặng hoặc nhẹ trừ phi nó di động. Đất khi tiếp xúc với Nước và
Khí mà tự thân nó không nặng không nhẹ. Nó không có ý thức về Nước và Khí bao
quanh nó ngoại trừ khi chúng di động. Và điều này cho thấy bởi lá của những cây
khi mọc trên đất tiếp xúc với nước và khí, và không uốn cong ngoại trừ với vận
động của khí và nước.
Từ đó đi tới kết luận, nặng là một sự cố
do vận động gây ra từ những nguyên tố thấp hơn nằm ở nơi cao hơn.
Nhẹ là một hiện tượng tạo nên khi nguyên
tố loãng hơn bị kéo xuống bên dưới nguyên tố ít loãng... rồi hấp thu trọng lực
và gặp sự đề kháng không đủ từ nguyên tố loãng hơn ở bên dưới và rồi hấp thu độ
nhẹ.
Nhẹ không sinh ra ngoại trừ liên kết với
nặng, nặng cũng không sinh ra nếu không có nhẹ. Điều này có thể chứng tỏ: đưa khí
vào trong nước bằng việc thổi một ống dẫn, và rồi không khí này sẽ hấp thu độ
nhẹ và nước sẽ hấp thu độ nặng ở dưới nó, khí là một thực thể loãng hơn và nhẹ
hơn bản thân nước...
Khinh lực (levity) và hấp lực (gravity) tạo
ra do sự vận động tức thời. Sự vận động được tạo ra bởi nóng và lạnh.
Vận động là sự cố tạo ra do sự bất bình đẳng
của trọng lượng và cường lực...
Vận động của các nguyên tố phát sinh từ
mặt trời .
Khí nóng của vũ trụ do mặt trời sản sinh.
Ánh sáng và nhiệt vũ trụ phát xuất từ mặt
trời, còn khí lạnh và bóng tối của nó phát sinh từ sự rút lui của mặt trời.
Mỗi vận động của những nguyên tố phát sinh
từ nóng và lạnh.
Hấp lực và khinh lực được các nguyên tố
tạo ra.
Trọng lượng hình thành khi một nguyên tố
được đặt ở trên một nguyên tố khác loãng hơn bản thân nó.
Trọng
lực được tạo ra bởi một nguyên tố bị dẫn nhập vào trong một nguyên tố khác.
Trọng
lượng được tạo ra bởi một nguyên tố đặt vào trong một nguyên tố khác; và nó vận
động bằng đường ngắn nhất hướng tới trung tâm của nó, không do chọn lựa của nó,
không do trung tâm hấp dẫn nó; mà bởi nguyên tố khác can thiệp không thể cưỡng
lại.
Hấp
lực, cường lực, và vận động ngẫu nhiên cùng với chấn động, là bốn năng lực ngẫu
nhiên từ đó mọi công cuộc nhìn thấy của con người đều tồn tại và kết thúc.
Hấp lực
Hấp
lực là năng lực ngẫu nhiên, do vận động tạo ra và truyền vào trong những thực
thể trội ngoài vị trí tự nhiên của chúng.
Nặng và nhẹ
Hấp
lực và Khinh lực có năng lực bằng nhau được tạo ra bởi một nguyên tố chuyển
thành nguyên tố khác; trong mọi chức năng chúng đều giống nhau tới nỗi chúng có
thể bị gọi tên một năng lực duy nhất. Vì chúng chỉ biến hoá trong những thực
thể mà chúng truyền vào, và trong sự vận động tạo ra chúng và làm chúng mất đi.
Vật thể được cho là nặng và được tự do
thoát khỏi trung tâm thế giới; và mỗi vật thể có năng lực bằng nhau.
Trung tâm mọi hấp lực
Mỗi
hấp lực nặng thông qua tuyến trung tâm của vũ trụ bởi vì nó bị hấp dẫn tới trọng
tâm này từ mọi bộ phận.
Mỗi tuyến trung tâm vũ trụ phát sinh từ trung tâm thế giới và kết thúc ở trung tâm hấp lực của mỗi vật thể.
Trung tâm độ lớn của những vật thể được đặt ở giữa độ dài, độ rộng, và độ sâu của chúng. Trung tâm của hấp lực ngẫu nhiên của những vật thể này được đặt vào giữa những bộ phận này đề kháng và cân bằng nhau. Trung tâm của hấp lực tự nhiên chia một vật thể thành hai bộ phận với trọng lượng và khối lượng bằng nhau.
[Trong
chương 2, tiết 9 từ tác phẩm] Những
nguyên tố cho rằng trọng lực của mỗi hấp lực treo dừng lại ở phía dưới trung
tâm chống đỡ nó, vì thế:—Tuyến trung tâm là tên để chỉ những gì người ta hình
dung là tuyến thẳng từ vật thể tới trung tâm thế giới. Trung tâm của mọi hấp lực
treo muốn thống nhất với tuyến trung tâm chống đỡ của nó. Và hấp lực treo thì
di chuyển khỏi tuyến trung tâm chống đỡ
sẽ hấp thu thêm lực vượt quá lực của trọng lực tự nhiên của nó. Bây giờ, để kết
luận, tôi xác nhận nước trong một vũng xoáy thì có trọng lực là đường ở tâm
chạy tới cực của nó và mỗi trọng lượng nhỏ thêm các cạnh của nó là nguyên nhân khiến
xoáy này có vận động.
2. CƯỜNG LỰC VÀ
TRỌNG LƯỢNG
Ở
đây, có người hỏi trọng lực tự nó sinh ra hay bởi cường lực, hoặc cường lực sinh
ra do tự thân hay do trọng lượng.
Cường lực và trọng lượng dị biệt ra sao
Cường lực là yếu tính của tinh thần và do mãnh liệt ngẫu nhiên kết hợp với các vật thể nặng, hạn chế chúng khỏi đi theo xu hướng tự nhiên; và ở đây tuy thời lượng (duration) ngắn nhưng nó thường cho thấy bản thân có năng lực diệu kì.
Cường
lực và trọng lượng có nhiều điểm chung về mọi năng lực, chúng dị biệt chỉ trong
sự vận động khi sản sinh và tiêu vong. Vì trọng lượng đơn giản tiêu vong khi tới
chỗ sinh ra nó, còn cường lực thì sinh ra và chết đi với mọi vận động.
Trọng lượng là một năng lực tạo nên bởi
vận động để thành nguyên tố này sang nguyên tố khác bằng phương tiện của cường
lực, và độ dài cuộc đời nó tương ứng với nỗ lực muốn trở lại chỗ nó sinh ra.
Cường lực là sản phẩm của sự khan hiếm và
dồi dào. Nó là con của vận động vật chất và cháu của vận động tinh thần, là mẹ
và nguồn gốc của trọng lượng. Trọng lượng bị hạn chế với những nguyên tố nước
và đất, nhưng cường lực thì không bị giới hạn; vì nhờ nó, những thế giới vô hạn
có thể đặt vào vận động nếu nó có thể tạo ra những công cụ để cường lực này có
thể phát sinh.
Tinh thần của những động vật có cảm tính
vận động thông qua chi thể của chúng và khi những bắp cơ mà nó đi vào được đáp
ứng khiến cho chúng phồng lên, và vì chúng phồng lên, chúng thu ngắn và khi thu
ngắn thì chúng kéo những sợi gân nối với chúng. Từ đó phát sinh ra cường lực và
vận động của chi thể con người. Do vậy, vật thể này phát sinh từ vận động của tinh
thần.
Phẩm chất và khối lượng của cường lực
trong con người sẽ có năng lực sinh ra cường lực khác, và năng lực này càng lớn
về tỉ lệ thì vận động càng kéo dài hơn.
Trọng lượng và cường lực cùng với vận động của những cơ thể và chấn động là bốn năng lực của tự nhiên nhờ đó loài người trong nhửng tác phẩm diệu kì và đa dạng gần như tạo ra một thiên nhiên thứ hai trong thế giới này; vì bằng việc sử dụng những năng lực như thế, mọi tác phẩm có thể thấy của con người sự sinh ra và chết đi.
Cường
lực sẽ càng yếu nếu càng xa nguồn của nó.
Cường lực là gì?
Tôi
định nghĩa cường lực là một nhân tố vô hình thể, một năng lực vô hình, và bằng
những phương tiện của áp lực bên ngoài không tiên liệu tạo ra bởi sự vận động
dự trữ và khuếch tán bên trong những vật thể vốn kiềm chế và đi chệch khỏi công
dụng tự nhiên của chúng; cường lực truyền vào những vật thể này một đời sống
tích cực đầy năng lực diệu kì, nó thúc ép mọi tạo vật phải thay đổi hình dạng
và vị trí, và thúc dục kịch liệt tới sự tiêu vong chờ mong của nó, và thay đổi
tuỳ theo hoàn cảnh. Khi nó chậm lại thì sức mạnh gia tăng, và tốc độ làm suy
giảm nó. Nó được sinh ra trong bạo lực và chết trong tự do; và nó càng lớn bao
nhiêu thì nó càng chóng tiêu hao bấy nhiêu. Nó xua đuổi dữ dội bất cứ gì chống
lại sự phá huỷ của nó. Nó muốn chinh phục và giết chết nguyên nhân chống đối,
và trong quá trình chinh phục nó huỷ diệt bản thân. Ở đâu nó thấy chướng ngại
càng lớn thì nó trở nên mạnh mẽ hơn. Mọi thứ theo bản năng chạy trốn cái chết. Mọi
thứ khi chịu sự thúc ép thì bản thân nó cũng thúc ép những thứ khác. Thiếu cường
lực thì không có gì vận động. Thực thể mà từ đó nó được sinh ra không tăng
trưởng về trọng lực cũng như về hình dạng. Không có vận động nào mà nó tạo ra
là bền bỉ.
Nó gia tăng bằng nỗ lực và biến mất khi ngưng nghỉ. Vật thể mà trong đó nó bị hạn chế thì bị mất tự do. Thường thường cũng bằng những vận động để nó phát sinh ra cường lực mới.
Cường
lực thì vẫn y nguyên suốt mặt và toàn thể có trong từng bộ phận.
Cường lực là một năng lượng tinh thần, một
năng lực vô hình, nó tạo ra và truyền bởi bạo lực từ bên ngoài tới mọi vật thể
không có sự quân bình tự nhiên.
Cường lực không là gì khác ngoài một năng
lượng tinh thần, một năng lực vô hình, được tạo ra và được truyền, thông qua
bạo lực từ bên ngoài, bởi những vật thể có sinh hồn (animated) tới những vật
thể không sinh hồn, và cấp cho những thứ này một sư tương tự như đời sống, và
đời sống này tác động theo một cung cách diệu kì, thúc ép và chuyển hoá vị trí
và hình dạng mọi tạo vật. Nó mãnh liệt chóng đi tới sự lụn bại và tiếp tục biến
cải tuỳ theo tình huống.
Sự trì trệ củng cố, còn tốc độ làm suy yếu
nó.
Nó sống bằng bạo lực và chết bởi tự do.
Nó chuyển hoá và bức bách mọi vật thể phải
thay đổi vị trí và hình dạng.
Năng lực lớn cho nó sự ham muốn lớn về cái
chết.
Nó xua đuổi dữ dội bất kể những gì chống
lại sự huỷ diệt của nó.
Kẻ chuyển hoá các hình dạng khác nhau.
Luôn sống khó chịu với bất cứ ai kiềm chế
nó.
Luôn đối kháng với những ham muốn tự
nhiên.
Nó dần tăng trưởng từ những khởi đầu nhỏ
và tự làm thành một năng lực kinh khủng và diệu kì và bằng sự tự đè nén, nó
thúc ép mọi sự vật... nó trú trong những vật thể thoát li khỏi quá trình và
công dụng tự nhiên của chúng... sẵn lòng tiêu hao bản thân.
Cường lực xuyên suốt là đồng dạng đều khắp
và qua tất cả vật thể mà nó phát sinh.
Cường lực chỉ là sự ham muốn bay.
Nó luôn muốn là yếu và tự tiêu phí.
Tự thân bị thúc ép nó thúc ép mọi vật.
Thiếu nó, không gì vận động.
Thiếu nó, không âm thanh hoặc tiếng nói
nào được nghe thấy.
Hạt giống chân chính của nó nằm trong
những sinh thể.
Trọng lượg được truyền trọn vẹn bằng sự đề
kháng thẳng góc, và trong tất cả từng bộ phận của đề kháng.
Nếu một đề kháng nghiêng (oblique) chống
với trọng lượng bị thả lỏng và tự do, nó sẽ không đề kháng lại với trọng lượng;
trái lại nó sẽ hạ xuống cùng với cường lực để tàn lụi.
Tính chất của trọng lượng là tự truyền theo
bản tự ý nó tới vị trí mong muốn.
Mỗi bộ phận của cường lực chứa đựng toàn
lực—trái với trọng lượng. Thường thường chúng là những kẻ thắng lợi của cái này
lên cái khác.
Chúng có tính chất tương tự về áp lực và
kẻ mạnh khắc chế kẻ yếu. Trọng lực không thay đổi tự ý, trong khi cường lực thì
luôn đào thoát.
Trọng lượng mang tính hình thể còn cường
lực thì vô hình thể.
Trọng lượng là vật chất còn cường lực là
tinh thần.
Một đàng muốn thoát khỏi bản thân và sự
tiêu vong, đàng kia tìm sự ổn cố và
thường hằng.
Thường thường cái này phát sinh cái kia.
Nếu trọng lượng tạo nên cường lực, cường
lực là trọng lượng.
Nếu trọng lượng chinh phục cường lực,
cường lực là trong lượng.
Và nếu chúng có sức mạnh bằng nhau thì
chúng thành đồng bạn lâu dài.
Nếu một đàng là vĩnh hằng thì đàng kia sẽ
phải tiêu vong.
Nếu
bạn đang trên một con thuyền, và bạn dùng hết sức lực mà con thuyền vẫn không
di chuyển khỏi vị trí, trừ phi cường lực này mạnh hơn trở ngại bên ngoài con
thuyền hơn là thực hiện bên trong con thuyền. Lại nữa, nếu bạn bị trùm trong
một cái bao, và bạn ráng sức di chuyển, bạn sẽ thấy không thể di chuyển khỏi vị
trí; nhưng nếu bạn rút một chân ra khỏi cái bao và dùng như một đòn bẩy trên
mặt đất, đầu bạn trùm tới đáy bao, và lôi ngược nó ra.
Ngọn lửa cũng như vậy với mong muốn của nó là nhân lên và tự vươn ra khẩu đại pháo, vì trong khi nó hoàn toàn ở bên trong đại pháo thì không bị giật lại. Nhưng khi tia lửa này loé lên và đẩy không khí đang đề kháng trong khi vẫn giữ liên kết với lực đẩy dưới đáy, đó là nguyên nhân khiến đại pháo giật lại; vì thành phần của tia lửa loé lên không thể tìm trong không khí mà lối thoát tức thời mà nó đòi hỏi, đẩy cường lực của nó tới phía đối diện.
3. SỰ VẬN ĐỘNG
Định nghĩa về sự vận động
Vận
động trực tuyến là mở rộng từ điểm này tới điểm khác bằng tuyến ngắn nhất.
Vận động khúc tuyến là ở đó không có vận
động trực tuyến nào có thể tìm thấy ở bất kì bộ phận nào.
Vận động xoáy ốc được kết hợp bằng một
tuyến xiên và cong, như vậy những tuyến vẽ từ trung tâm ra chu vi có thể thấy
có các độ dài khác nhau. Và nó có bốn loại hình, xoắn ốc lồi, xoắn ốc phẳng,
xoắn ốc lõm, và thứ tư là xoắn ốc hình trụ.
Ngoài ra còn có loại vận động vòng tròn
luôn xoay quanh một điểm ở cự li đều nhau được gọi là xoay vòng. Cũng có những vận
động bất quy tắc vốn vô hạn và được kết hợp hỗn hợp từ các loại vận động nói
trên.
Khái quát về sự vận động
Nguyên nhân vận động là gì. Bản thân vận động là gì. Điều gì thích nghi nhất đối với vận động. Động lực là gì; nguyên nhân của vận động là gì; nó được tạo bằng phương tiện gì. Dao động là gì; nguyên nhân của nó là gì. Sự dội lại là gì. Đường cong của vận động trực tuyến và nguyên nhân của nó là gì.
Một
điểm không có bộ phận; một tuyến là chuyển tiếp của một điểm; những điểm là
những biên giới của một tuyến. Một khoảnh khắc không có thời gian. Thời gian
được làm bằng vận động của khoảnh khắc, và những khoảnh khắc là những biên giới
của thời gian.
Về sự vận động
Tôi thấy rằng cường lực cùng với thời gian là vô hạn; và trọng lực cùng với trọng lực của toàn bộ cơ giới địa cầu là hữu hạn. Tôi cũng thấy rằng hành trình của thời gian bất khả phân là sự vận động, và sự vận động này được làm bằng sự đa dạng, cụ thể là bằng tự nhiên, ngẫu nhiên, và dự phần; và việc vận động này dự phần kết thúc bằng năng lực lớn nhất của nó khi nó thay đổi từ ngẫu nhiên sang tự nhiên trong giữa quá trình của nó. Và tự nhiên mạnh mẽ hơn lúc kết thúc hơn tại bất kì nơi nào khác; tính ngẫu nhiên thì mạnh mẽ nhất trong vận động thứ ba và yếu nhất khi kết thúc.
Không
có vận động nào chậm tới nỗi có thể tìm ra một khoảnh khắc ổn định.
Vận động chậm hơn bao gồm ít cự li hơn
trong cùng thời gian.
Và vận động nhanh hơn bao gồm cự li nhiều
hơn trong cùng thời gian.
Vận động có thể đạt được những cấp độ chậm
vô hạn.
Trong năng lực vận động phát huy tốc độ chậm
vô hạn và cũng có thể nhanh vô hạn.
Sự vận động có năng lực phát huy thành tốc
độ vô hạn.
4. VẬN ĐỘNG VÀ
TRỌNG LƯỢNG
Về vận động và trọng lượng
Trong
những vận động bằng nhau thực hiện trong thời gian bằng nhau, nguyên động cơ (mover)
sẽ luôn có năng lực hơn là vật thể bị di động; và nguyên động cơ sẽ mạnh hơn
nhiều so với vật thể bị di động tỉ lệ với sự vận động của vật thể bị di động
này, và vượt quá trường độ vận động của nguyên động cơ; và sự dị biệt giữa sức phát
động của nguyên động cơ với sức của vật bị di động sẽ kém hơn rất nhiều tỉ lệ
với với trường độ của vận động tạo ra do vật bị di động và kém hơn vận động của
nguyên động cơ...
Chúng ta nhìn thấy điều này qua mũi tên
bắn ra từ cây cung, khi điểm của mũi tên tựa lên phiến gỗ; cho dù sợi dây đẩy
nó đi bằng tất cả cường lực của cây cung, nó chỉ có thể xâm nhập phiến gỗ rất
ít, nhưng trái lại nếu nó có một số vận động.
Có người cho rằng mũi tên khi di động nó kích khởi sóng không khí ở trước mặt, và qua sóng vận động này nó ngăn quá trình của mũi tên khỏi bị cản trở. Tuy nhiên, điều này không đúng, bởi mọi thứ bị di chuyển kiệt sức và cản nguyên động cơ của nó. Vì thế, không khí lưu hành trong những sóng phía trước mũi tên chính là do sự vận động của mũi tên này, và nó đem lại ít hoặc không giúp gì được cho sự vận động cho nguyên động cơ của nó, vốn phải bị di chuyển bởi cùng nguyên động cơ, thay vì chặn và rút ngắn sự vận động của vật bị di chuyển.
Mỗi
chất thể nặng vận động ở phía bên mà nó nặng nhất. Những vật thể nặng vận động
ở đâu gặp ít sự đề kháng nhất.
Bộ phận nặng nhất của những vật thể vận
động trong không khí trở thành kẻ dẫn đạo cho những vận động.
Chất thể nặng hạ xuống chậm hơn thông qua
không khí và có độ rộng lớn hơn.
Tiếp theo là chất thể nặng sẽ hạ xuống
nhanh hơn và có độ rộng kém nhất.
Sự hạ xuống tự do của mọi chất thể được hình thành dọc theo tuyến có đường kính lớn nhất.
Những
vận động của trọng lực có ba loại, trong đó hai loại trái ngịch nhau, còn loại
thứ ba dự phần vào cái thứ nhất hoặc cái thứ nhì.
Nguyên nhân khiến sự vận động tác động từ dưới lên trên trở nên càng yếu thì càng lên cao; mặt khác, trái lại, càng hạ xuống thì càng mạnh hơn. Trong khi loại thứ nhất rời bỏ vị trí cao độ mà không gây tổn hại đến loại thứ hai, nhưng trái lại, gây thiệt hại lớn cho bản thân nó và những thứ khác; loại vận động thứ ba theo hướng ngang và một nửa của nó tương tự trọng lực hạ xuống còn nửa kia thì giống trọng lực khi lên cao.
Chứng
cứ về tỉ lệ của thời gian và vận động cùng với tốc độ trong việc hạ xuống của
những thực thể nặng theo hình kim tự tháp, bởi những năng lực nói trên tất cả đều
có hình kim tự tháp, vì vậy chúng khởi đầu không có gì và tiếp tục gia tăng
những mức độ theo tỉ lệ số học.
Nếu bạn cắt hình chóp ở bất kì đoạn nào trong cao độ của nó bằng một tuyến có cự li đều với mặt đáy của nó, bạn sẽ thấy rằng tỉ lệ của cao độ của bộ phận từ mặt đáy của nó lên tới cao độ toàn bộ của hình chóp sẽ như nhau theo tỉ lệ giữa bề ngang của bộ phận này với lại bề ngang của toàn bộ mặt đáy.
Giờ
chúng ta thấy rằng khối lượng bất liên tục khi vận động tiếp thu ở mỗi giai
đoạn vận động một mức độ về tốc độ; và như vậy trong mỗi giai đoạn của thời
gian điều hoà chúng tiếp thu một trường độ về không gian của nhau và sự thủ đắc
này nằm trong tỉ lệ số học.
Về sự vận động
Trọng
lượng hạ xuống tự do tiếp thu một mức độ vận động với mọi cấp độ thời gian, và
với mọi mức độ vận động nó tiếp thu một mức độ về tốc độ.
Mặc dù sự phân chia đều nhau của vận động
về thời gian không thể phát biểu bằng những mức độ giống như vận động của những
vật thể, tuy nhiên trong trường hợp này tôi phải tạo ra những mức độ theo cách mà
chúng tạo ra [âm giai] đối với những nhạc sĩ.
Chúng ta hãy giả định trong mức độ đầu
tiên của thời gian, trọng lượng thủ đắc một mức độ vận động và một mức độ của
tốc độ, thì nó sẽ thủ đắc hai mức độ của vận động và hai mức độ của tốc độ trong
mức độ thứ nhì của thời gian và cứ tiếp tục như thế...
Sóng
của không khí được sản sinh bởi một vật thể đang di chuyển qua không khí sẽ
nhanh hơn nhiều so với vật thể làm nó di chuyển.
Đó là bởi vì không khí dễ phát tán, khi một vật thể di chuyển qua nó, nó tạo ra đợt sóng đầu tiên trong vận động đầu tiên, và đợt sóng đầu tiên không thể tạo ra mà không đồng thời gây ra một đợt sóng khác tiếp theo nó và tạo ra đợt sóng khác nữa. Và như thế, vật thể này di chuyển qua không khí tạo ra bên dưới nó trong mỗi giai đoạn thời gian những bội số của những đợt sóng trong sự phi hành chuẩn bị con đường cho sự vận động của nguyên động cơ.
Nếu hai vật thể có trọng lượng và hình dạng bằng nhau rơi xuống tiếp nối nhau từ một độ cao bằng nhau, một vật thể sẽ ở một mức độ cự li xa hơn vật thể kia trong mỗi mức độ thời gian.
Trọng lượng vốn có một độ hạ xuống tự do tiếp thu một mức độ trọng lượng theo mỗi mức độ vận động...
Trọng
lượng hạ xuống tự do có được một mức độ tốc độ theo mỗi giai đoạn vận động.
Và bộ phận của vận động được thực hiện trong mỗi mức độ thời gian càng trở nên dài hơn một cách liên tục.
Nếu
nhiều vật thể có trọng lượng và hình dạng bằng nhau được phép rơi tiếp theo
nhau vào những khoảng thời gian bằng nhau thì những thặng dư của những lần gián
đoạn sẽ bằng với nhau.
Việc thí nghiệm với kết luận ở trên ứng
vào vận động nên tiến hành theo cách này: ta lấy hai quả cầu có trọng lượng và
hình dạng bằng nhau rồi thả chúng xuống từ một độ rất cao, sao cho lúc bắt đầu
chuyển động chúng tiếp xúc với nhau; và người thí nghiệm sẽ ở vị trí trên mặt
đất phía dưới để quan sát xem khi rơi chúng có giữ sự tiếp xúc với nhau hay
không. Và thí nghiệm nàysẽ lập đi lập lại sao cho không có sự ngẫu nhiên có thể
xảy ra làm trở ngại hoặc xuyên tạc bằng chứng—vì sự thí nghiệm có thể sai và
cũng có thể hoặc không thể gạt được người thí nghiệm.
Về sự hạ xuống của trọng lượng
Mọi hành động tự nhiên được thực hiện bằng con đường ngắn nhất; và đây là lí do việc hạ xuống tự do của trọng lượng được thực hiện hướng tới trọng tâm của thế giới; bởi vì đó là cự li ngắn nhất giữa vật di động và độ sâu tột cùng của vũ trụ.
Mọi
trọng lượng có xu hướng hạ xuống trung tâm này bằng đường ngắn nhất; và ở đâu
có trọng lượng lớn hơn thì ở đó có xu hướng lớn hơn, và vật thể nặng nhất thì
rơi tự do nhanh nhất. Càng ít độ nghiêng của vật chất ngăn trở thì sự đề kháng
càng lớn. Trọng lượng truyền qua do bản chất để đi vào bất cứ những gì nâng đỡ
nó và như vậy nó xâm nhập từ nâng đỡ này tới nâng đỡ khác, nó trở nên nặng hơn
khi nó truyền từ vật thể này sang vật thể khác cho tới khi mó nhận ra xu hướng
của nó...
Trong
tác động ép và đè nặng, nó giống như cường lực. Trọng lượng bị chinh phục bởi
cường lực như cường lực bị chinh phục bởi trọng lượng. Người ta có thể thấy
trọng lượng không có cường lực, nhưng không thấy cường lực không có trọng
lượng. Nếu trọng lượng không có kế cận thì nó tìm kiếm dữ dội, trong khi cường
lực thì xua đuổi nó dữ dội.
Nếu trọng lượng muốn một vị trí thường
trực, thì cường lực sẵn sàng thoát khỏi nơi đó.
Nếu trọng lực muốn ổn cố, thì cường lực
luôn muốn tẩu thoát; trọng lượng tự thân không mệt mỏi, trong khi cường lực thì
không bao giờ tránh khỏi. Trọng lượng càng rơi càng nặng còn cường lực càng rơi
càng giảm. Nếu đằng này là vĩnh cửu thì đằng kia sẽ tiêu vong. Trọng lượng là
tự nhiên còn cường lực thì ngẫu nhiên. Trọng lượng muốn ổn cố và thường hằng,
còn cường lực mong muốn tẩu thoát và cái chết.
Trọng lượng, cường lực, và một cái đập
tương tự nhau về áp lực.
5. VẬN ĐỘNG VÀ CƯỜNG LỰC
Thứ
nhất. Nếu một lực di chuyển một vật thể nhất định tới một cự li xa trong một
thời gian nhất định, thì cùng lực này sẽ di chuyển phân nửa vật thể này cùng
thời gian với cự li gấp đôi.
Thứ nhì. Nếu bất cứ cường lực nào di
chuyển bất cứ vật di động nào tới một cự li nhất định trong một thời gian nhất
định, thì cùng cường lực này sẽ di chuyển phân nửa vật thể ấy toàn bộ cự li
bằng phân nửa thời gian này.
Thứ ba. Nếu một cường lực di chuyển một
vật thể trong một cự li nhất định thì cùng lực này sẽ di chuyển phân nửa vật
thể này và phân nửa cự li trong cùng thời gian.
Thứ tư.
Nếu một lực di chuyển một vật thể trong một thời gian nhất định tới một
cự li nhất định, thì phân nửa cường lực sẽ di chuyển trong cùng thời gian phân
nửa vật thể tới phân nửa cự li.
Thứ năm. Nếu một cường lực di chuyển một
vật thể trong một thời gian nhất định tới một cự li nhất định, thì không nhất
thiết lực đó di chuyển gấp đôi trọng lượng này với gấp đôi thời gian và gấp đôi
cự li này, bởi có thể cường lực này không thể di chuyển được vật thể này.
Thứ sáu. Nếu một cường lực di chuyển một
vật thể trong một thời gian nhất định, một cự li nhất định, không nhất thiết
phân nửa cường lực này di chuyển vật thể này trong cùng thời gian và phân nửa
cự li, vì rất có thể nó không có khả năng di chuyển nó.
Thứ bảy. Nếu hai cường lực tách biệt di chuyển hai vật thể tách biệt, cùng hai cường lực này kết hợp lại sẽ di chuyển trong cùng thời gian hai vật di động liên kết nhau tới cùng cự li, bởi tỉ lệ vẫn giữ như nhau.
Không
gì có thể di chuyển mà lại mạnh trong chuyển động đơn thuần của nó hơn được nguyên
động cơ của nó.
Về nguyên động cơ hoặc vật có thể di chuyển
Năng
lực của nguyên động cơ luôn luôn lớn hơn sự đề kháng của vật bị di chuyển.
Về sự vận động được thực hiện bởi những vật tỉ lệ với năng lực thúc đẩy chúng
Người
ta nên làm thí nghiệm với một cái nỏ hoặc năng lực nào không bị yếu dần đi, và
cũng thí nghiệm với những quả cầu hình dạng bằng nhau bằng những chất liệu và
trọng lượng khác nhau để thử xem cái nào đi xa nhất khỏi động lực, và thử với nhiều
hình dạng và kích thước khác nhau, độ rộng và độ dài, và tạo nên một quy tắc
chung. Tôi muốn biết trọng lượng bao nhiêu mà lực sẽ có để đẩy đi một cự li xa
nhất xa khỏi bản thân nó một trọng lượng khoảng một cân Anh [pound=450g] của
khối hình cầu.
Về năng lực của cái nỏ
Trọng
lực nạp vào cái nỏ có cùng tỉ lệ với trọng lực của mũi tên như vận động của mũi
tên cùng tỉ lệ với vận động của sợi dây.
Ở đây người ta phải khấu trừ ba sự đề kháng do không khí tạo ra, đó là mức chấn động của cánh cung từ nỏ tạo ra trong không khí, và chấn động của sợi dây; đề kháng thứ ba tạo ra bởi trở lực với mũi tên.
Nếu
sợi dây nỏ giương ra với trọng lượng bốn trăm cân Anh trên hình chữ v với vận
động của một phần ba của thước Ý (braccia), khi tự phóng đi nó sẽ giương hai
trăm cân Anh với hai phần ba của cự li thước Ý từ chữ v của nỏ; và một trăm cân
Anh sẽ rời khỏi vị trí của nó bằng lực như thế cho một không gian của một thước
Ý và một phần ba.
Và bạn giảm càng nhiều trọng lượng của vật
di động thì lực sẽ tạo nên một chuyển động lớn hơn, vì thế bạn sẽ luôn thấy
rằng chuyển động của sợi dây và chuyển động của vật thúc đẩy sẽ có cùng tỉ lệ
với trọng lượng giương sợi dây tới điểm v và với trọng lượng bị đẩy bởi sợi dây
(nếu không khí không hạn chế nó).
Một
người muốn cho cây cung bắn đi thật xa, y tất phải trụ hoàn toàn một chân còn
bàn chân kia nhấc lên tới mức xa khỏi bàn chân đang đứng sao cho có thể tạo đối
thế cần thiết giữ thăng bằng cho cơ thể sẽ lao tới phía trước bằng bàn chân thứ
nhất. Và cánh tay không được duỗi hết mức, và để chịu được sức kéo căng hơn, y
phải nắm một phiến gỗ như sử dụng trong các loại nỏ, rồi kéo trương tới ngực,
và khi muốn bắn y sẽ đột nhiên nhảy tới phía trước và đồng thời phát huy hết
mức của cánh tay với cây cung rồi buông sợi dây ra. Nếu thuần thục, y sẽ hoàn
thành mọi động tác cùng lúc và mũi tên sẽ bắn đi rất xa.
Lí do nêu ra với việc này như sau: chúng
ta biết rằng, bước nhảy tới phía trước thì nhanh, nó đem lại một mức độ mãnh
liệt cho mũi tên, và thứ hai, cánh tay trương ra đem lại một mức độ gia tốc;
thứ ba, sức đẩy của sợi dây cũng làm gia tốc. Do đó, nếu những mũi tên khác
được phóng đi bởi ba mức độ mãnh liệt, và ở đây được phóng đi bằng sự tinh xảo
bởi sáu mức độ thì nó sẽ đi với cự li gấp đôi. Và tôi phải nhắc nhở bạn để cho cây cung buông
lơi vì thế nó sẽ giữ độ căng và nẩy tới phía trước.
Tôi
có mười số đo thời gian và mười số đo cường lực và mười số đo vận động và mười
số đo trọng lực, và tôi muốn nâng trọng lượng này lên.
Nếu tôi tăng gấp đôi trọng lượng và không
phải cường lực khi vận động, điều này cần tăng gấp đôi thời gian.
Nếu tôi tăng gấp đôi trọng lượng và không
phải thời gian hoặc cường lực, việc này cần giảm một nửa sự vận động.
Nếu tôi tăng gấp đôi trọng lượng và không
phải sự vận động hoặc thời gian, việc này cần tăng gấp đôi cường lực.
Nếu tôi tăng gấp đôi trọng lượng và không
phải sự vận động hay thời gian, thì cường lực cần giảm một nửa.
6. ĐỘNG LỰC VÀ
CHẤN ĐỘNG
Vận động sơ khởi là gì
Vận
động sơ khởi được tạo ra bởi vật di động trong thời gian khi nó liên kết với nguyên
động cơ.
Về sự vận động phái sinh
Vận
động phái sinh (derived) là vật thể có thể di động xuyên qua không khí, sau khi
nó đã bị tách ra khỏi nguyên động cơ. Những vận động phái sinh bắt nguồn từ vận
động sơ khởi và nó không bao giờ có tốc độ hoặc năng lực bằng với tốc độ hoặc
năng lực của vận động sơ khởi này. Lộ trình của vật di động sẽ phù hợp với
phương hướng của lộ trình của nguyên động cơ khi tất cả những bộ phận của vật
di động này có vận động bằng với vận động sơ khởi của nguyên động cơ.
Định nghĩa về động lực
Động
lực (impetus) là năng lực tạo ra bởi vận động và truyền từ nguyên động cơ tới
vật di động; và vật di động này có nhiều vận động bằng với động lực có sức
sống.
Về động lực
Động
lực là ấn tượng của vận động được truyền bởi nguyên động cơ tới vật di động.
Động lực là một năng lực tác động bởi nguyên
động cơ lên vật di động.
Mọi ấn tượng có xu hướng thường hằng hoặc
muốn trường cửu. điều này cho thấy trong tác động do mặt trời tạo ra trong mắt
của người quan sát và trong ấn tượng về âm thanh tạo ra bằng quả lắc như khi nó
khua cái chuông.
Mỗi ấn tượng muốn trường cửu như khi thấy
qua hình ảnh về sự vận động tạo ấn tượng lên vật di động.
Động lực là gì
Động
lực dưới một tên khác được gọi là vận động phái sinh, nảy sinh từ vận động sơ
khởi, nghĩa là khi vật di động liên kết với nguồn phát sinh.
Không bộ phận nào thuộc vận động phái sinh
mà ta thấy có tốc độ bằng với tốc độ của vận động sơ khởi. Chẳng hạn, trong mỗi
giai đoạn vận động của dây cung có sự thất thoát lực đã tiếp thu mà nguồn phát
sinh đã truyền vào. Và bởi mỗi hiệu quả tham dự vào nguyên nhân của nó, cho nên
việc vận động phái sinh của mũi tên làm giảm lực theo những mức độ, và như vậy,
tham dự vào lực của cây cung như nó đã sản sinh ra sao thì mức độ bị huỷ cũng thế.
Động lực giản đơn là động lực di chuyển
mũi tên hoặc lao qua không khí. Động lực hợp lực là động lực di chuyển viên đá như
khi nó phát sinh từ cái ná.
Tôi
hỏi tại sao cái giáo hoặc cái roi săn lại có vận động lớn hơn cánh tay. Tôi cho
rằng, điều này xảy ra bởi vì bàn tay vạch một vòng rộng hơn nhiều khi cánh tay
di chuyển hơn là khuỷu tay; vì vậy, khi chuyển động cùng lúc, bàn tay bao trùm không
gian nhiều gấp hai lần so với khuỷu tay, do đó có thể nói là tốc độ gấp đôi so
với vận động của khuỷu tay, và như vậy, nó phóng vật thể đi một cự li xa hơn
khỏi bản thân nó.
Vậy, bạn thấy rõ ràng vòng cung do khuỷu
tay vạch ra kém phân nửa và tốc độ chậm phân nửa.
Đúng rằng, nếu ta trừ đi từ vận động tạo
ra bởi bàn tay một số lượng bằng với vận động tạo ra bởi khuỷu tay, những vận
động này có độ chậm bằng nhau.
Có
hai loại chấn động khác nhau, giản đơn và phức tạp. Giản đơn thì được tạo ra
bằng vật di động đang rơi lên mục tiêu của nó. Phức tạp là danh xưng dùng gọi
khi sự chấn động đầu tiên này vượt ra ngoài sự đề kháng của vật thể nó đập vào
đầu tiên, như trong cú nện vào cái đục của nhà điêu khắc từ đó chuyển sang khối
cẩm thạch mà y đang tạc. Cú nện này cũng chia ra thành hai loại khác, là cú nện
giản đơn và kép. Nện giản đơn đã được mô tả đầy đủ. Nện kép xảy ra khi cái búa
giáng lực trong vận động tự nhiên của nó rồi bật dội lại khỏi cú nện lớn hơn để
tạo ra cú nện kém hơn và khiến việc chấn động này ở trong hai chỗ, với hai bên
đối nghịch của cái búa. Và cú nện này càng yếu đi về tỉ lệ với số trở lực xen
vào giữa sự đề kháng cuối cùng, hệt như nếu một người đập lên những trang đầu
quyển sách, cho dù mọi trang đều tiếp xúc nhau, trang cuối vẫn cảm giác tổn
thất nhẹ.
Về sự vận động và chấn động
Nếu
một người hạ xuống bằng việc nhảy từ bậc này xuống bậc khác, bạn cộng lại tất
cả lực chấn động và trọng lượng của những bước nhảy này lại với nhau, bạn sẽ
thấy chúng bằng với toàn bộ chấn động và trọng lượng mà một người tạo ra nếu ngã
xuống bằng một tuyến thẳng góc từ chóp tới đáy theo độ cao của chiếc cầu thang
này.
Hơn nữa, nếu người này ngã xuống từ một độ
cao, rồi cứ từng chặng va lên những vật đàn hồi như lò xo, theo cách này, và
việc dao động từ nấc này tới nấc khác làm nhẹ đi, bạn sẽ thấy rằng ở bộ phận hạ
xuống cuối cùng, người này sẽ có được sự dao động giảm đi nhiều so với việc rơi
xuống tự do theo tuyến thẳng góc, và hẳn cũng sẽ vậy nếu mọi chấn động được trừ
đi ở mỗi nấc hạ xuống nói trên lên những vật đàn hồi nói trên.
Mỗi
vật thể hình cầu có bề mặt dày và chịu được áp lực khi di chuyển bằng một lực
bằng nhau sẽ tạo ra nhiều vận động đàn hồi được tạo ra bởi sự va chạm của nó
lên một sàn bê-tông như thể nó bị ném tự do qua không khí.
Thật đáng khâm phục sự công bình của Ngài,
hỡi Kẻ phát động Đầu tiên! Ngài đã không muốn bất kì năng lực nào bị tước đi
khỏi những quá trình hoặc những phẩm chất cho những kết quả thiết yếu của nó;
vì, nếu một lực có khả năng thúc đẩy một vật thể bị nó chinh phục, là một trăm
thước Ý, thì vật thể này trong khi phục tùng nó, sẽ đối phó với trở ngại nào
đó, Ngài đã an bài cho cường lực va chạm tạo ra một vận động mới, bằng những
đàn hồi đa dạng để hồi phục toàn bộ khối lượng của cự li mà nó ngang qua.
Và nếu bạn muốn đo lường đường đi mà những
giới hạn này tạo ra, bạn sẽ phát hiện nó có cùng trường độ như nó được tạo ra
bởi một vật thể tương tự thúc đẩy tự do qua không khí có cùng một cường lực.
Tạo
sao dẫn khởi lại là cú đập thay vì được tạo nên do sự vận động; cú đập đã hoạt
động chức năng của nó trước khi vật thể khởi đầu quá trình của nó.
Cú
đập được sinh ra từ cái chết của vận động, còn vận động sinh ra từ cái chết của
cường lực.
Cường lực được tạo ra do sự vận động tiêm
vào trọng lực, và cũng vậy, đả kích được tạo ra do vận động tiêm vào trọng
lượng.
Về
cú đập và chuyển vị gây ra do trọng lượng hoặc cường lực.
Tôi cho rằng sự chuyển vị do trọng lượng
tạo ra khi rơi thì bằng với chuyển vị do cường lực tạo ra.
Vật thể khi nhận cú đập mà không bị tổn
thương cũng rất giống như trong phần đối diện khi nó nằm trong bộ phận bị đập.
Điều này có thể chứng minh khi một tảng đá bị đập khi nằm trong đôi tay một
người, vì bàn tay không bị thương khi cầm khối đá như đáng lẽ sẽ bị nếu nó thật
sự bị đập.
Luôn
xác định tỉ lệ cú đập đối với vật thể nhận lãnh.
Bởi vì một trăm cân dùng trong một cú đập
thì tạo nên chấn động lớn hơn là một triệu cân mà ứng dụng từng cân một, tôi
khuyên rằng khi bạn nhắm cái búa máy (battering ram) công kích vào thành trì,
bạn nên tạo cú đập để quăng lên không trung bằng trọng lượng của một số người, tiếp
theo bạn kéo nó lại giống như cái máy bắn đá (catapult) hoặc cái nỏ, thì bạn sẽ
có được hiệu quả tốt.
Một cú đập là chung kết của vận động tạo ra trong một thời gian không thể phân chia, bởi vì nó được tạo ra ở điểm cuối của tuyến vận động tạo ra do trọng lượng vốn là nguyên nhân của cú đập.
Nếu cái búa nặng mười cân đóng một cái đinh vào tấm gỗ bằng một cú đập, thì cái búa nặng một cân sẽ không đóng hết cái đinh vào tấm gỗ trong mười cú đập. Cái đinh về độ lún sâu cũng sẽ kém hơn một phần mười (so với cái đầu tiên) do cái búa nói trên bằng một cú đập đơn độc tuy có thể bằng nhau về tỉ lệ như những cú đập đầu tiên, nhưng bởi độ cứng của gỗ không giảm tỉ lệ đề kháng, cho nên nó vẫn giữ độ cứng như trước. Nếu bạn muốn xử lí những tỉ lệ vận động của những vật thể xâm nhập vào tấm gỗ khi đóng vào bằng lực đập, thì bạn phải xem xét tính chất của trọng lực gõ vào và chỗ gõ vào nằm ở đâu.
Tôi
cho rằng mọi vật thể khi di chuyển hoặc bị đập vẫn tự giữ trong một khoảng thời
gian tính chất của cái đập hoặc vận động của cú đả kích này, và giữ nó tỉ lệ
với sức hoặc vận động lớn hoặc nhỏ của cường lực đập này. Hãy quan sát một cú
đập lên cái chuông xem nó lưu giữ trong bản thân nó âm thanh của chấn động này.
Hãy quan sát một khối đá bắn đi từ một
khẩu đại pháo xem nó bảo tồn được bao lâu tính chất của vận động...
Con mắt giữ được trong nó những hình ảnh về những vật phát quang trong một thời gian nhất định.
Tôi nói rằng, sự chấn động là chấm dứt của vận động nhanh của những vật thể đập lên những vật đề kháng. Nó cũng là nguyên nhân của mọi âm thanh và là vật phá huỷ và vật chuyển hoán những vật thể khác nhau, là sản phẩm của một vận động thứ nhì. Không có năng lực nào mạnh hơn và nó tiếp tục cải biến tuỳ theo tình huống.
Tiếng
gióng chuông còn giữ lại ấn tượng giống như ánh mặt trời trong mắt hoặc hương
thơm trong không khí; nhưng chúng ta muốn biện biệt sự tương tự của tiếng gióng
lưu lại trong cái chuông hoặc trong không khí và điều này được xác định bằng
việc áp tai bạn lên bề mặt của cái chuông sau khi gióng. Tiếng gióng gây ra
trong cái chuông sẽ tạo nên sự đáp ứng và một số vận động nhẹ nào đó trong một
cái chuông khác tương tự như bản thân nó; và sợi dây đàn lute khi nó phát ra âm
thanh sẽ tạo nên đáp ứng và vận động trong một sợi dây khác giống như âm điệu
trong một cây đàn lute khác; và bạn sẽ thấy điều này bằng việc đặt một sợi rơm
lên dây đàn tương tự như sợi dây đã phát ra âm thanh.
II. CƠ HỌC
NHỮNG THAM CHIẾU CHO CÁC SÁCH VỀ CƠ HỌC ỨNG DỤNG
Đầu
tiên nói về vận động, rồi về trọng lượng do vận động phát sinh, rồi về cường
lực tiến triển từ trọng lượng và vận động, rồi về chấn động phát sinh từ trọng
lượng, vận động và thường là từ cường lực.
Nói về vận động và động lực.
Nói về những bánh xe quay một chiều.
Nói về những bánh xe quay tới và quay lui.
Nói về bánh xe bổ sung.
Nói về những đinh ốc chuyển động không
ngừng.
Nói về những cối xay và những bộ máy di
chuyển và lao tới.
Nói về bánh răng cưa.
Đầu tiên nói về những cực.
Rồi về những bánh xe và những ván lót
không răng cưa.
Rổi về những bánh xe và những ván lót với
dây thừng và với răng cưa.
Và bạn sẽ nói rằng bánh răng cưa đáng ca
ngợi nhất trong tự nhiên, vận động và dàn dựng.
Giờ
xem cuốn sách về những Nguyên tố trong cơ học, bạn sẽ tìm ra định nghĩa về đinh
ốc.
I. MA
SÁT
Ma sát
Sự
ma sát chia thành ba bộ phận: giản đơn, phức hợp và bất quy tắc.
Ma sát giản đơn được tạo bởi vật di chuyển
tại chỗ nó bị lôi kéo.
Ma sát phức hợp là vật thể di chuyển giữa
hai vật không thể chuyển.
Ma sát bất quy tắc tạo ra bởi cái nêm có
nhiều cạnh khác nhau.
Về sự ma sát
Vận động của ma sát được chia thành nhiều phần trong đó với một phần giản đơn còn mọi phần khác là phức hợp. Giản đơn, khi vật thể bị kéo dọc theo một bề mặt trơn phẳng mà không có sự can thiệp nào. Đây là sự ma sát duy nhất tạo ra lửa khi khi nó mạnh mẽ—có thể nói rằng nó sinh ra lửa—như có thể thấy những bánh xe nước khi nước được vận chuyển giữa sắt mài bén và bánh xe. Những ma sát khác là phức hợp và được chia thành hai bộ phận; thứ nhất là khi có bất cứ độ bôi trơn của một số chất thể mỏng nào đó trung gian giữa những vật thể cọ xát nhau; và thứ hai, khi một sự ma sát bổ sung được du nhập, như sự ma sát của trục bánh xe. Loại thứ nhất trong những thứ này lại chia thành hai phần, đó là độ bôi trơn, là được chêm vào giữa, và những viên bi và những thứ đại loại.
Trở
lực do ma sát tạo ra với vận động của trọng lượng thì tách ra và rời khỏi trọng
lượng này.
Nguyên nhân
Điều này cho thấy qua những gì nói ở trên, hiển nhiên là sự vận động do những trọng lượng tạo ra theo những tuyến nằm ngang tự nó không đưa ra bất cứ trở lực nào đối với nguyên động cơ của nó ngoài sự ma sát của chính nó do nó tạo ra với cái bề mặt mà nó chạm vào; và vận động càng khó khăn hơn về tỉ lệ khi bề mặt càng thô nhám.
Ai biết được trọng lượng kéo một trăm cân lên trên con đường dốc này thì biết được khả năng của cái đinh vít. Để biết được chính xác khối lượng của trọng lượng cần thiết di chuyển một trăm cân lên con đường dốc người ta phải biết tính chất tiếp xúc của trọng lượng này với bề mặt nó cọ sát khi di chuyển, bởi vì những vật thể khác nhau có những ma sát khác nhau; vậy, hãy cho hai vật thể có bề mặt khác nhau, một bề mặt mềm và được mài nhẵn, thoa mỡ hoặc xà phòng, rồi cho di chuyển trên bề mặt có độ trơn tương tự, nó sẽ di chuyển dễ dàng hơn nhiều so với bề mặt gồ ghề do vôi hoặc bị giũa, vì thế, khi nào bạn muốn biết khối lượng của cường lực cần tới để kéo cùng một trọng lực lên trên mặt đường có độ dốc khác nhau, bạn phải làm thí nghiệm và xác định khối lượng cường lực cần tới là bao nhiêu để di chuyển trọng lượng dọc con đường bằng phẳng, để xác định tính chất ma sát của nó...
Những độ dốc khác nhau tạo ra những mức độ trở lực khác nhau khi tiếp xúc; bởi, nếu vật nặng phải di chuyển trên nền phẳng và được kéo đi, tất nó sẽ là trở lực lớn đầu tiên, vì mọi thứ nằm trên mặt đất và không có gì trên sợi dây phải di chuyển nó. Nhưng nếu bạn muốn kéo vật đó lên một con đường rất dốc thì toàn bộ trọng lượng dồn vào chính sợi dây chống đỡ nó bị giảm lực ma sát; nhưng có một lí khác do hiển nhiên hơn: bạn biết rằng, nếu người ta kéo nó lên thẳng hơi sượt qua và chạm một bức tường thẳng góc, thì trọng lượng hầu như toàn bộ nằm trên sợi dây kéo và nằm rất ít trên bức tường mà nó cọ vào.
Một
vật thể hoàn toàn bị tiêu mòn do ma sát trong vận động trường kì sẽ bị tuêu mòn
một phần ngay khởi đầu vận động này.
Điều này chứng minh rằng không thể đưa ra
hay thực hiện bất cứ gì với độ chính xác tuyệt đối. Vì nếu bạn muốn tạo một
vòng tròn hoàn hảo bằng việc di động một trong những điểm của compass, khi bạn
thừa nhận điều nêu trên, và điểm này của compass có xu hướng bị mòn đi trong
quá trình di động lâu dài, tiếp theo toàn bộ điểm sẽ cần thiết bị mòn đi trong
một khoảng thời gian nhất định và bộ phận này sẽ tiêu mòn một phần này; và khởi
đầu sự tiêu mòn đó sẽ là thời gian cực thiểu trong thời gian không thể chia.
Và cũng vậy, điểm đối nghịch của những
compass này khi nó quay quanh trung tâm của vòng tròn thì cũng bị tiêu mòn ở
mỗi nấc vận động trong khi cũng làm tiêu mòn chỗ mà nó dừng lại; vì vậy, chúng
ta có thể nói rằng kết thúc của chu vi không nối liền khởi điểm của nó, nhưng
gần hơn với tâm vòng tròn một cách không thể cảm nhận được.
2. NHỮNG CÔNG CỤ ĐỂ CÂN
Lấy
một cái đòn có trọng lượng và độ dầy đều nhau, để cái đòn này treo lên cái trụ
ở trọng tâm của nó, hoặc ở một bộ phận có trường độ nhất định; vậy, cái đòn
treo này chúng ta gọi là cái cân hay bàn cân, và những bộ phận nhô lên khỏi cái
trụ ta gọi là cán cân...
Mở đầu cuốn sách về trọng vật
Thứ nhất. Nếu những trọng vật, cán cân, và những vận động nghiêng đều nhau thì những trọng vật này sẽ không di động lẫn nhau. Thứ hai. Nếu những trọng vật nghiêng bằng nhau, và bằng nhau, di động nhau và tiếp theo là những cán cân không bằng nhau. Thứ ba. Nhưng nếu những trọng lực bằng nhau trong cán cân và cái cân di chuyển nhau, và rồi những vận động của những trọng vật sẽ có độ nghiêng không bằng nhau. Thứ tư. Nếu những trọng vật trên cán cân có độ nghiêng vận động của những trọng vật này đều bằng nhau, vậy thì những trọng vật này sẽ cho thấy bản thân chúng không bằng nhau nếu những vật phụ có độ nghiêng của chúng không bằng nhau.
Việc sắp xếp cuốn sách như sau: Đầu tiên là những trụ đơn giản, và rồi chống đỡ từ bên dưới, rồi treo lên một phần, rồi toàn bộ, rồi để cho những trụ này chống đỡ những trọng vật khác.
Luận về trọng lực tỉ lệ với năng lực di chuyển nó. Người ta phải xem xét trở lực của phương tiện mà từ đó một trọng vật di chuyển; và một luận văn sẽ phải viết về chủ đề này.
Để
kiểm tra một người và xem coi y có phán đoán đúng về tính chất của hai cán cân
bằng nhau của một cái cân hay không, có thể hỏi, từ chỗ nào bạn nên chia một
trong hai cán cân của bàn cân sao cho phần chia nếu bổ sung vào cuối phần còn
lại, có thể tạo nên một trọng lượng đối trọng chính xác với cán cân đối diện.
Chỗ nào không thể được; và nếu y chỉ ra một chỗ, y là một nhà toán học tồi.
Khoa học về cân bị sai lầm ở điểm nào trong thực hành
Khoa
học về cân bị sai lầm do những thực hành, và trong nhiều ví dụ không hoà hợp
với khoa học này, và cũng không có khả năng đem nó vào hoà hợp; và điều này tạo
ra bởi trục cân mà khoa học về cân đã hình thành, mà những trục cân căn cứ theo
những triết gia cổ đại vốn được đặt như những trục của tuyến trong toán học và
trong một số trường hợp như những điểm trong toán học và những điểm và tuyến
này đều không có thực chất, trong khi đó việc thực hành làm cho chúng có được
thực chất, bởi tính thiết yếu đòi hỏi điều này vì sự chống đỡ cho trọng lực của
những cái cân này cùng với những trọng lực điều chỉnh bên trên chúng. Tôi phát
hiện rằng người xưa sai lầm trong việc tính toán trọng lực, và sai lầm này nảy
sinh từ một bộ phận đáng kể trong khoa học của họ, họ đã ứng dụng trục vốn có
thực chất trong một bộ phận đáng kể về những trục toán học, chẳng hạn như chúng
tồn tại trong lí tưởng chứ không trong thực chất; và những sai lầm tôi sẽ nêu
ra dưới đây.
Trung
tâm của độ dài mỗi cán cân là trung tâm đích thực của trọng lực.
Cán cân được cho là khoảng cự li tìm ra
giữa trọng lượng gắn liền với cái cân và trục của nó.
Rằng tỉ lệ tồn tại trong khoảng cự li giữa những trung tâm cán cân và trục cân, cũng như với trọng lượng đối lập mà cán cân tự nó đưa ra để đối trọng với cái cán làm đối trọng của phía bên kia.
Tuyến trung tâm nội bộ được cho là khởi đầu từ trung tâm thế giới, từ đó hình thành một tuyến thẳng liên tục chạy qua trung tâm của vật chất nặng treo trong một lượng không gian vô hạn.
Trung
tâm của bất cứ vật thể nặng nào là bất cứ gì đứng theo tuyến thẳng góc ở dưới
trung tâm sợi dây trên đó nó được treo. Tôi muốn hỏi, nếu bạn treo cái trụ bên
ngoài trung tâm độ dài của nó thì mức độ nghiêng của nó giả định là bao nhiêu.
Cái trụ được treo ngoài trung tâm độ dài
của nó bằng một sợi dây duy nhất sẽ có một độ nghiêng như thế, giống như sẽ tạo
ra với những phía đối ngịch của nó cùng với sự thẳng góc của trung tâm sợi dây
chống đỡ cho nó tạo thành hai góc nhọn đều nhau hoặc hai góc tù đều nhau.
3. NHỮNG BÁNH XE VÀ TRỌNG LỰC
Bánh xe khi quay trên cái trục, nó làm cho một phần cái trục trở nên nhẹ hơn và đàng khác bị nặng hơn thậm chí nặng hơn gấp đôi lúc đầu khi nó không di chuyển khỏi vị trí của nó.
Trong một cân tròn, không vật thể nặng nào sẽ nâng lên hơn mức trọng lượng của bản thân nó bằng cường lực từ trọng lượng đơn thuần của nó.
Tôi sẽ gọi cân tròn là cái bánh xe hay bánh cuốn dây (ròng rọc) nhờ đó nước được kéo lên khỏi giếng, và người ta chẳng bao giờ áp dụng hơn mức trọng lượng của nước được nhấc lên.
Nếu bạn muốn hiểu chắc chắn chức năng và lực của cái ròng rọc, bạn cần phải biết trọng lượng của vật làm di chuyển hoặc trọng lượng của vật bị di chuyển; và nếu bạn biết rằng vật làm di chuyển nhân lên bổi số những bánh xe ròng rọc, và tổng kết quả sẽ là trọng lượng toàn bộ có thể di chuyển bởi vật di chuyển.
Nếu bạn gia tăng số cân (pound) từ thể trọng của bạn bằng số bánh xe đặt trong ròng rọc, bạn sẽ thấy con số của toàn bộ kết quả sẽ là toàn bộ số cân có thể nâng lên với trọng lượng của bạn.
Do một giờ có thể chia thành ba ngàn phần, bạn có thể thực hiện việc này qua phương tiện cái đồng hồ, bằng việc đặt cái quả lắc cao hơn hoặc nặng hơn
Khi sức gắn bó của vật nặng đi xa khỏi trung tâm bánh xe thì việc di chuyển quay vòng của bánh xe quanh trục của nó trở nên khó khăn hơn mặc dù động lực có thể không thay đổi. Cũng giống vậy đối với thời gian của những chiếc đồng hồ, vì, nếu bạn đặt hai vật nặng gần hơn hoặc xa hơn khỏi trung tâm đồng hồ, bạn làm cho giờ ngắn hơn hoặc dài hơn.
Sự
kiện là một vật thể có thể vừa nâng lên hoặc kéo đi tạo nên sự khác biệt lớn về
tính khó khăn đối với nguyên động cơ của nó; vì nếu nó nặng một ngàn cân và di
chuyển đơn thuần bằng việc nhấc lên, thì bản thân nó cho thấy là một ngàn cân; trong
khi đó nếu kéo lên thì trọng lượng của nó kém đi một phần ba; và nếu được kéo
bằng những bánh xe thì trọng lượng của nó giảm nhiều theo mức độ tỉ lệ với kích
thước bánh xe, và cũng căn cứ theo số bánh xe nhân lên. Khi tương đồng về thời
gian và vận lực, nó có thể tạo ra cùng lộ trình, vời những cấp độ khác nhau về
thời gian và vận lực cũng như tương đồng về thời gian và chuyển động; việc này
được thực hiện chỉ bằng việc nhân lên số những bánh xe trên đó và những trục
cũng phải nhân lên.
4. ĐINH ỐC
Đinh ốc nào có độ dày bằng nhau thì việc tạo rãnh trên nó sẽ hết sức khó khăn. Và trong số những đinh ốc có độ dài và độ dầy bằng nhau, và con số đường sống (ridge) với cái nào có số đường cong trong đường sống nhiều nhất bạn sẽ thấy dễ di động nhất.
Vitruvius cho rằng [trong De Architectura, x.16.5] những mô hình nhỏ không giúp ích cho việc xác định hiệu quả của những mô hình lớn; vậy ở đây tôi đề xuất nhằm chứng minh rằng kết luận này là sai. Và chủ yếu bằng nêu lên chính cái luận cứ đã dẫn ông đến cái kết luận này; tức là, bằng việc thí nghiệm với một mũi khoan. Vì ông chứng minh rằng nếu một người, dùng một sức lực nhất định, tạo ra một cái lỗ có đường kính nào đó, và sau đó là một cái lỗ có đường kính gấp đôi, việc này không thể làm được chỉ với việc vận dụng gấp đôi sức lực, mà cần nhiều hơn. Đối với việc này, người ta có thể đáp lại rất rõ ràng rằng, một cái mũi khoan có đường kính gấp đôi không thể di chuyển bằng sự vận lực gấp đôi bởi vì bề mặt của vật có hình dạng tương tự và có gấp đôi chiều rộng thì gấp bốn lần số lượng và năng lực so với vật nhỏ.
[1] Một phát biểu tương tự của Galilei hơn
một trăm năm sau đã bị kết án là dị giáo
[2] Tác
phẩm Spera của tác giả Goro Dati,
Florence, 1482, những dòng 16-22 ca tụng mặt trời. Còn tụng ca mặt trời của Marullus được phát
hành trong Hymni et epigrammata của
M. Tarcaniota, Florence, 1487.
*
CHƯƠNG III
PHI HÀNH
Vasari kể lại rằng
Leonardo thường mua chim bị nhốt trong lồng để phóng sinh vì ông xót thương cho
hoàn cảnh cầm tù của chúng. Một động cơ khác có thể là viện ông thán phục cách
bay của chúng,và thường xuyên là nguồn cảm hứng cho ông. Ông thích nhìn chúng
di chuyển trong không trung, bay vút, lượn, lướt, và vỗ cánh, ông so sánh hành
vi của chúng với hành vi của những côn trùng và dơi khi đang bay và trong khi
ông vẽ những hành động tức thời của chúng trong bút kí. Ở đây chúng ta cũng
thấy những miêu tả cấu trúc đôi cánh và đuôi, cùng với những diễn tả việc hợp
lực của chúng khi lái cơ thể.
Mối quan tâm này sát cánh cùng với việc
nghiên cứu về môi trường trong đó xảy ra việc bay xảy ra. Không khí phản ứng
như thế nào? Ở đây là cơ hội để nghiên cứu về những năng lực của tự nhiên, như
trọng lượng, vận động, và động lực tác động vào một trong bốn nguyên tố, và để
so sánh và tương phản tính chất của chúng với tính chất của một nguyên tố khác
mà ông đã nghiên cứu—nước. Bằng cách nào mà những cơ thể nặng hơn không khí có
khả năng giữ vững và tự chúng đẩy tới trong không trung? Con người có khả năng
làm được như vậy nếu được trang bị phù hợp. Những bản thiết kế của ông cho thấy
những cỗ máy khác nhau với phi hành gia trong những tư thế nằm ngang và thẳng
đứng, trong khi đó sử dụng tứ chi để vận hành đôi cánh được chế tác; cũng vậy,
một cánh quạt không khí báo trước loại trực thăng thời hiện đại, một cái dù,
một tỉ trọng kế để xác định độ ẩm, và một công cụ để chỉ phương hướng và để đo sức
gió và tốc độ gió.
Trong lúc mải mê với những nghiên cứu
này, ông có lần viết nhanh trong bút kí rằng ông hẳn là đã được tiền định để
viết về việc này bởi vì một trong những hồi tưởng xa xưa của ông là giấc mơ về
một con diều tới thăm chiếc nôi của ông và dùng cái đuôi của nó mở miệng ông
ra.
Cuốn sách nhỏ của ông về việc bay của loài
chim, được viết và minh hoạ năm 1505, hiện nay là một trong những báu vật của
Thư viện Hoàng gia ở Turin, gần đây bị gia đình hoàng gia lưu vong đòi như tài
sản riêng tư.
I.
VẬN
ĐỘNG TRONG GIÓ VÀ NƯỚC
Khoa
học về khí cụ và cơ giới là cao quý nhất và hữu ích hơn mọi khoa học khác, bởi
vì bằng những phương tiện của nó, tất cả những sinh vật thể được vận động để
thực hiện mọi động tác của chúng; và những vận động này có xuất phát điểm từ
trung tâm trọng lượng của chúng được đặt ở trung ương bên cạnh những trọng vật
không đều nhau, và nó có những loại cơ bắp vừa khan hiếm vừa dồi dào, và cũng
có lực bẩy và phản lực bẩy.
Trước
khi bạn viết về những sinh vật có thể bay, hãy viết một quyển sách về những vật
vô cảm giác hạ xuống trong không trung thiếu gió và lại một quyển khác về những
vật vô cảm giác hạ xuống với gió.
Để
đưa ra khoa học chân chính về việc bay của loài chim trong không trung, đầu
tiên bạn phải nêu ra khoa học về gió, và chúng ta sẽ chứng minh bằng vận động
của nước; việc hiểu biết về khoa học này, có thể nghiên cứu qua các giác quan,
sẽ dùng như cái thang để đi tới nhận thức về những vật thể bay trong không khí
và gió.
Hãy
chia luận văn về loài chim thành bốn quyển, trong đó quyển đầu bàn về phi hành vỗ
cánh của chúng; quyển nhì về phi hành không vỗ cánh và với trợ giúp của gió;
quyển thứ ba về phi hành nói chung, chẳng hạn như của chim, dơi, cá, động vật,
côn trùng; cuối cùng là cơ chế của sự vận động.
Đầu
tiên, định nghĩa vận động của gió và tiếp theo mô tả bằng cách nào mà chim lái
trong gió chỉ bằng việc quân bình đơn giản của đôi cánh và đuôi; và bạn sẽ mô
tả việc này sau đó về cơ thể học của chúng.
Vận động của loài chim
Để
nói về chủ đề này, trong quyển thứ nhất bạn phải giải thích tính chất trở lực
của không khí, quyển hai, cơ thể học về loài chim và đôi cánh của chúng, quyển
thứ ba về phương pháp hoạt động của đôi cánh trong những vận động khác nhau, trong
quyển bốn về năng lực của đôi cánh và của đuôi khi đôi cánh không chuyển động
và khi gió giúp thuận lợi như là hướng dẫn trong những vận động khác nhau.
Động lực là gì?
Động
lực là một năng lực truyền từ nguyên động cơ tới vật di động, và được sóng
không khí duy trì trong không trung do nguyên động cơ sản sinh; điều này nảy
sinh từ chân không và được sản sinh trái với quy luật tự nhiên, nếu không khí
phía trước nó không làm đầy chân không, như vậy khiến cho không khí bị xua khỏi
chỗ của nó bởi nguồn phát sinh đã nói trên để thoát li. Và không khí đi trước
nó sẽ không làm đầy chỗ mà từ đó nó li khai, nếu như một bộ phận không khí
không làm đầy chỗ mà không khí này đã li khai... Và sự vận động này sẽ tiếp tục
đến vô hạn nếu không khí có khả năng bị nén đến vô hạn.
Động
lực là ấn tượng về sự vận động cục bộ truyền từ nguyên động cơ tới vật di động
trong không khí và được duy trì bằng không khí hay nước khi chúng di chuyển để
ngăn chặn khoảng chân không.
Động lực của vật di động trong nước thì
khác với vật di động trong không khí, và những khác biệt này là do những khác
nhau của những nguyên tố này, bởi không khí thì có thể ngưng tụ tới vô hạn mà
nước thì không thể.
Động lực của nước được chia thành hai bộ
phận thông qua hai tính chất của nó, một là giản đơn và hai là phức hợp. Động lực
giản đơn thì nằm hoàn toàn bên dưới mặt nước, còn động lực phức hợp thì nằm
giữa không khí và nước, như khi thuyền vận hành.
Động lực giản đơn không nén nước lại ở
phía trước sự vận động của loài cá, nhưng di chuyển nước ra phía sau với cùng
tốc độ của nguyên động cơ; và sóng nước sẽ không bao giờ nhanh hơn nguyên động
cơ của nó.
Thế nhưng, sự vận động của con thuyền,
được gọi là phức hợp vì được chia sẻ bởi nước và không khí, được chia thành ba
bộ phận chính bởi vì nó tiến hành theo ba hướng, đó là hướng ngược dòng sông,
hướng thuận dòng, và hướng băng ngang, đó là khi băng qua sông.
Mỗi
vận động sẽ duy trì dìng của nó hay nói đúng hơn là mỗi vật thể khi vận động sẽ
tiếp tục dòng của nó chừng nào năng lực của xung lực còn duy trì bên trong.
Động
lực phát sinh trong dòng nước tĩnh có hiệu quả khác với động lực phát sinh
trong không khí tĩnh. Động lực này cho thấy qua sự kiện rằng nước không bao giờ
tự nén lại bởi bất kì vận động nào ở dưới bề mặt của nó, như không khí nén
trong bản thân nó khi bị đả kích bởi một vật thể di động. Điều này được thấy từ
những bọt bong bóng khi nước bị đè nặng từ bề mặt tới đáy của nó, và tụ tập
xung quanh chỗ nước đổ đầy khoảng chân không mà con cá để lại đằng sau khi nó
xâm nhập; và những vận động của dòng nước này va đập và thúc đẩy con cá đi, bởi
vì nước chỉ có trọng lượng bên trong nước khi nó có sự vận động, và điều này là
nguyên nhân chủ yếu để gia tăng vận động cho nguyên động cơ của nó.
Gió
Không
khí di chuyển giống như một dòng sông và mang những áng mây theo cùng; hệt như
dòng nước chảy mang theo mọi thứ nổi trên nó.
Vận
động của không khí ngược lại với một vật cố định thì cũng lớn như vận động của
vật di động ngược lại với luồng không khí không vận động.
Cũng như thế với nước mà một tình huống
tương tự đã cho tôi thấy nó tác động cùng phương cách như không khí, như những
cánh buồm của tàu được kèm theo trở lực bên cạnh của bánh lái.
Khi
một vật nặng hạ xuống trong không khí, và không khí di động ngược hướng để liên
tục làm đầy khoảng không gian để trống bởi vật nặng này, sự vận động của không
khí này là một đường cong, bởi khi nó muốn trỗi lên bằng tuyến ngắn nhất thì nó
bị ngăn trở do vật thể nặng hạ xuống nó, và vì thế nó buộc phải uốn cong và rồi
trở về bên trên vật nặng này để đổ đầy khoảng chân không đã bị nó bỏ lại. Và
nếu không khí không bị nén dưới tốc độ
của vật thể nặng, thì loài chim hẳn sẽ không thể tự chống đỡ nơi không khí bị
chúng đả kích; nhưng ở đây cần khẳng định rằng không khí bị nén bên dưới vật bị
va đập và nó trở nên bị loãng ở bên trên để đổ đầy khoảng trống để lại do vật
đã va đập nó.
Khoa học về trọng lượng tỉ lệ với năng lực của nguyên
động cơ
Lực
của nguyên động cơ phải luôn luôn tỉ lệ với trọng lượng của vật thể di động và
với trở lực của môi trường trong đó vật liệu mà trọng vật di động. Nhưng người
ta không thể diễn dịch quy luật của hành động này trừ phi người ta đầu tiên
phải đưa ra lượng ngưng tụ của không khí khi bị đả kích bởi bất kì vật di động
nào; và sự ngưng tụ này sẽ có độ đậm đặc nhiều hơn hoặc kém hơn tuỳ tốc độ lớn
hơn hoặc kém hơn của vật di động đè ép trên nó; như cho thấy trong phi hành của
loài chim, vì âm thanh mà chúng tạo ra với đôi cánh khi đập vào không khí thì
trầm hơn hoặc lanh lảnh hơn tuỳ theo sự vận động đôi cánh có chậm hơn hoặc
nhanh hơn không.
II.
CẤU
TẠO CỦA ĐÔI CÁNH CHIM
Trước
tiên, thực hiện cơ thể học về chim; rồi cơ thể học về lông vũ của nó, tước bỏ
bộ lông vũ, rồi nghiên cứu tác dụng của bộ lông vũ.
Bạn
sẽ nghiên cứu cơ thể học về đôi cánh chim cùng với những cơ bắp ở lồng ngực vốn
là nguyên động cơ của đôi cánh này. Và bạn cũng thực hiện cùng nghiên cứu này
đối với con người để cho thấy khả năng rằng xem con người có tự mình chịu đựng
được giữa không trung bằng việc vỗ cánh.
Một
biện hộ cho công cuộc giải quyết cách phản bác
Bạn có thể sẽ nói rằng những thớ gân và
cơ bắp của một con chim thì mạnh mẽ một cách vô song và mạnh mẽ hơn của con
người, bởi tất cả sức mạnh của bấy nhiêu cơ bắp và thịt nơi lồng ngực trợ giúp
và gia tăng sự vận động cho đôi cánh, trong khi xương lồng ngực tất cả liền một
khối cho nên cung cấp cho chim năng lực rất lớn, và đôi cánh được bao phủ bằng
một mạng lưới gân dày, cùng những dây chằng bằng sụn khác rất khoẻ và với bộ da
rất dày có những cơ bắp đa dạng.
Đáp lại điều này là, sức mạnh lớn như thế
được coi như năng lực dự trữ vượt ngoài những gì thông thường dùng để hỗ trợ bản
thân trên đôi cánh, vì điều này cần thiết hễ khi nào nó muốn tăng gấp đôi hoặc
gấp ba lần sự vận động để thoát khỏi kẻ săn đuổi hoặc đuổi theo con mồi của nó.
Vì vậy, trong trường hợp này, cần cho nó nảy sinh gấp đôi hoặc gấp ba lần số
lượng vận sức, và thêm nữa là để mang theo qua không trung trong móng vuốt của
nó một trọng lượng tương ứng với trọng lượng của bản thân nó, vì thế người ta
nhìn thấy con chim ưng đang mang theo một con vịt và con đại bàng mang theo một
con thỏ, và tình huống đủ cho thấy rõ việc xài vượt quá sức lực; vì chúng cần
ít sức lực để chống đỡ và để giữ thăng bằng bản thân trên đôi cánh và để vỗ
cánh theo hướng của gió, còn nếu để điều hướng đường bay, chúng chỉ cần một vận
động nhẹ từ đôi cánh là đủ, và vận động này sẽ càng chậm hơn tỉ lệ so với chim
thì lớn hơn về kích thước.
Lớp
lông vũ có trở lực nhỏ thì được đặt dưới lớp lông vũ có trở lực lớn, và những
mút điểm của chúng đều quay hướng tới phần đuôi chim; bởi vì không khí ở phần
dưới những vật thể bay thì dày hơn không khí bên trên chúng, và không khí dày
hơn ở phía trước hơn ở đằng sau; và việc phi hành thiết yếu đòi hỏi những mút
điểm ở phần bên này của đôi cánh không thấy có sự đột kích của gió vì chúng hẳn
sẽ lập tức bị tản mác ra và tách li, và tức thời bị gió thâm nhập. Do đó, những
trở lực được đặt sao cho những bộ phận với một đường cong lồi được quay hướng
tới bầu trời sao cho khi chúng càng bị gió đả kích thì chúng càng thấp hơn kéo
lại gần hơn tới những trở lực thấp hơn bên dưới chúng để ngăn cản sự thâm nhập
của gió bên dưới từ phía trước...
Cánh
chim luôn lõm vào ở bộ phận thấp hơn trải từ khuỷu tới vai, và phần còn lại thì
lồi. Nơi bộ phận lõm của cánh thì không khí quay tròn, còn trong phần lồi thì
nó nén và ngưng tụ.
Những
lông vũ dài nhất của cánh sẽ uyển chuyển vì chúng không bị bao phủ bởi những
lông vũ khác từ trung tâm tới đầu cánh.
Những tay lái thì đặt trên đôi vai của
cánh thì cực kì cần thiết để chim giữ thăng bằng và bất động trong không khí
khi đương đầu với luồng gió.
[Với bản vẽ.]
Cái
tay lái này được đặt gần nơi lông vũ của cánh cong lại, và bởi vì sức mạnh, nó
cong lại ít hoặc không cong lại, được đặt
ở vị trí rất khoẻ và có những dây gân và xương cứng, được bao phủ bằng những
lông vũ rất khoẻ, bảo vệ và hỗ trợ cho nhau.
Loài
chim đuôi ngắn lại có đôi cánh rất rộng; và nhờ bề rộng này thay cho cái đuôi;
và chúng lợi dụng đáng kể những tay lái đặt trên đôi vai khi chúng muốn chuyển
sang bất kì hướng nào.
Tại
sao những thớ gân dưới cánh lại khoẻ hơn những thớ gân ở mặt trên, chính là để
thích ứng với việc vận động. Vai, là tay lái của cánh, trũng bên dưới như cái
muỗng; và lõm bên dưới, nó lồi bên trên. Nó tạo kiểu như vậy là để cho tiến
trình bay lên dễ dàng, bay xuống khó khăn và gặp trở lực; và đặc biệt nó thích
hợp với việc đi tới và lùi theo hình thức cái dũa.
Những
tay lái hình thành trên vai của đôi cánh được cung cấp tính chất tiềm tàng như
phương tiện thuận tiện cho việc bẻ lệch hướng động lực trực tiếp, vốn thường
xảy ra trong khi bay tới vun vút. Vì một con chim thấy thuận lợi hơn khi uốn
cong bằng lực trực tiếp một trong những bộ phận nhỏ nhất của đôi cánh hơn là
toàn thể chúng; và lí do tại sao những lông vũ của chúng được cấu tạo rất nhỏ
và rất khoẻ để chúng có thể dùng như tấm phủ lên nhau và như vậy trang bị và
củng cố nhau bằng năng lực tuyệt diệu. Và những lông vũ này đặt cơ sở trên
những xương nhỏ và rất khoẻ vận động và uốn cong trên những khớp xương lớn của
đôi cánh này bằng những sợi gân.
Sự vận động và vị trí của xương vai cánh
chim tương tự như ngón cái của bàn tay con người, được bao quanh bằng bốn sợi
gân có cự li đều nhau ở nền tảng, điều này tạo ra một con số vô hạn những vận
động vừa vòng tròn vừa thẳng.
Chúng ta cũng có thể nói giống như vậy về
cái bánh lái đặt đằng sau chuyển động của con tàu, nó mô phỏng cái đuôi chim;
theo kinh nghiệm dạy chúng ta cái bánh lái nhỏ này đã sẵn sàng quay biết bao
nhiêu trong những chuyển động nhanh chóng của những con tàu lớn hơn là bản thân
toàn bộ con tàu...
Những
con dơi khi chúng bay thì cánh của chúng cần thiết bao phủ hoàn toàn bằng lớp màng,
bởi vì những sinh vật ban đêm dựa vào đó chúng trốn thoát nhờ những động tác
quay tròn mơ hồ và sự mơ hồ này được nâng cao bằng những cú uốn lượn. Vì thế
đàn dơi đôi khi phải lộn ngược để đi theo con mồi, đôi khi trong tư thế nghiêng
hoặc bằng những cách đa dạng khác và chúng không thể thực hiện mà không khiến
cho bản thân bị huỷ hoại nếu đôi cánh của chúng bằng lông vũ và để cho không
khí lọt qua.
III.
BƠI VÀ BAY
Khi
hai thế lực va đập nhau thì luôn luôn lực nhanh nhất sẽ nhảy vọt về phía sau.
Cũng thế, với bàn tay của người bơi khi va đập và nén trên mặt nước khiến cho
thân thể kẻ ấy trượt về phía trước theo vận động ngược lại; cũng vậy với cánh
chim trong không khí.
Việc
bơi trên mặt nước dạy con người cái cách mà loài chim bay trên không khí.
Việc
bơi minh hoạ cho phương pháp bay và cho thấy trọng lượng lớn nhất gặp trở lực
nhiều nhất trong không khí.
Hãy quan sát bàn chân vịt: nếu nó luôn mở
ra hoặc luôn đóng lại, thì con vật này hẳn không thể tạo được bất cứ loại vận
động nào. Trong khi bằng đường cong của bàn chân hướng ra ngoài, nó có thêm cảm
thụ với nước khi đi tới hơn là bàn chân khi nó rút lui; điều này cho thấy cùng
trọng lượng khi càng rộng thì nó vận động càng chậm. Hãy quan sát con ngỗng di
chuyển trên mặt nước, khi di chuyển bàn chân của nó hướng tới trước và khép lại,
và choán ít nước và vì thế đạt được tốc độ; còn khi nó đạp lùi, chân dãn ra
khiến chậm hơn, và bộ phận cơ thể tiếp xúc với không khí trở nên nhanh hơn.
Tại
sao cá trong nước lại nhanh hơn chim trong không khí khi lẽ ra đụng phải tình
huống tương phản, là vì nước nặng hơn và dày hơn không khí, còn cá thì nặng hơn
và có đôi cánh nhỏ hơn chim? Bởi lí do này, cá không dời khỏi chỗ vì những dòng
nước chảy siết giống như chim bị những cơn gió mạnh trong không khí; cũng vậy,
chúng ta có thể thấy cá vượt nhanh hướng lên vào ngay dòng nước trút xuống hiểm
trở với sự chuyển động rất nhanh như tia chớp giữa những đám mây không ngừng, gần
như một điều kì diệu. Việc này tạo ra bằng tốc độ rất lớn, và chuyển động vượt
quá sự vận động của nước trong khi làm cho nó gần như bất động khi so sánh với
sự vận động của cá...
Điều xảy ra này bởi vì nước bản thân nó
dày hơn không khí cho nên nặng hơn, và do đó nhanh hơn trong việc làm đầy khoảng
chân không mà cá bỏ lại đằng sau, trong chỗ từ đó rời đi; và cũng vậy, nước mà
nó đụng ở phía trước mặt không bị nén như không khí ở đằng trước chim, mà đúng
hơn là tạo ra đợt sóng bằng sự vận động của nó để chuẩn bị đường đi và gia tăng
sự vận động của cá; và do đó, nó nhanh hơn chim gặp phải không khí bị nén ở
phía trước.
Cách
một người nên học bơi. Cách một người nên nằm nghỉ trên mặt nước. Cách một
người phải tự vệ chống lại khi bị dòng nước xoáy cuốn hắn xuống đáy. Cách một
người khi bị cuốn xuống đáy phải tìm dòng nước phản xạ để quăng hắn ra khỏi chỗ
nước sâu. Cách người ấy phải đẩy mình tới bằng đôi cánh tay. Cách người ấy phải
bơi ngửa. Cách người ấy có thể duy trì dưới nước chừng nào còn nín thở.
Tàu ngầm
Bằng
cách nào mà một thiết bị có khả năng duy trì suốt một thời gian dưới nước. Bằng
cách nào và tại sao tôi không mô tả phương pháp duy trì dưới nước được lâu dài
như thời gian có thể duy trì khi thiếu thực phẩm; và tôi không công bố hoặc
tiết lộ điều này vì tính ác độc của những kẻ gây ra việc sát hại dưới đáy biển
bằng việc phá vỡ tàu bè ở những bộ phận thấp nhất và làm đắm chúng cùng với
thuỷ thủ đoàn; Tuy nhiên, tôi sẽ đưa ra một số phương pháp khác đặc biệt vốn
không nguy hiểm, vì ở trên bề mặt, miệng của một ống ngầm trồi lên nhờ đó họ có
thể hít thở, được chống đỡ bằng lớp da đựng rượu hoặc những miếng bần (cork).
Những
tuyến chuyển động của chim khi lên cao có hai loại, một loại thì luôn theo hình
xoắn theo kiểu đinh ốc. Còn loại kia theo đường thẳng và cong.
Chim lên cao bằng cách chuyển động vòng
tròn theo hình dạng xoắn ốc khiến cho việc chuyển động phản xạ của nó ngược lại
cơn gió ập tới và ngược đường bay của gió, và luôn rẽ sang trái hoặc phải.
Loài
chim cần đập một bên cánh nhiều lần hơn là bên cánh kia để tiến hành chuyển
động vòng tròn.
Nếu chim không đập cánh và không muốn đáp
xuống nhanh tới một độ sâu, vậy thì sau một độ nghiêng nhất định, nó sẽ tự trỗi
lên bằng một vận động phản xạ và muốn xoay thành một vòng tròn lên cao theo lối
của những con sếu khi chúng phá vỡ những tuyến trật tự trong chuyến bay và họp
lại thành một đàn rồi tiếp tục lên cao bằng nhiều vòng theo kiểu đinh ốc, và
sau đó, chúng trở về lại tuyến đầu, theo lại chuyển động đầu tiên và thả nhẹ
nhàng xuống, và rồi trở về họp đàn lại và di chuyển thành một vòng tròn lên
cao.
Khi
chim bay tới hướng đông với gió từ hướng bắc và thấy cánh trái của nó ở trên
cơn gió ấy thì nó sẽ lật lại, trừ phi cơn gió mãnh liệt, nó đặt cánh trái dưới
cơn gió và bằng một số chuyển động, nó lao tới hướng đông bắc và ở dưới cơn
gió.
Làm sao loài chim chịu đựng được trong không khí
Không
khí bị va đập bởi vật di động nhanh hơn thì bị nén ở mức độ nhiều hơn bên trong
bản thân nó...
Khí quyển là một nguyên tố có khả năng bị
nén trong bản thân khi nó bị va đập bởi vật gì đó đang di chuyển ở một tỉ lệ
tốc độ lớn hơn với tốc độ của nó và rồi nó hình thành một áng mây trong phần
còn lại của không khí...
Khi chim gặp gió, nó có thể tự giữ vững
mà không cần phải đập cánh, là do chức năng chúng phải vận dụng đối với không
khí mà không cần phải vận động. Sự chuyển động của không khí đối với đôi cánh
bất động giữ vững chúng, trong khi sự chuyển động của đôi cánh thì giữ vững chúng
khi không khí bất động.
Khi
gió băng qua những đỉnh núi thì trở nên nhanh và đậm đặc và khi nó thổi qua
khỏi núi, nó trở nên loãng và chậm, như nước tuôn ra từ con kênh hẹp chảy vào
biển rộng.
Khi chim băng qua luồng gió đang thổi từ
chậm sang nhanh, nó để bản thân cho gió mang đi cho tới khi nó tìm ra sự trợ
giúp mới cho bản thân...
Khi chim chuyển động với xung lực cản lại
gió, nó đập những nhịp cánh mau và lâu với chuyển động nghiêng, và sau khi đập
như thế, đôi cánh của nó duy trì trong một chốc bằng các chi co rút lại và hạ
thấp. Chim sẽ đảo lộn nếu ở vị trí ít nghiêng, nó ở vào chỗ như thế là để nhận
từ bên dưới sự chấn động của bất kì cơn gió bên cạnh nào. Nhưng nếu chim bị gió
va đập từ phía bên cạnh tới độ nó đảo ngược để gập cánh bên trên lại, nó lập
tức trở về vị trí để cơ thể chuyển hướng xuống mặt đất, trong khi nếu nó gập
cánh dưới nó sẽ lập tức lộn ngược xuống bởi gió.
Gió
sử dụng cùng cường lực đối với chim giống như cái nêm nhấc vật thể nặng.
Thiên
nhiên đã ban cho mọi loài chim lớn có thể giữ yên ở một độ cao rất lớn, tới mức
gió càng gia tăng thì việc phi hành của chúng có thể được thẳng dòng và mạnh
mẽ. Vì nếu phi hành của chúng ở độ thấp trong vùng núi là nơi gió đi vòng quanh
và không ngớt đầy những lốc xoáy và cuốn tròn và là nơi chúng không thể tìm ra
chỗ trú thân giữa cuồng phong bị nén trong những hốc núi, vì thế chúng cũng không
tự lái được bằng đôi cánh lớn để tránh bị lao vào vách đá, tảng đá và cây cao,
điều này đôi khi chẳng phải là nguyên nhân tiêu diệt chúng hay sao? Trong khi ở
độ thật cao, hễ gặp một số sự biến thì gió quay vào bất kì đâu, loài chim luôn
cấp thời có thể điều hướng lại luồng bay và an toàn điều chỉnh lại việc phi
hành để cho việc tiến hành luôn hoàn toàn tự do... Bởi vì mọi khởi đầu của sự
vật thường là nguyên nhân cho những kết quả lớn, vì thế ta có thể thấy một vận
động nhỏ hầu như không thể nhận thấy của chiếc bánh lái lại có sức chuyển hướng
một con tàu với kích thước cực lớn chất nặng trĩu hàng hoá, và cũng vậy, giữa
một trọng lượng nước áp lực lên từng sống neo (beam) của nó, và khi chống chỏi
với cuồng phong bao trùm những cánh buồm đồ sộ của nó. Do đó, ta có thể chắc
chắn trong trường hợp các loài chim có thể tự chống đỡ ở bên trên những luồng
gió mà không phải vỗ cánh, vì chỉ cần một vận động nhẹ của cánh hoặc đuôi cũng
đủ giúp chúng hạ xuống hoặc lên trên cơn gió, và cũng đủ ngăn chim không bị rớt
xuống.
Khi
đàn chim bay nhanh chúng giữ cự li đều nhau ở bên trên mặt đất và vỗ cánh hướng
hạ và về phía sau; hướng xuống trong mức độ cần thiết để ngăn chim khỏi hạ
xuống, còn hướng ra phía sau để tuỳ cơ nếu nó muốn vượt lên với tốc độ lớn hơn.
Tốc độ bay của loài chim được kiểm soát
bằng độ mở và xoè đuôi.
Để
thay đổi phương hướng, chim xoè đuôi ra.
Việc xoè đuôi và hạ thấp đuôi cùng việc
xoãi cánh đồng thời đạt tới mức đầy đủ để hãm lại sự vận động nhanh của chim.
Khi chim hạ xuống gần mặt đất và đầu ở thấp hơn đuôi, chúng hạ đuôi xuống và
xoè rộng ra, rồi đôi cánh đập những nhịp ngắn; vì vậy đầu chim ngước lên cao
hơn đuôi, và tốc độ được kiểm tra sao cho chim có thể đậu xuống đất mà không va
chạm mạnh.
Nhiều
loài chim vận động đôi cánh nhanh nhẹn khi cất cánh cũng như khi đáp xuống; như
chích choè và những loại chim tương tự.
Một số loài chim có thói quen vận động
đôi cánh nhanh hơn khi chúng hạ xuống hơn là khi chúng cất cánh, và điều này
thấy qua trường hợp của chim câu và những loại chim tương tự. Có những loài
chim khác hạ cánh xuống chậm hơn khi chúng cất cánh, và điều này thấy qua loài
quạ và những loại chim tương tự.
Diều
hâu và những loài chim khác vỗ cánh chỉ nhè nhẹ để đi tìm luồng gió; và khi gió
nổi lên ở một độ cao, ta có thể thấy chúng bay rất cao, còn nếu gió thổi thấp
thì chúng giữ ở độ thấp. Khi không trung lặng gió, diều hâu năng vỗ cánh hơn
trong lúc bay, tới mức độ khi nó lên cao và đạt được một xung lực; với xung lực
này, rồi dần dần đáp xuống, nó có thể di động một cự li xa mà không phải vỗ
cánh. Và khi đã hạ xuống, nó lại lập đi lập lại liên tục như thế, và trong việc
hạ xuống mà không vỗ cánh, đôi cánh được dùng như phương tiện nghỉ ngơi trong
không trung sau đợt vỗ cánh mệt mỏi trước đó
Tất cả những loài chim bay vọt lên cao
bằng việc đập cánh; còn trong lúc hạ cánh thì chúng tiếp tục nghỉ ngơi, vì khi
hạ xuống chúng không đập cánh.
Khi
diều hâu hạ xuống thì tự nó quay sang bên phải với đầu hướng xuống xuyên nhập
không khí, nó buộc bẻ cong đuôi nghịch hướng với địa điểm nó muốn tới; và rồi
vội bẻ đuôi cong theo hướng nó muốn để chuyển đổi theo tiến trình phù hợp với
hướng quay của đuôi—như cái bánh lái con tàu khi chuyển hướng thì rẽ con tàu
nhưng nghịch hướng.
Một
con chim đang tự giữ mình trên không ngược với chiều gió, có năng lực trong nó
mang xu hướng hạ xuống, vừa năng lực tương tự khác trong gió va đập nó có xu
hướng lên cao. Và nếu những năng lực này ngang nhau tới nỗi cái này không thể
chế ngự cái kia, thì chim sẽ không có khả năng tự lên cao hoặc hạ thấp, vì vậy nó
sẽ duy trì vị thế của nó vững vàng trong không trung.
Tại sao cuộc phi hành của đàn chim khi thiên di lại ngược
chiều gió
Phi
hành của đàn chim khi thiên di đi ngược với chiều gió, không phải để sự vận
động của chúng được nhanh chóng hơn mà vì ít bị mệt mỏi hơn. Việc này được thực
hiện với việc vỗ cánh nhẹ, nhờ đó chúng vào trong cơn gió bằng sự vận động chao
nghiêng từ bên dưới và sau đó để bản thân chúng chao nghiêng ở trên luồng gió.
Gió đi vào bên dưới độ chao nghiêng của con
chim như một cái nêm và nâng nó lên trên trong thời gian xung lực hấp thu được và
tự nó tiêu hao, sau đó, chim lại hạ xuống bên dưới gió... Rồi nó lập lại vận
động phản xạ nói trên ở bên trên cơn gió cho tới khi lấy lại được độ lên cao bị
mất, và cứ như thế, nó tiếp tục không ngừng.
Tại sao hiếm khi chim bay thuận chiều gió
Phi
hành của chim thuận chiều gió rất hiếm khi xảy ra, điều này là do luồng gió này
bao bọc chúng và làm phân tán lông vũ ra khỏi lưng và cũng làm buốt khoảng thịt
bị hở. Nhưng trở ngại lớn nhất chính là sau việc hạ xuống nghiêng thì sự vận
động của nó không thể đi vào luồng gió, trừ phi nó quay nghịch hướng để không đình
trệ hành trình và mượn lực của gió để lao lên phía trên tới độ cao cũ.
Loài chim xoè càng rộng lông vũ của cánh đang lúc phi hành trở nên chậm dần, điều này phù hợp với quy luật phát biểu rằng: ‘Vật thể có bề càng rộng sẽ càng nhẹ hơn’.
Loài chim giảm sức nặng khi tự xoãi mình ra, và ngược lại, nó nặng hơn khi thu mình lại; còn những con bướm thực nghiệm điều này khi chúng đáp xuống.
Khi
chim muốn lên cao bằng việc đập cánh, nó nâng vai lên rồi vỗ đầu cánh hướng vào
thân mình, làm cho không khí ngưng tụ chen vào giữa đầu cánh và ức chim, và áp
lực từ không khí này nâng chim lên cao.
Khi chim muốn rẽ sang bên phải hay bên trái bằng việc đập cánh, nó sẽ đập cái cánh thấp hơn xuống về bên nó muốn rẽ, và như vậy, sự vận động xoay vòng của chim phía sau xung lực của cái cánh được tăng tốc và nó sẽ tạo ra vận động phản xạ bên dưới cái cánh phát sinh từ phía đối trọng.
Khi
chim bay ngược gió thì tiến trình của nó tạo ra theo tuyến nghiêng hướng xuống
mặt đất, rồi đi vào bên dưới luồng gió... còn nếu chim muốn lên tới một độ cao
thì nó sẽ đi vào bên trên luồng gió, và nó sẽ giữ được đủ xung lực đã hấp thu
khi đáp xuống mà ta đã nói tới, như thế, nhờ những phương tiện của tốc độ có
được, nó sẽ hạ thấp đuôi và khuỷu của đôi cánh xuống và nâng bánh lái lên. Và
rồi nó sẽ ở bên trên luồng gió...
Bươm bướm, loại côn trùng tương tự, đều
bay bằng bốn cánh, đôi cánh sau nhỏ hơn đôi cánh trước. Đôi cánh trước phủ một
phần lên đôi cánh phía sau.
Mọi loại côn trùng thuộc họ này đều có
năng lực vận động lên cao trực tuyến, vì khi chúng lên cao thì những đôi cánh sau
giữ một độ hở với đôi cánh trước cao hơn đôi cánh sau. Và điều này tiếp tục
chừng nào xung lực còn thúc đẩy chúng lên trên; và sau đó, khi chúng hạ thấp
đôi cánh thì cánh lớn kết hợp vào với cánh nhỏ, và như vậy khi chúng đáp xuống,
chúng lại có được xung lực mới.
[Với bản vẽ một con chuồn chuồn].
Loài pannicola
bay bằng bốn cánh, và khi đôi cánh phía trước cất lên thì đôi cánh phía sau hạ
thấp.
Nhưng cần thiết cho mỗi cặp cánh phải tự
đủ khả năng chịu đựng toàn bộ trọng lượng.
Khi cặp cánh này cất lên thì cặp cánh kia
hạ thấp.
Để thấy việc phi hành của loài bốn cánh,
hãy đi vào những cái hào, bạn sẽ thấy loài “pannicole” đen.
Động vật khi nó lao vào một Nguyên tố này
thành một nguyên tố khác.
Bút kí này kèm
theo bức vẽ một con cá chào mào đang bay với đuôi dương lên, cánh của nó dang
ra trên điểm lao từ mặt nước vào không trung. Trên cùng trang giấy là những bức
vẽ một con bướm, một con kiến sư tử, và một con dơi, tất cả đều dang cánh.
IV.
MÁY
BAY
Thiên tài của con người có thể tạo ra những phát minh đa dạng, bao gồm những khí cụ đa dạng có cùng mục đích; nhưng nó sẽ không bao giờ khám phá ra một phát minh nào tinh mĩ hơn, tiết kiệm hơn, hoặc trực tiếp hơn phát minh của thiên nhiên, bởi vì trong những phát minh của thiên nhiên, không có gì thiếu và không có gì thừa.
Một con chim là một khí cụ vận hành theo quy luật toán học, và khí cụ này nằm trong khả năng con người chế tạo với mọi cơ năng của nó nhưng lại không có được sức mạnh như vậy, tuy nhiên, chỉ thiếu về năng lực duy trì sự quân bình. Vì vậy, ta có thể nói rằng một khí cụ như thế do con người dựng lên không bị thiếu gì ngoại trừ sinh lực của loài chim, và sinh lực này phải cần mô phỏng bằng sinh lực con người. Sinh lực vốn trú ngụ trong các chi thể của chim rõ ràng phục tùng nhu cầu của chúng tốt hơn là sinh lực của con người vốn tách biệt với các chi thể và đặc biệt là trong những vận động duy trì sự quân bình hầu như không thể nhận thấy. Vì chúng ta thấy rằng loài chim được trang bị cho rất nhiều loại vận động nhậy cảm đa dạng, nên chúng ta có thể từ kinh nghiệm này suy diễn rằng điều hiển nhiên nhất trong những vận động này sẽ có thể là nhận thức của con người có thể hiểu được, và điều mà con người muốn là một mức độ lớn có thể cung ứng chống lại huỷ diệt của loại khí cụ mà y đã tự tạo ra sinh lực và hướng đạo.
Một
vật thể đưa ra sự đề kháng với không khí như vậy giống như không khí đề kháng
với vật thể. Hãy nhìn vào cách đập đôi cánh vào không khí đã nâng đỡ một con
đại bàng nặng trong làn không khí cực kì loãng gần với hoả cầu. Hãy quan sát
cách mà không khí vận động trên biển khi làm đầy những cánh buồm căng phồng và
đẩy mạnh những con tàu chất đầy hàng hoá.
Từ những ví dụ này, và những lí do đã
nêu, một người có đôi cánh đủ lớn và được gắn đúng cách có thể học cách khắc
phục trở ngại của không khí, và khi chinh phục nó thành công trong việc chế ngự
nó và nâng mình lên trên nó.
Nếu một người có cái tán rộng 12 và cao
12 thước Ý và phủ bằng vải,[1]
thì y có thể gieo mình xuống từ bất cứ độ cao nào mà không bị tổn thương.
Người
ở trong cỗ máy phi hành phải tự do từ thắt lưng trở lên để có thể giữ cân bằng
như khi ở trên thuyền, sao cho trọng lượng trung tâm của kẻ ấy và của cỗ máy có
thể đối trọng nhau và dịch chuyển tới nơi yêu cầu qua sự thay đổi của trung tâm
trở lực.
Bạn
hãy nhớ, loại chim mà bạn mô phỏng thiết kế không loại nào khác ngoài dơi, bởi
vì những tấm màng của nó dùng như cái sườn hay đúng hơn là phương tiện nối kết với
cái khung, là cái khung của đôi cánh.
Nếu bạn mô phỏng đôi cánh lông vũ của chim, thì đây là những phần mạnh hơn cả về cấu trúc bởi vì chúng có thể bị xâm nhập, khi mà những lông vũ tách ra và không khí lọt qua. Nhưng loài dơi được trợ giúp bằng những cái màng vốn gắn chặt toàn thể lại và không thể bị không khí xâm nhập.
Hãy giải phẫu loài dơi, tập trung vào điều này, và thiết kế máy bay trên mô hình này.
Giả sử có một vật thể lơ lửng, tương tự như chim, và cái đuôi của nó xoắn sang một góc có nhiều độ khác nhau; bạn có thể bằng phương tiện này để suy ra một quy luật chung dựa theo những độ xoắn và xoay khác nhau theo chuyển động của chim gây ra bằng cách uốn đuôi. Trong các vận động khác nhau thì bộ phận nặng nhất của vật thể di động trở nên cái hướng đạo của vận động.
Khi
nguyên động cơ (mover) của vật thể bay có năng lực có thể chia thành bốn phần qua
bốn cơ năng chủ yếu, nó có khả năng vận dụng chúng một cách đều và không đều,
và cũng có khả năng vận dụng toàn bộ đều và toàn bộ không đều, dựa theo những
quy tắc từ những vận động khác nhau của vật thể bay.
Nếu bốn cơ năng toàn bộ di chuyển đều nhau, thì vật thể bay sẽ ở trong vận động có quy tắc.
Nếu bốn loại cơ năng vận dụng theo tỉ lệ liên tục không bằng nhau, thì vật thể phi hành sẽ chuyển động theo vòng tròn.
Loại chim tôi đã mô tả phải bằng sự trợ giúp của gió để lên rất cao và điều này sẽ đem lại an toàn cho nó; bởi vì nếu tất cả những xoay vòng nêu trên mà hỏng, nó vẫn có đủ thời gian để lấy lại vị thế cân bằng miễn là những bộ phận của nó có một sức đề kháng lớn; vì vậy, chúng có thể chống đỡ một cách an toàn đối với xung lực mãnh liệt khi hạ xuống bằng trợ giúp của những lối tự vệ mà tôi đã nêu, và bằng những khớp nối được làm bằng da thuộc và chão kết bằng loại tơ thô rất khoẻ; và đừng ai để mình bị vướng vào những phiến sắt vì những phiến này rất mau bị gẫy ở các khớp và chúng bị tiêu mòn; vì lí do này, tốt hơn là không nên bị vướng víu với chúng.
[1] Leonardo đang mô tả một cái dù.
CHƯƠNG IV
NGHỆ THUẬT
I.
GIÁO
TRÌNH HỌC TẬP CỦA HOẠ SĨ
“Hội hoạ luận” trong Bút kí của Leonardo có
thể sắp xếp dưới những đề mục sau: học sinh phải biết con mắt vận hành ra sao; biết
cách phối trí những hình dạng, kích thước, và độ thoái lui (recession) của những
vật thể; và chúng phô bày dưới tác động của ánh sáng trên bề mặt ra sao; học
sinh cũng phải nghiên cứu cách cấu tạo và đời sống của chúng. Y phải hiểu những
nền tảng này để sáng tạo bằng một cách thức và tinh thần phù hợp.
I.
CON
MẮT VÀ NGOẠI HÌNH CỦA SỰ VẬT
Chúng ta quan sát
tự nhiên ra sao, và lối phân tích đúng cách trong việc quan sát là gì? Đây là
những câu hỏi đầu tiên dành cho cả hoạ sĩ và nhà khoa học
Tự
nhiên được nhận thức qua các giác quan, chủ yếu qua thị giác. Nghệ thuật hội
hoạ gắn chặt với tiến trình thị giác. Những trường nhãn quan (fields of views) được truyền qua những tia thị giác vào trong
mắt. Hoạ sĩ phải phân tích được kinh nghiệm này để tái hiện hình tượng thị giác
lên mặt bằng của bức tranh. Việc vẽ của người ấy nên đưa ra ấn tượng về một
cánh cửa sổ qua đó chúng ta nhìn ra ngoài vào một phần của thế giới hữu hình.
Hoạ
sĩ có khả năng đạt được điều này bằng khoa học về phối cảnh, vốn đưa ra một
phương pháp toán học để dựng một không gian ba chiều bao gồm bất kể số lượng đồ
vật cá thể nào nằm trên một bề mặt hai chiều, một phương pháp hội đủ không chỉ
đòi hỏi về vẻ thật (verisimilitude), mà cũng còn đòi hỏi về sự thống nhất và
hài hoà.
(a)
Năm giác quan
Các
nhà tư biện cổ đại đã kết luận rằng năng lực phán đoán vốn ban cho con người
được kích thích bởi một công cụ nhờ đó mà năm giác quan được nối kết bằng phương
tiện của cơ quan tri giác (imprensiva);
và công cụ này, họ đặt tên là “giác quan chung” (sensus communis).[1]
Và danh xưng này được sử dụng đơn thuần bởi vì nó là vị phán quan chung cho năm
giác quan khác, là thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác, và khứu giác. “Giác
quan chung” được vận hành bằng cơ quan tri giác định vị trung gian giữa nó và
những giác quan. Cơ quan tri giác hoạt động bằng những phương tiện hình ảnh của
sự vật truyền đạt qua nó bằng năm giác quan, đặt trên bề mặt trung gian giữa sự
vật bên ngoài và cơ quan tri giác...
Hình ảnh ngoại giới được truyền sang các
giác quan, và các giác quan này chuyển chúng sang cơ quan tri giác, cơ quan tri
giác chuyển chúng sang “giác quan chung”, và nhờ nó, chúng in vào kí ức, và được
lưu lại rõ rệt nhiều hay ít tuỳ theo tầm mức quan trọng của sự vật đưa ra. Giác
quan nào ở gần nhất với cơ quan tri giác, nó vận hành nhanh nhất; và đây là con
mắt, thủ lĩnh và lãnh đạo của mọi giác quan khác; riêng điều này thôi, chúng ta
sẽ bàn bạc và gác lại những giác quan khác để không bị quá dài dòng.
Kinh nghiệm bảo chúng ta, con mắt nhận
thức được mười phẩm chất khác nhau của vật thể;[2]
đó là, sáng và tối—sáng để phơi bày chín phẩm chất khác—tối để che giấu
chúng—màu sắc và chất thể, hình thể và vị trí, xa và gần, động và tĩnh
Năm giác quan làm tổng quản của linh hồn như thế nào
Linh
hồn hiển nhiên trú ngụ nơi trụ sở của phán đoán, và phán đoán hiển nhiên trú ngụ
ở chỗ gọi là “giác quan chung” là nơi mọi giác quan hội tụ; và chính tại đây
chứ không phải ở khắp thân thể như nhiều người tin; vì nếu thế, hẳn không còn cần
thiết cho những công cụ giác quan hội tụ ở một điểm đặc thù; và hẳn là đủ cho
mắt ghi lại tri giác của nó lên bề mặt của nó thay vì truyền những hình ảnh sự
vật nhìn thấy đi tới “giác quan chung” qua những dây thần kinh thị giác; vì
linh hồn hẳn là đã lĩnh hội hình ảnh trên bề mặt của mắt.
Tương tự với thính giác, đủ chỉ cho âm
thanh vang trong những hốc xương giống như hốc đá trong tai, bên ngoài có một
lối khác từ hốc xương này đi tới “giác quan chung”, nhờ đó mà tiếng nói phải hướng
tới sự phán đoán chung.
Khứu giác cũng buộc phải nhờ vào cùng sự phán
đoán này.
Xúc giác thông qua lưới gân và được truyền
tới cùng vị trí ấy; những sợi gân này toả ra vô số nhánh ở trong da... chuyên
chở xung lực cùng cảm giác tới chi thể; và chạy qua giữa những cơ bắp và gân rồi
ra lệnh cho chúng vận động; chúng tuân lệnh và trong hành vi tuân lệnh, chúng
co lại bằng cách gồng cơ bắp lên để làm giảm độ dài của chúng khi kéo theo
những dây thần kinh. Những dây thần kinh này đan vào nhau giữa chi thể và lan tới
cực điểm những ngón tay và truyền tới “giác quan chung” cái ấn tượng mà chúng
chạm vào.
Dây thần kinh cùng với cơ bắp phục vụ gân
như binh sĩ phục vụ thủ lãnh; và gân phục vụ “giác quan chung” như thủ lãnh
phục vụ trưởng quản, và “giác quan chung” này phục vụ linh hồn như trưởng quản phục
vụ quân vương.
Do đó, khớp xương tuân theo hệ thần kinh, hệ
thần kinh tuân theo cơ bắp, cơ bắp tuân theo gân, gân tuân theo “giác quan
chung” và “giác quan chung” là trụ sở của tâm hồn, còn kí ức là kẻ điều động
của nó với công năng đón nhận những ấn tượng được dùng như những tiêu chuẩn để
giám định.
Giác quan phục vụ linh hồn ra sao, mà không
phải linh hồn phục vụ giác quan, và ở đâu giác quan thiếu săn sóc cho linh hồn,
thì linh hồn ở trong một đời sống như thế thiếu đi khái niệm về chức năng của
giác quan này, như ta thấy trong trường hợp của người câm hoặc người mù bẩm
sinh.
Về mười chức năng của mắt mà hoạ sĩ phải quan tâm
Hội
hoạ mở rộng cả mười chức năng của mắt; đó là, bóng tối, ánh sáng, thể chất, màu
sắc, hình dạng, vị trí, xa, gần, động, và tĩnh. Tác phẩm nhỏ của tôi sẽ đan bện
các chức năng này vào với nhau, nhắc nhở người hoạ sĩ dựa theo những quy luật
nào và theo phương thức nào mà người ấy nên mô phỏng vào nghệ thuật của mình
mọi thứ này, miêu tả tác phẩm của tự nhiên và trang sức của thế giới.
(b)
Mắt
Con
mắt là cửa sổ của linh hồn, là khí quan chính, nhờ đó sự hiểu biết có được cái
nhìn toàn diện và sâu sắc nhất về những công trình vô hạn của tự nhiên.
Giờ
bạn có thấy rằng con mắt ôm lấy vẻ đẹp của toàn thế giới?... Con mắt bình thẩm
và điều chỉnh mọi ngành nghệ thuật của nhân loại... Nó là vương tử của toán học,
và những khoa học đặt nền móng trên nó đều tuyệt đối chắc chắn. Nó đã đo lường
cự li và kích thước của các tinh tú; nó khám phá ra các nguyên tố và vị trí của
chúng... nó sản sinh ra kiến trúc, phép phối cảnh và nghệ thuật thần diệu của
hội hoạ.
Hỡi con mắt trác tuyệt, ngươi siêu việt hơn
mọi thứ khác do Thượng đế sáng tạo! Phải tán tụng thế nào mới công bình đối với
tính cao quý của ngươi? Dân tộc nào, ngôn ngữ nào có khả năng miêu tả đầy đủ
được công năng của ngươi? Con mắt là cửa sổ của nhân thể qua đó nó cảm được
theo cách của nó, và hân thưởng vẻ đẹp của thế giới. Nhờ con mắt, linh hồn thoả
mãn ở lại trong ngục tù thân thể, vì thiếu nó ngục tù thân thể là sự nhục hình.
Ôi
tuyệt diệu, Ôi tính tất yếu lạ kì, với lí tính tối cao, ngươi thúc bách mọi
hiệu quả trở thành kết quả trực tiếp từ nguyên nhân của chúng; và bằng một quy
luật tối cao và bất khả thu hồi, mọi hành động tự nhiên đều phục tùng ngươi
bằng tiến trình khả dĩ ngắn nhất. Ai tin một không gian nhỏ đến thế lại có thể
chứa đựng những hình ảnh của cả vũ trụ? Ôi tiến trình phi thường! Tài năng nào
có thể giúp thâm nhập một tự tính của những thứ như thế? Miệng lưỡi nào có tài
mở phơi về một kì quan vĩ đại đến thế? Quả thực không có! Chính là kì quan này
dẫn cuộc thuyết ngôn của con người tới sự công nhận về những sự vật phi phàm. Những
hình dạng ở đây, những màu sắc ở đây, tất cả mọi hình ảnh ở đây về mọi phần của
vũ trụ đều thu vào một điểm. Điểm rất tuyệt diệu ấy là gì? Ôi kì diệu, ôi tính
tất yếu lạ kì—bằng quy luật, ngươi thúc ép mọi hiệu quả thành kết quả trực tiếp
từ nguyên nhân của nó qua đường ngắn nhất. Đây là những phép lạ... những hình
thể đã đánh mất, hỗn hợp với nhau trong một không gian rất nhỏ, nó có thể tái
tạo và tái kết hợp bằng sự khuếch trương. Hãy mô tả trong cơ thể học của bạn xem
coi tỉ lệ giữa những đường kính của các thấu kính (spetie) trong con mắt và cự li từ những thứ này cho đến những thấu
kính thuỷ tinh.
Nhờ
con mắt mà vẻ đẹp thế giới được ánh hiện và tính đặc sắc đó hễ ai chấp nhận mất
nó là tự mình tước đi việc tái hiện mọi tác phẩm của tự nhiên. Linh hồn hài
lòng chịu giam mình trong thân thể con người, nhờ đôi mắt, chúng ta có thể nhìn
thấy những sự vật này; qua đôi mắt, mọi vật đa dạng trong tự nhiên được trình
hiện với linh hồn. Ai mất đi đôi mắt, kẻ ấy để lại linh hồn mình trong một ngục
tù tăm tối không hi vọng còn thấy lại mặt trời và sự quang minh của cả thế
giới; Với bao nhiêu người, màn đêm thật đáng ghét tuy chỉ là ngắn hạn; họ sẽ ra
sao nếu bóng đêm ấy là đồng bạn suốt đời của họ?
Trong
không trung tràn ngập vô số hình ảnh vật thể được phân bố cùng khắp, và tất cả
vật thể này tái hiện trong tất cả, tất cả trong một, và tất cả trong mỗi. Vì
thế, nếu hai tấm gương được đặt đối diện nhau một cách chính xác, thì tấm thứ
nhất sẽ phản chiếu trong tấm thứ hai và tấm thứ hai phản chiếu trong tấm thứ
nhất. Giờ thì tấm thứ nhất được phản chiếu trong tấm thứ hai mang theo hình ảnh
của nó cùng tất cả những hình ảnh phản chiếu trong nó, trong đó có hình ảnh của
tấm gương thứ hai; và cứ như thế nó tiếp tục từ hình ảnh tới hình ảnh cho tới
vô tận, như vậy, mỗi tấm gương có vô số những tấm gương trong nó, mỗi tấm này
nhỏ hơn tấm trước, và tấm này ở bên trong tấm khác. Qua ví dụ này, rõ ràng
chứng minh rằng mỗi vật thể truyền đạt hình ảnh của nó tới tất cả nơi nào nó có
thể thấy được, và ngược lại, vật thể này có khả năng tiếp nhận vào bản thân nó
tất cả những hình ảnh của những vật thể đối diện với nó.
Bởi vậy, con mắt truyền đạt hình ảnh của
nó qua không trung tới mọi vật thể đối diện với nó, và cũng đón nhận chúng trên
bề mặt của nó, từ đó, cái “giác quan chung” tiếp nhận chúng và xem xét, rồi tiếp
nạp những gì vừa ý vào kí ức.
Vì thế, tôi cho rằng những năng lực vô
hình của ảnh tượng trong mắt có thể phóng chiếu bản thân chúng tới đối tượng
giống như phóng chiếu những hình ảnh của đối tượng tới đôi mắt.
Một ví dụ về cách những hình ảnh của vạn
vật lan truyền qua không trung có thể thấy được nếu một số tấm gương được đặt
theo vòng tròn, và như vậy chúng phản ánh lẫn nhau vô số lần. Vì khi hình ảnh
của một tấm gương đạt tới tấm gương khác thì nó dội lại về nguồn và rồi trở nên
nhỏ hơn rồi dội lại tới vật thể và rồi quay trở lại, và cứ như thế với số lần
vô hạn.
Nếu ban đêm, bạn đặt một ngọn đèn giữa hai
tấm gương phẳng cách nhau một cubit [độ dài khoảng một cánh tay], bạn sẽ thấy
trong mỗi tấm gương này có vô số những ngọn đèn, lần lượt cái này nhỏ hơn cái
kia.
Nếu ban đêm, bạn đặt một ngọn đèn giữa
những bức tường của một căn phòng, mỗi phần của tường sẽ nhuốm những hình ảnh
từ ngọn đèn này, và tất cả những phần nào trực tiếp lộ ra sẽ được nó thắp
sáng... ví dụ này thậm chí còn hiển nhiên hơn khi những tia nắng mặt trời
truyền đi qua tất cả những vật thể và đi vào phần nhỏ nhất của mỗi vật thể, và
mỗi tia chuyển tới đối tượng hình ảnh về nguồn của nó.
Mỗi vật thể đơn độc tự làm đầy hết thảy không
trung bao quanh bằng những hình ảnh của nó, và cùng không trung này đồng thời
có thể đón nhận vào bản thân nó những hình ảnh của vô kể những vật thể khác bên
trong nó, được chứng minh qua những ví dụ này; và mỗi vật thể có thể thấy trong
toàn bộ của nó khắp toàn thể khí quyển này, và trong mỗi phần nhỏ nhất của nó,
và khắp toàn thể và trong mỗi phần nhỏ nhất; mỗi phần trong tất cả, và tất cả
trong mỗi phần.
Nếu
vật thể ở đằng trước con mắt gửi hình ảnh của nó tới con mắt, thì con mắt cũng
gửi hình ảnh của nó tới vật thể; cho nên không một phần nào của vật thể bị mất
đi trong những hình ảnh phát sinh từ đó với bất kì lí do nào dù trong mắt và
trong vật thể. Do đó, chúng ta có thể tin rằng, chính tính chất và năng lực của
không gian phát quang đã thu hút và tiếp nhận hình ảnh của vật thể ở bên trong
nó hơn là tính chất của vật thể gửi hình ảnh của chúng qua không gian. Nếu vật
thể đối diện với con mắt phát xạ hình ảnh của nó tới con mắt, thì con mắt cũng
phải làm y như thế với vật thể; từ đó, có vẻ như những hình ảnh này là những
năng lực phi vật thể. Nếu phi vật thể như thế, hẳn thiết yếu là mỗi vật thể
nhanh chóng trở nên nhỏ hơn; bởi vì mỗi vật thể xuất hiện bằng hình ảnh của nó
trong khí quyển ở phía trước nó; cũng chính là toàn bộ vật thể trong toàn thể
khí quyển và tất cả trong từng phần; có thể nói, khí quyển đó vốn có khả năng
tiếp nạp vào bản thân nó những tuyến thẳng và tuyến phát xạ của hình ảnh do
những vật thể truyền tới. Vì thế, phải thừa nhận rằng chính tính chất của khí
quyển này tự nó tìm ra cách để những vật thể thu hút tới bản thân nó như một
thỏi nam châm với những hình ảnh của vật thể mà nó định vị trong đó.
Hãy chứng minh bằng cách nào tất cả vật
thể, đặt ở một vị trí, tất cả đều ở mọi nơi và tất cả đều ở từng phần.
Tôi cho rằng, nếu phía trước của một toà
nhà hoặc một quảng trường nào đó hoặc cánh đồng được mặt trời chiếu sáng có một
căn nhà đối diện với nó, và nếu ở phía trước không đối diện với mặt trời, bạn
khoét một lỗ tròn nhỏ, tất cả những vật thể được chiếu sáng sẽ truyền hình ảnh
của chúng xuyên qua cái lỗ này và sẽ hiển hiện bên trong căn nhà lên trên bức
tường đối diện phải nên có màu trắng, và những hình ảnh sẽ có ở đó chuẩn xác
nhưng lộn ngược; và nếu ở vài nơi trên cùng bức tường bạn khoét những lỗ tương
tự, bạn sẽ có cùng kết quả từ mỗi cái lỗ.
Vì thế, những hình ảnh của những vật được
chiếu sáng đều ở tất cả mọi nơi trên bức tường này và tất cả trong từng phần nhỏ
nhất của nó. Lí do là—chúng ta biết rõ cái lỗ này phải cho phép một lượng ánh
sáng đi vào căn nhà nói trên và ánh sáng được nó cho phép bắt nguồn từ một hoặc
nhiều vật thể phát quang. Nếu những vật thể này có nhiều màu sắc và hình dạng
khác nhau thì những tia tạo nên hình ảnh có những màu sắc và hình dạng khác
nhau và sự trình hiện trên bức tường sẽ có những màu sắc và hình dạng khác
nhau.
Vòng
ánh sáng nằm trong trung tâm của lòng trắng con mắt vốn thích ứng để nắm bắt
vật thể. Cũng vòng tròn này bao gồm một điểm đen. Đây là dây thần kinh chi phối
bị xuyên thấu, và xâm nhập vào vị trí của những năng lực bên trong nơi mà những
ấn tượng được tiếp nhận và phán đoán được hình thành do “giác quan chung”.
Những vật thể nào đối lập với mắt thì gửi
những tia hình ảnh theo cách thức nhiều xạ thủ đang nhắm bắn qua nòng khẩu
súng. Kẻ nào trong số họ ở tuyến thẳng với hướng nòng súng thì có cơ bắn trúng
mục tiêu hơn bằng mũi tên. Cũng vậy với những vật thể đối điện với mắt, chúng
sẽ truyền trực tiếp hơn tới giác quan vốn cùng tuyến với dây thần kinh bị xuyên
thấu.
Dịch thể nằm trong ánh sáng và bao quanh
trung tâm màu đen của mắt tác dụng giống như đoàn chó săn truy đuổi và làm giật
mình con mồi để cho kẻ đi săn bắt được. Cũng vậy, dịch thể (humour) bắt nguồn
từ năng lực của cơ quan tri giác (imprensiva)
và nhìn thấy nhiều thứ mà không nắm giữ chúng, bất ngờ quay hướng tới tín hiệu
trung tâm và tiếp tục đi theo tuyến này tới giác quan và từ đây nắm bắt những
hình ảnh và giam giữ tuỳ ý trong nhà tù kí ức của nó.
Mọi
vật thể cùng chung, và mỗi vật thể tự thân, phát tán ra không trung bao quanh
vô số những hình ảnh với tất cả trong tất cả và tất cả trong mỗi phần, mỗi hình
ảnh truyền đạt tính chất, màu sắc, và hình thể của vật thể sản sinh ra nó. Có
thể thấy rõ ràng rằng tất cả vật thể tràn khắp mọi khí quyển bao quanh bằng
những hình ảnh của chúng tất cả trong mỗi phần như chất thể, hình thể, và màu
sắc; điều này cho thấy bằng những hình ảnh đa dạng của nhiều vật thể được tái tạo
bằng việc truyền qua một sự xuyên thấu (perforation) đơn độc, từ đó các tuyến
được tạo ra để giao nhau tạo nên những hình kim tự tháp đảo ngược từ những vật
thể, vì vậy, những hình ảnh của chúng phản chiếu lộn ngược trên mặt bằng tối
đen (đối diện với chỗ xuyên thấu).
Một
thí nghiệm, cho thấy cách những vật thể truyền đi hình ảnh hay hình tượng của
chúng, bằng sự giao nhau ở trong mắt bên trong thuỷ tinh thể.
Điều này cho thấy khi hình ảnh của vật
thể được chiếu sáng xâm nhập vào căn buồng rất tối bởi lỗ tròn nhỏ nào đó. Tiếp
theo, bạn sẽ tiếp nhận những hình ảnh này trên một tấm giấy trắng đặt bên trong
căn buồng tối này khá gần với cái lỗ; và bạn sẽ thấy tất cả vật thể trên mặt
giấy trong những hình thể và màu sắc của chính chúng, nhưng nhỏ hơn; và chúng
sẽ bị lộn ngược do chính sự giao nhau. Những hình ảnh này, được truyền đi từ
một nơi được mặt trời chiếu sáng, như thể thực sự được vẽ trên tấm giấy này, và
nó phải cực kì mỏng và nhìn từ phía sau. Và hãy để một sự xuyên thấu nhẹ tạo ra
trên tấm thiếc thật mỏng.
Cho abcde
là những vật thể được mặt trời chiếu sáng và hoặc phía trước của căn buồng tối trong
đó cái lỗ là nm. Cho st là tấm giấy chắn những tia hình ảnh
của những vật thể này và lật chúng lộn ngược bởi vì những tia chiếu thẳng của a bên phải trở thành k bên trái, và e bên trái trở thành f bên
phải; và cũng xảy ra y như vậy bên
trong đồng tử.
Tính
tất nhiên đã quy định rằng mọi hình ảnh của những vật thể ở phía trước con mắt
sẽ giao nhau trên hai bình diện. Một trong những sự giao nhau này ở trong đồng
tử, còn cái kia giao nhau ở trong lăng kính thuỷ tinh thể; và nếu trường hợp
không phải như thế, thì con mắt không thể nào thấy con số vật thể rất nhiều đến
như vậy... không hình ảnh nào, thậm chí của vật thể nhỏ hơn, đi vào con mắt mà
không bị lộn ngược; nhưng khi nó xâm nhập vào thuỷ tinh thể thì nó một lần nữa
đảo ngược và như vậy hình ảnh được phục hồi tới cùng vị trí bên trong mắt như cùng
vật thể bên ngoài mắt.[3]
Con
mắt không có khả năng phóng chiếu tự thân bằng những thị tuyến, thị lực, vì vừa
khi nó mở mắt ra, thì bộ phận phía trước (của mắt) sinh ra sự lưu xuất tới vật
thể, và điều này cần có thời gian. Và như thế, thị tuyến không thể truyền đi
thật cao như mặt trời trong thời gian của một tháng khi con mắt muốn nhìn thấy
nó. Và nếu thị tuyến có thể đạt tới mặt trời, như thế nó thiết yếu phải thường
xuyên duy trì theo một tuyến liên tục từ mắt tới mặt trời và sẽ luôn phân tuyến
ra sao cho giữa mặt trời và mắt tạo nên chân và đỉnh của một kim tự tháp. Trong
trường hợp này, nếu con mắt bao gồm một triệu thế giới, sẽ không ngăn cản việc bị
tiêu hao trong việc phóng chiếu năng lực của nó; và nếu năng lực này phải đi
qua không gian như mùi hương, thì gió sẽ hoà nó và đưa nó tới một nơi khác.
Nhưng chúng ta (thực sự) nhìn thấy toàn khối mặt trời với cùng tính mau lẹ
giống như (một vật thể) ở cự li một thước Ý, và thị lực không bị nhiễu bởi
luồng gió cũng không bởi bất kì ngẫu nhiên nào khác.
Tôi
cho rằng thị lực mở rộng qua những thị tuyến tới bề mặt của những vật thể không
trong suốt, trong khi năng lực của những vật thể này mở rộng tới thị lực. Cũng
vậy, mỗi vật thể tản ra không gian bao quanh với hình ảnh của nó; mỗi vật thể
vừa đơn độc vừa đồng thời như nhau; và không chỉ chúng tản ra không gian đó
bằng ngoại hình giống nhau của vật thể, mà cũng còn giống nhau về năng lực.
Ví dụ
Bạn
sẽ thấy khi mặt trời ở bên trên trung tâm bán cầu hễ khi nào nó tự hiển thị những
ngoại hình; và bạn cũng thấy phản chiếu từ những phát xạ cũng như hào quang do
nhiệt của nó; và tất cả những năng lực này phát ra từ cùng một nguồn nhờ những
tuyến phát xạ thoát ra từ vật thể của nó và chúng kết thúc nơi những vật thể mờ
đục mà không khiến suy giảm nào ở nguồn.
Phản bác
Một
số nhà toán học lập luận rằng không có năng lực tinh thần nào có thể phát tán
ra từ mắt, bởi vì điều này không thể nào xảy ra mà không làm suy kém thị lực
một cách đáng kể, và vì vậy họ cho rằng con mắt tiếp nhận chứ không phóng xuất
bất cứ gì từ bản thân nó.
Ví dụ
Họ
sẽ nói sao về xạ hương vốn luôn giữ một lượng lớn mùi đượm trong khí quyển bao
quanh, và khi xạ hương chuyển đi xa nhiều dặm sẽ lan toả khắp thiên lí với mùi thơm
đó mà bản thân không giảm bớt?
Hoặc họ sẽ nói rằng tiếng chuông ngân nga
do quả lắc, hằng ngày đổ đầy hết cả vùng quê bằng âm thanh của nó, tất yếu phải
làm hao tổn cái chuông hao tổn?
Gần như chắc chắn rằng, có những con
người như thế—nhưng đủ rồi! Chẳng phải rằng có loại rắn gọi là lamia, hàng ngày người dân quê bị nó thu
hút bởi ánh nhìn trừng trừng như thanh nam châm thu hút sắt thép, chim sơn ca
vội đi tới cái chết bằng bài ca tang tóc?... Người ta cho rằng những thiếu nữ có uy lực
trong đôi mắt hấp dẫn ái tình của đàn ông.
(c)
Luật phối cảnh
Luật
phối cảnh là cái cương và bánh lái của hội hoạ.
Hội
hoạ đặt cơ sở trên phối cảnh, chính là một tri thức toàn diện về chức năng của
mắt. Và chức năng này đơn thuần bao gồm việc tiếp nhận theo hình kim tự tháp
những hình thể và màu sắc của mọi vật thể đặt phía trước nó. Tôi cho rằng,
trong một kim tự tháp, bởi vì không có vật thể nào thật nhỏ tới mức nó không
lớn hơn cái điểm mà những kim tự tháp này được tiếp nhận vào trong mắt. Do đó,
nếu bạn mở rộng những tuyến từ diềm mép của mỗi vật thể khi chúng hội tụ, bạn
sẽ mang chúng tới một điểm đơn độc, và những tuyến nói trên nhất thiết phải tạo
thành một kim tự tháp.
Có
ba nhánh về luật phối cảnh; nhánh thứ nhất xử lí với nguyên nhân giảm thiểu
(biểu kiến) của vật thể khi chúng lùi xa khỏi con mắt, và được gọi là phối cảnh
suy giảm; nhánh thứ hai bao gồm cách biến đổi màu sắc khi chúng lùi xa khỏi mắt;
nhánh thứ ba và cuối cùng, giải thích vật thể nên xuất hiện ra sao để ít rõ rệt
về tỉ lệ khi chúng ở xa hơn. Những tên gọi như sau: phối cảnh hình tuyến (linear),
phối cảnh màu sắc, và phối cảnh tiêu biến (disappearance)[4].
Khoa
học về hội hoạ xử lí với tất cả màu sắc của bề mặt vật thể và gồm cả hình dạng
vật thể; và sự gần và xa tương đối của chúng; với những mức độ suy giảm được đòi
hỏi khi khoảng cách dần gia tăng; và khoa học này là mẹ của phép phối cảnh, đó
là khoa học về thị tuyến (visual rays). Phối cảnh chia thành ba bộ phận, bộ
phận thứ nhất xử lí việc dựng hình của vật thể; bộ phận thứ nhì xử lí việc giảm
sắc độ của màu sắc khi chúng lùi xa; bộ phận thứ ba xử lí việc đánh mất độ rõ
ràng tuỳ vào những khoảng cách khác nhau. Bộ phận thứ nhất chỉ xử lí với đường
nét và ranh giới của vật thể được gọi là hình hoạ (drawing), nghĩa là hình
tượng của bất kì vật thể nào. Từ nó, nảy sinh một khoa học khác xử lí với bóng
tối và ánh sáng, cũng gọi là cách phối hợp sáng tối (chiaroscuro), và việc này
cần nhiều giải thích.
Luật
phối cảnh không gì khác ngoài việc nhìn một địa điểm từ phía sau tấm kính, nhẵn
và thật trong suốt, trên bề mặt ấy mọi vật có thể được đánh dấu từ sau tấm kính.
Những vật tiếp cận với điểm của mắt trong hình kim tự tháp, và những kim tự
tháp này giao nhau trên bề mặt tấm kính.
Phương pháp vẽ một vật thể nổi bật vào ban đêm
Hãy
đặt một tấm giấy đừng quá trong suốt ở giữa vật thể và ngọn đèn, bạn có thể vẽ nó
rất tuyệt.
Mỗi
dạng hình thể, trong mức độ nó tác động hiệu quả tới con mắt, gồm ba thuộc tính;
là khối (mass), hình dạng, và màu sắc; và khối có thể nhận ra ở khoảng cách lớn
hơn từ nguồn của nó hơn là cả màu sắc cả hình dạng. Màu cũng lại dễ nhận thấy ở
khoảng cách xa hơn là hình dạng, nhưng quy luật này không áp dụng cho những vật
phát quang.
Phối cảnh
Trong
số những vật thể có kích thước bằng nhau, những vật xa nhất với mắt sẽ thấy nhỏ
nhất.
Trong
một số vật thể có kích thước và sắc độ bằng nhau, những vật xa nhất sẽ hiện ra nhạt
nhất và nhỏ nhất.
Trong
một số vật thể, tất cả có độ lớn bằng nhau và xa bằng nhau, thì vật được thắp
sáng nhất sẽ hiện ra với mắt như gần nhất và lớn nhất.
Trong
những bóng có độ sâu bằng nhau thì những bóng nào gần nhất với mắt sẽ có vẻ ít
sâu nhất.
Một
vật màu đen sẽ hiện vẻ xanh lam hơn về tỉ lệ khi có khí quyển sáng hơn giữa nó
và mắt, như có thể thấy trong màu của bầu trời.
Tôi
yêu cầu xem điều này được thừa nhận (như là định đề)— để phát biểu rằng rằng
mọi tia băng qua không khí với mật độ bằng nhau đi theo đường thẳng từ nguồn
sáng tới vật thể hoặc địa điểm mà nó dội vào.
Trong
không trung tràn đầy vô hạn những đường thẳng giao thoa và đan bện lẫn nhau, và
tuyến này không chiếm cứ vị trí của tuyến khác. Chúng thay mặt cho bất kì vật
thể nào về cái hình dạng chân thực sản sinh ra chúng.
Thực
thể của khí quyển tràn đầy vô số những hình kim tự tháp phát xạ được sản sinh
bởi những vật thể tồn tại trong nó. Những hình kim tự tháp này giao thoa và
băng qua nhau với sự hội tụ độc lập mà không gây trở ngại cho nhau và thông qua
tất cả khí quyển bao quanh.
Hình tr. 156 (trong e-book)
Mặt
phẳng thẳng đứng biểu thị bằng đường thẳng góc và được hình dung như thể được
đặt ở phía trước của điểm chung, là nơi tập hợp của những hội tụ hình kim tự
tháp. Và mặt phẳng này cho thấy có cùng
quan hệ với điểm chung này giống như ở mặt phẳng thuỷ tinh, trên đó bạn vẽ
những vật thể khác nhau mà bạn thấy xuyên qua nó. Vậy, những vật thể được vẽ ra
sẽ nhỏ hơn nhiều so với vật thể gốc, giống như không gian giữa tấm kính và con
mắt thì nhỏ hơn so với không gian giữa tấm kính và những vật thể.
Nếu
con mắt hướng vào trung điểm của một đường đua với hai con ngựa đang chạy tới
đích dọc theo những tuyến song song của đường đua, sẽ trông như thể chúng đang
chạy để gặp được nhau. Điều này, như đã nói, xảy ra bởi vì hình ảnh những con
ngựa đang chuyển động in lên con mắt hướng về trung tâm bề mặt của đồng tử.
Về
cái điểm trong mắt, có thể hiểu thật dễ hơn nếu bạn nhìn vào con mắt của ai đó,
bạn sẽ thấy hình ảnh của bạn trong đó. Vậy, hãy hình dung hai tuyến bắt đầu từ
hai cái tai của bạn và tới thẳng hình ảnh hai cái tai mà bạn thấy trong mắt người
khác. Bạn sẽ nhận ra rõ rệt rằng những tuyến này hội tụ theo cách chúng sẽ gặp
ở một điểm không quá xa với hình ảnh của bạn soi gương trong mắt.
Hình tr. 157 (e-book)
Và
nếu bạn muốn đo lường sự giảm thiểu của hình kim tự tháp trong không trung vốn
chiếm cứ không gian thấy được ở giữa vật thể nhìn thấy và con mắt, bạn phải đo
nó dựa theo biểu đồ ở trên. Hãy cho mn
là một ngọn tháp, và ef là một cây
gậy mà bạn phải di chuyển tới và lui cho đến khi hai điểm mút cùng của nó tương
ứng với hai điểm mút cùng của tháp; tiếp theo, mang nó lại gần hơn tới mắt, ở cd và bạn sẽ thấy hình ảnh của tháp
dường như nhỏ hơn như ở tại to. Tiếp
theo, mang nó lại gần hơn tới mắt, và bạn sẽ thấy cây gậy phóng chiếu xa bên
ngoài hình cái tháp,... và như thế bạn sẽ nhận thấy rằng, khi di chuyển xa hơn
một chút ở bên trong những tuyến sẽ phải hội tụ ở một điểm.
Chỉ
một tuyến không giao nhau trong số tất cả những tuyến đạt tới thị lực, và tuyến
này không có chiều kích cảm nhận được, bởi vì nó là một tuyến toán học xuất
phát từ một điểm toán học không có chiều kích.
Hình tr. 158 (e-book)
Ta
có ab là mặt phẳng [bức hình] thẳng
đứng, và r là điểm của những hình kim
tự tháp kết thúc trong mắt và n là
điểm giảm thiểu luôn luôn theo một tuyến thẳng đối lập với con mắt và luôn di
động khi con mắt di động—hệt như khi một cây gậy di động thì cái bóng của nó
cũng di động, đúng như khi chiếc bóng di động cùng với vật thể. Và một trong
hai điểm là đỉnh của những hình kim tự tháp có những đáy chung ở những mặt bằng
thẳng góc chen nhau. Nhưng, mặc dù những đáy của chúng đều bằng nhau, các góc của
chúng lại không bằng nhau bởi vì điểm giảm thiểu là tận cùng của một góc nhỏ hơn
với góc của mắt. Nếu bạn hỏi tôi: “Dùng kinh nghiệm thực tiễn nào bạn có thể
cho tôi thấy những điểm này? Giải đáp của tôi—liên hệ đến điểm suy giảm di động
theo bạn—khi bạn bước đi bên một cánh đồng đã cày bừa, hãy nhìn vào những luống
cày thẳng đi xuống cùng với những điểm mút cùng của chúng tới con đường nơi bạn
đang bước đi, và bạn sẽ thấy rằng mỗi cặp luống cày trông như thể chúng cố gắng
tới gần hơn và gặp ở điểm mút cùng [xa hơn]...
2. BỀ MẶT CỦA VẬT
THỂ VÀ ÁNH SÁNG
Nghệ thuật hội hoạ
quan tâm đến việc miêu tả bề mặt của vật thể, nó gắn liền với hình học không
gian. Những bề mặt được nhận thức là không có thực chất giống như những mặt
phẳng hình học; và những định đề về những Nguyên tố của Euclid định nghĩa điểm,
tuyến, mặt phẳng áp dụng với chúng.
Hơn nữa, những địa điểm và màu sắc của
vật thể được phơi mở bởi những tia sáng vốn phát xạ từ nguồn sáng của chúng
trong việc tạo thành hình kim tự tháp. Ở những đáy của những hình kim tự tháp
này là những vật thể mà những tia sáng dội vào những góc khác nhau khi chúng xua
đuổi bóng tối; và qua sự tương tác của ánh sáng và bóng, những vật thể hiện ra
trong tầm nhìn.
Leonardo xuất sắc trong việc dựng hình bằng
những cấp độ sáng và tối, và là người phát triển cách tương phản sáng tối chiaroscuro, và sfumato (hiệu quả “xông khói” làm nhoà nét), có thể coi ông như người báo
trước cho hội hoạ Ấn tượng, mặc dù lí thuyết về những màu sắc nguyên của quang
phổ mặt trời, mà ảnh hưởng rất lớn, chưa được biết đến ở thời của ông.
Hoạ luận của ông thấm nhuần quan niệm hình
thành của tự nhiên. Bốn màu sắc đơn thuần, đỏ, lam, lục, và vàng liên hệ đến
bốn nguyên tố lửa, không khí, nước, và đất, cung cách mà những vật thể bao bọc
trong không gian tương tự với cung cách những nguyên tố tiếp xúc với nhau.
(a)
Cơ
sở hình học
Ai không phải nhà toán học xin chớ đọc những nguyên tố trong tác phẩm của tôi.
Khoa học về hội hoạ bắt đầu bằng điểm (point), thứ đến là tuyến (line), thứ ba là mặt phẳng (plane), và thứ tư là hình thể bao bọc bằng những mặt phẳng. Đây cũng là luận về cách miêu tả vật thể. Thực sự, hội hoạ không mở rộng ra ngoài bề mặt; và chính bằng bề mặt mà vật thể của một vật hữu hình được miêu tả.
Một
điểm vốn không có trung tâm. Nó cũng không có độ rộng, độ dài, hoặc độ sâu. Một
tuyến được sản sinh do vận động của một điểm, và những biên cực (extremity) của
nó là những điểm. Nó cũng không có độ rộng hoặc độ sâu. Một bề mặt là sự mở rộng
tạo thành do vận động ngang (transverse) của một tuyến, và những biên cực của
nó là tuyến (một bề mặt không đó độ sâu). Một vật thể là một số lượng được hình
thành bởi sự vận động trắc diện (lateral) của một bề mặt và những biên giới của
nó là những bề mặt. Một vật thể là một độ dài, và nó có độ rộng cùng độ sâu
được tạo thành do vận động trắc diện từ bề mặt của nó.
1. Bề mặt là giới hạn của vật thể. 2. Giới hạn của vật thể không phải là phần này của vật thể đó. 3. Cái không phải là phần của vật thể này thì là một vật của hư vô. 4. Một vật của hư vô là một vật không chiếm bề mặt không gian nào cả. Giới hạn của một vật thể là bắt đầu một vật thể khác.
Bề mặt giới hạn là khởi đầu của một bề mặt khác. Những giới hạn của hai vật thể cùng phạm vi (coterminous) có thể hoán chuyển bề mặt của cái này và cái kia, như nước với không khí. Không có bề mặt nào của những vật thể là những phần của những vật thể này.
Ranh giới của vật thể là ranh giới những mặt phẳng của chúng, và ranh giới những mặt phẳng là những tuyến. Tuyến nào không tạo thành bộ phận kích thước bề mặt, thì cũng không tạo thành khí quyển bao quanh những mặt phẳng này; vì thế, những thứ không phải là phần của bất cứ vật gì thì vô hình như đã chứng minh trong hình học.
Ranh giới của một vật với một vật khác thì mang tính chất của tuyến trong toán học, mà không phải là một tuyến vẽ, bởi kết thúc của một màu sắc là khởi đầu một màu sắc khác—ranh giới là một thứ vô hình.
Không gian trống không khởi đầu ở chỗ vật thể kết thúc. Ở đâu không gian trống không kết thúc thì vật thể khởi đầu và ở đâu vật thể kết thúc thì trống không khởi đầu.
Điểm
không có trung tâm, nhưng bản thân nó là một trung tâm và không có gì có thể nhỏ
hơn. Điểm là tối thiểu. Điểm thì bất khả phân bằng trí óc. Điểm không có các
phần. Điểm kết thúc mà hư vô và tuyến có chung. Điểm chẳng phải là hư vô cũng
chẳng phải tuyến, cũng không chiếm không gian giữa chúng. Vì thế, tận cùng của
hư vô và khởi đầu của tuyến tiếp xúc với nhau, nhưng chúng không liên kết với
nhau, vì ở giữa chúng, chia cắt chúng, là điểm...
Và suy ra rằng nhiều điểm hình dung có sự
tiếp xúc liên tục không tạo thành tuyến và vì thế nhiều tuyến tiếp xúc liên tục
dọc theo những cạnh bên không tạo nên một mặt phẳng, nhiều mặt phẳng tiếp xúc
liên tục cũng không tạo nên một vật thể, bởi vì giữa chúng ta, những vật thể đều
không được hình thành từ những thứ phi vật thể...
Sự tiếp xúc của chất lỏng với chất rắn là
một bề mặt chung cho cả chất lỏng và chất rắn. Tương tự, tiếp xúc giữa một chất
lỏng nặng hơn và nhẹ hơn là một bề mặt chung cho cả hai. Mặt phẳng cũng không
hình thành phần của cả hai thứ đó—nó chỉ thuần là ranh giới chung.
Như vậy, bề mặt của nước không hình thành phần của nước cũng không hình thành phần của không khí... Vậy điều gì chia không khí ra khỏi nước? Tất phải có một ranh giới chung không phải không khí cũng không phải nước, nhưng không phải là chất thể. Một vật thể thứ ba xen vào giữa hai vật thể sẽ ngăn sự tiếp xúc của chúng và ở đây nước và không khí tiếp xúc mà không có gì chen vào giữa chúng. Do đó, chúng liên kết với nhau và không khí không thể vận động mà thiếu nước, và nước bốc lên mà không kéo nó qua không khí. Vì thế, bề mặt là ranh giới chung của cả hai vật thể, và nó cũng không hình thành phần của vật thể này; vì nếu nó hình thành phần của vật thể hẳn là nó đã có một khối lượng lớn có thể chia ra được. Nhưng vì bề mặt thì bất khả phân, cho nên hư vô tách riêng những vật thể này ra với nhau.
Hình
trụ của một vật thể là dạng hình ống và hai đầu đối lập của nó là hai hình tròn
bao gồm giữa những tuyến song song, và thông qua tâm của hình trụ là một tuyến
thẳng thông qua giữa độ dầy của hình trụ, kết thúc ở những tâm của những vòng
tròn này, mà người xưa gọi là trục.
Mệnh đề
Mọi
vật thể được bao quanh bởi một bề mặt biên cực (extreme).
Mỗi bề mặt có vô số điểm.
Mỗi
điểm tạo ra một tia.
Tia được tạo nên từ vô số tuyến riêng
biệt.
Trong mỗi điểm trên bất cứ tuyến nào,
những tuyến giao thoa phát sinh từ những điềm trên bề mặt vật thể, và chúng tạo
thành những hình kim tự tháp. Ở đỉnh điểm của mỗi hinh kim tự tháp có những
tuyến giao nhau phát sinh từ toàn bộ và từ những phần của vật thể, vì thế từ
đỉnh điểm này người ta có thể thấy toàn bộ và những phần.
Không khí giữa những vật thể tràn đầy
những giao nhau do những hình ảnh phát xạ hình thành từ những vật thể này.
Những hình tượng và màu sắc của chúng được
thuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác bằng một hình kim tự tháp.
Mỗi vật thể làm đầy không khí bao quanh
bằng vô hạn những hình ảnh của nó nhờ những tia này.
Hình ảnh của mỗi điểm nằm trong toàn bộ
và trong mỗi phần của tuyến do điểm này tạo nên.
Mỗi điểm của một vật thể tương tự có khả
năng kết hợp toàn bộ đáy của điểm khác .
Mỗi vật thể trở thành đáy của vô số và vô
hạn những hình kim tự tháp. Cũng đáy này dùng như tác nhân cho vô số và vô hạn
hình kim tự tháp xoay theo những hướng khác nhau và theo những độ dài khác
nhau.
Điểm của mỗi hình kim tự tháp bản thân nó
có toàn bộ hình ảnh ở phần đáy.
Tuyến trung tâm của mỗi kim tự tháp thì tràn đầy vô số những điểm của những
hình kim tự tháp khác.
Một hình kim tự tháp xuyên qua một hình
kim tự tháp khác mà không lẫn lộn...
Khi
nhà hình học giảm trừ mọi diện tích bao quanh bởi những tuyến thành hình vuông
và mỗi vật thể thành hình lập phương; và nhà số học cũng tiến hành y như thế
với những căn bậc lập phương và bình phương, hai môn khoa học này không mở rộng
vượt ra ngoài nghiên cứu về những lượng liên tục và bất liên tục; mà chúng
không xử lí với phẩm chất của sự vật vốn kiến tạo nên vẻ đẹp của những tác phẩm
tự nhiên và vẻ huy hoàng của thế giới.
(b)
Ánh
sáng và bóng (shade) và màu sắc
Trong nghiên cứu khác nhau về những tiến trình tự nhiên, thì ánh sáng ban lạc thú nhiều nhất cho những ai chiêm ngắm nó. Và thuộc trong những đặc điểm chính của toán học là tính xác định từ những chứng minh nâng cao trí năng của những nhà khảo sát một cách hiệu năng nhất. Luật phối cảnh, vì thế, được yêu chuộng hơn mọi thuyết ngôn và những hệ thống nghiên cứu của giới kinh viện. Trong địa hạt của phối cảnh, ánh sáng chiếu xạ được giải thích bằng những phương pháp chứng minh, ở khía cạnh ấy có thể thấy vẻ rực rỡ không chỉ của toán học mà cũng còn của khoa học vật lí, cả hai như thể được tô điểm bằng những đoá hoa. Bởi vì, những mệnh đề đã được quy định quá dài, cho nên tôi sẽ trích yếu chúng lại cho ngắn gọn, với những chứng minh được rút ra từ tự nhiên hoặc toán học căn cứ theo tính chất của đề tài; đôi khi diễn dịch ra từ những hiệu quả từ những nguyên nhân, và những lúc khác thì từ nguyên nhân tới hiệu quả: cũng bổ sung cho những kết luận của tôi một số thứ không bao gồm trong những mệnh đề này mặc dù từ chúng có thể suy đoán kết luận. Huống hồ, vị Chúa tể là Ánh sáng của vạn vật, ngài sẽ soi sáng tôi. Tôi sẽ luận bàn về ánh sáng.
Hãy
nhìn vào ánh sáng và xem xét vẻ đẹp của nó. Bạn chợp mắt lại và lại nhìn vào
nó: những gì bạn thấy thoạt đầu bây giờ thì không có ở đó, còn những gì đã có ở
đó thì không còn nữa.
Ai là kẻ tái sáng tạo nó nếu vị sáng tạo chết đi thường xuyên?
Ánh sáng là kẻ xua đuổi bóng tối. Bóng là sự cản trở ánh sáng.
Những nguyên tắc khoa học và chân chính về hội hoạ đầu tiên xác định một vật thể có bóng là gì, một cái bóng trực tiếp là gì, một cái bóng đổ là gì, và ánh sáng là gì, có nghĩa là, bóng tối, ánh sáng, màu sắc, thể, hình, vị trí, xa, gần, động, và tĩnh. Những thứ này được hiểu bằng trí óc mà không cần đến việc thao tác thể lực; và chúng hình thành nên khoa học hội hoạ vốn duy trì trong đầu óc của những người chiêm ngắm; và từ đó phát sinh ra sự sáng tạo thực tại vốn ưu tú hơn sự chiêm ngắm hoặc khoa học đi trước nó.
Trong thực hành phối cảnh, cùng những quy tắc áp dụng với ánh sáng và với mắt.
Bóng
là sự cản trở của ánh sáng. Những bóng, dường như với tôi, mang tầm quan trọng
cực kì trong phối cảnh, bởi thiếu chúng thì những vật thể mờ đục và rắn đặc sẽ không
rõ ràng; những gì bao gồm trong những giới tuyến (outline) của nó và bản thân
những giới tuyến sẽ không được nhận biết rõ trừ khi nó cho thấy trên một hậu
cảnh có một sắc độ khác biệt. Vì thế, tôi phát biểu như mệnh đề đầu tiên của
tôi về những bóng rằng mọi vật thể mờ đục được bao quanh và toàn bộ bề mặt của
nó được bao bọc trong bóng và ánh sáng. Với mệh đề này, tôi sẽ dành cho cuốn
sách thứ nhất.
Hơn
nữa, những bóng này có những mức độ tối khác nhau, bởi chúng đã bị bỏ rơi bởi
một khối lượng khác nhau về quang tuyến; và những thứ này tôi gọi là bóng sơ
đẳng, bởi vì chúng là bóng đầu tiên hình thành nên tấm phủ lên những vật thể
liên hệ. Với mệnh đề này, tôi dành cho cuốn thứ hai.
Từ những bóng sơ đẳng này, phát sinh ra
những quang tuyến tối thẫm được khuếch tán quanh không trung và khác biệt về
cường độ dựa theo mật độ của những bóng sơ
đẳng mà từ đó chúng phái sinh; và do đó, tôi sẽ gọi những bóng này là bóng phái
sinh, bởi vì chúng có nguồn gốc từ những bóng khác. Về điểm này này tôi sẽ nói trong cuốn thứ ba.
Hơn nữa, những bóng phái sinh này khi dội
lên trên bất cứ vật thể nào thì tạo nên thật nhiều hiệu quả tuỳ theo những địa
điểm khác nhau mà chúng dội vào; điều này tôi sẽ bàn trong cuốn thứ tư.
Và bởi ở nơi bóng phái sinh dội vào, nên
nó luôn bị bao quanh bởi sự dội vào của những quang tuyến, nó nhảy lùi bằng
những quang tuyến này theo một luồng phản xạ hướng tới nguồn của nó rồi hỗn hợp
biến thành nó và ở mức nào đó biến cải tính chất của nó; với việc này tôi sẽ
dành cho cuốn thứ năm.
Để bổ sung cho điều này, tôi sẽ thảo luận
trong cuốn thứ sáu bao gồm việc khảo sát đủ mọi loại khác nhau về sự dội lại
(rebound) của những quang tuyến phản chiếu làm thay đổi bóng sơ đẳng bằng nhiều
màu sắc khác nhau tuỳ theo những điểm khác nhau mà những quang tuyến phản chiếu
này phát ra.
Thêm nữa, tôi sẽ thực hiện cuốn thứ bảy
nghiên cứu về những cự li khác nhau có thể tồn tại giữa điểm là nơi mỗi quang
tuyến phản chiếu dội vào và điểm từ đó nó phát ra, và nghiên cứu về những sắc
thái khác nhau của màu sắc mà nó hấp thu khi dội vào lên những vật thể mờ đục.
Về
tất cả những vật thể thấy được, có ba thứ phải xem xét. Đây là vị trí của mắt
nhìn, của vật được nhìn, và vị trí của ánh sáng chiếu sáng vật thể. b là con mắt, a là vật thấy được, c là
ánh sáng. a là con mắt, b là vật chiếu sáng, c là vật thể được chiếu sáng.
Về tính chất của bóng
Bóng
(shadow) tham dự vào tính chất của vật chất phổ quát. Tất cả sự vật lúc khởi
đầu mạnh mẽ hơn và yếu dần khi gần tới cuối; tôi cho rằng lúc khởi đầu, bất kể
hình dạng hay điều kiện nào, có thể thấy hoặc không thể thấy được. Không phải
từ những khởi đầu nhỏ rồi dần tăng trưởng sang kích thước lớn hơn, như cây sồi
lớn trưởng thành từ hạt sồi nhỏ. Mà trái lại, như cây sồi mạnh mẽ nhất lúc khởi
đầu ở phần thân cuống, là nơi nó vọt lên từ lòng đất và to lớn nhất. Vậy, tối tăm
là mức độ mạnh nhất của bóng, còn ánh sáng là mức độ nhỏ nhất. Vì thế, hỡi
người Hoạ sĩ, hãy tạo cho những bóng được tối hơn gần với vật thể mà nó hắt
bóng, và làm cho phần tận cùng của nó nhạt nhoà vào ánh sáng, gần như không có
tận cùng.
Bóng
là sự giảm thiểu của cả ánh sáng và tối, và đứng ở giữa sáng và tối.
Một cái bóng có thể tối vô hạn, và cũng
có khi thiếu những mức độ tối vô hạn.
Khởi đầu và kết thúc của bóng nằm giữa sáng và tối và có thể giảm vô hạn và tăng vô hạn.
Bóng là sự giảm thiểu ánh sáng qua sự can thiệp của một vật thể mờ đục, bóng là sự tương ứng của những quang tuyến bị cắt đứt bởi một vật thể mờ đục.
Đâu
là dị biệt giữa ánh sáng và quang huy (lustre) [cường quang] xuất hiện trên những
bề mặt trơn nhẵn của những vật thể mờ đục? Những tia sáng trên bề mặt trơn nhẵn
của những vật thể mờ đục sẽ tĩnh tại ngay cả nếu mắt nhìn thấy chúng chuyển động.
Nhưng ánh sáng phản chiếu lên cùng những vật thể ấy sẽ xuất hiện ở nhiều địa
điểm khác nhau trên bề mặt khi con mắt ở những vị trí khác nhau.
Cường
quang hoặc quang huy trên một vật thể thì không nhất thiết định vị ở giữa phần
được thắp sáng, mà di động khi con mắt nhìn nó di động.
Giả
định vật thể là hình tròn ở đây và để cho ánh sáng chiếu từ điểm a, và phía được chiếu sáng của vật thể
là bc và con mắt ở điểm d: tiếp đến, tôi cho rằng khi mà độ
quang huy ở mọi nơi và trong mỗi phần, nếu bạn đứng ở điểm d, thì độ quang huy sẽ ở c,
và khi con mắt di động từ d tới a, độ quang huy sẽ di động từ c tới n.
Dị biệt giữa quang huy và ánh sáng
Quang huy [hay cường quang] không mang màu sắc mà là cảm giác về màu nhũ bạch giống như được phái sinh từ bề mặt của những vật thể ướt; ánh sáng mang những màu sắc của vật thể phản chiếu nó.
Một vật thể riêng biệt phát quang tạo nên tính phù điêu (relief) mạnh hơn trên vật thể hơn là ánh sáng khuếch tán; như có thể thấy bằng cách so sánh một bên phong cảnh do mặt trời chiếu sáng, và một bên bị những đám mây che khuất, và chỉ được chiếu sáng bằng ánh sáng khuếch tán trong khí quyển.
Trong một vật thể có sáng và bóng tối, phía đối diện với ánh sáng truyền đi những hình ảnh mang chi tiết rõ rệt hơn và trực tiếp tới mắt hơn là phía trong bóng.
Ánh sáng của vật thể càng chói sáng thì những bóng đổ xuống của vật thể được chiếu sáng càng đậm hơn.
Nếu
những quang tuyến phát ra, như kinh nghiệm cho thấy, từ một điểm đơn độc, và điểm
này được khuếch tán trong một khối cầu quanh điểm này, phát xạ và phân tán
trong không trung, chúng càng lan rộng xa hơn; và một vật thể đặt giữa ánh sáng
và bức tường thì luôn có hình lớn hơn trong cái bóng của nó, bởi những quang
tuyến dội vào nó sẽ lan rộng khi chúng chạm tới bức tường.
Cách thức những vật thể hắt bóng xuống sẽ được xác định. Ở đây, nếu vật thể là hình quả núi và ánh sáng ở điểm a, tôi cho rằng từ bd và từ cf sẽ không có ánh sáng mà từ những quang tuyến phản chiếu. Đây là do những quang tuyến có thể chỉ tác động bằng những tuyến thẳng; và cũng giống thế với trường hợp với những quang tuyến thứ cấp hoặc phản chiếu.
Cái bóng ở đâu trên khuôn mặt?
Vẻ mê hoặc cực kì của bóng và ánh sáng có thể thấy trên khuôn mặt của những người ngồi bên cửa trong những căn nhà tối. Mắt của khán giả thấy phần khuôn mặt chìm trong cái tối của căn nhà, còn phần khuôn mặt được rọi sáng thì rút sự sáng bừng của nó từ vẻ huy hoàng của bầu trời. Từ sự gia tăng cường độ này của sáng và bóng, gương mặt có được tính phù điêu và vẻ đẹp qua việc cho thấy những cái bóng tế nhị nhất trong phần sáng và những ánh sáng tế nhị nhất trong phần tối.
Những
ánh sáng chiếu những vật thể mờ đục có bốn loại, gọi là, phổ biến, như loại ánh
sáng trong khí quyển bên trong chân trời của chúng ta; và loại đặc thù, như ánh
sáng của mặt trời hoặc qua một cửa sổ hoặc cửa ra vào hoặc không gian khác;
loại thứ ba là ánh sáng phản chiếu; và cũng có loại thứ tư xuyên qua những chất
thể bán trong suốt tới một mức độ nhất định như vải gai, giấy, hoặc những thứ
tương tự; mà không phải những thứ trong suốt như kính hoặc pha lê hoặc những vật
thể rất mỏng mà hiệu quả tương tự như thể không có gì chen vào giữa vật thể và
ánh sáng.
Về ba loại ánh sáng chiếu rọi những vật thể mờ đục
Loại thứ nhất trong ba loại ánh sáng chiếu xạ vào những vật thể mờ đục được gọi là loại đặc thù, và nó là mặt trời hay ánh sáng từ một cửa sổ hay một ngọn lửa. Loại thứ hai gọi là phổ biến và thấy trong thời tiết u ám hoặc sương mù hoặc đại loại như thế. Loại thứ ba là ánh sáng dịu khi mặt trời về chiều hoặc buổi sáng khi mặt trời hoàn toàn ở bên dưới đường chân trời.
Khí
quyển rất thích nghi như khi tập hợp và hiển thị tức thời mỗi hình tượng và sự
tương tự của bất kì vật thể nào mà nó thấy. Khi mặt trời xuất hiện ở chân trời
phía đông thì nó lập tức toả ra toàn bộ bán cầu của chúng ta và làm đầy bằng
hình tượng toả sáng của nó.
Tất cả bể mặt của vật thể rắn quay hướng
tới mặt trời hoặc hướng tới khí quyển được mặt trời chiếu sáng, trở nên được
che phủ và được nhuộm bởi ánh mặt trời hoặc ánh sáng trong khí quyển.
Mọi vật thể rắn được bao bọc và được
khoác lên bằng ánh sáng hoặc tối. Bạn sẽ chỉ có sự nhận thức kém về chi tiết
vật thể khi cái phần mà bạn thấy nằm trong bóng, hoặc trọn vẹn được chiếu sáng.
Khoảng cách giữa mắt và vật thể quyết định
độ tăng giảm của bộ phận được soi sáng và bộ phận nằm trong bóng.
Hình dạng của vật thể không thể nhận thức
một cách chính xác khi nó phủ quanh bởi một màu sắc tương tự với chính nó, và
con mắt ở giữa phần trong sáng và phần trong bóng.
Bộ phận nào của bề mặt có màu, theo lí, phải là có cường độ mạnh nhất? Nếu a là ánh sáng và b được chiếu sáng bằng một tuyến thẳng, thì c ở chỗ mà sáng không thể dội vào là loại ánh sáng chỉ qua sự phản chiếu từ b, mà chúng ta gọi là màu đỏ. Vậy ánh sáng phản chiếu từ bề mặt màu đỏ này sẽ nhuốm bề mặt tại c với màu đỏ. Và nếu c là đỏ, nó cũng sẽ xuất hiện mạnh hơn b; và nếu nó màu vàng bạn sẽ thấy có một màu giữa đỏ và vàng.
Bề mặt của một vật thể san sẻ cái màu của ánh sáng chiếu rọi nó, và màu của không trung chen vào giữa con mắt và vật thể ấy, cũng có thể nói, màu của môi trường trong suốt chen vào giữa vật thể và con mắt.
Những
màu nhìn thấy trong bóng sẽ phơi mở ít nhiều vẻ đẹp tự nhiên của chúng tỉ lệ
tuỳ chúng nằm trong bóng nhạt hơn hoặc đậm hơn. Nhưng những màu nhìn thấy trong
một không gian được chiếu sáng sẽ phơi mở vẻ đẹp nhiều hơn theo tỉ lệ với cường
độ của ánh sáng.
Những màu sắc nhìn thấy trong bóng sẽ
hiển thị kém đa dạng tỉ lệ tuỳ những bóng có độ đậm hơn. Chứng minh cho điểm
này là việc nhìn từ một khoảng không gian mở qua những lối ra vào của những
giáo đường âm u, nơi mà những bức tranh được vẽ bằng những màu sắc khác nhau,
tất cả đều có vẻ bao phủ bằng bóng tối. Vì thế, ở một khoảng cách đáng kể, tất
cả những bóng có màu khác nhau sẽ xuất hiện cùng tối. Khi một vật thể nằm trong
sáng và bóng, thì phía sáng cho thấy màu chân thực của nó.
Về tính chất tương phản
Những trang phục đen làm cho da thịt người ta hiện vẻ trắng hơn thực tế, còn trang phục trắng làm cho da thịt sẫm lại, còn trang phục màu vàng làm cho da thịt nhuốm màu, trong khi trang phục đỏ cho thấy sắc da thịt nhợt nhạt.
Về việc sắp cạnh màu này cạnh màu khác để làm trội bật lẫn nhau
Nếu
bạn muốn tiếp cận một màu để làm ra một màu khác thu hút ở bên cạnh, hãy quan
sát quy luật thấy trong quang tuyến mặt trời khi tạo thành cầu vồng, còn gọi
tên khác là Mống/Iris. Màu sắc của cầu vồng tạo nên bởi vận động của mưa, bởi
mỗi giọt nước nhỏ thay đổi trong dòng rơi của nó thành từng màu của cầu vồng,
như sẽ vạch ra ở nơi thích hợp.
Về những màu thứ cấp sản sinh do sự hỗn hợp những màu khác
Những màu đơn có
sáu loại, trong đó đầu tiên là màu trắng, mặc dù một số triết gia không chấp
nhận trắng hoặc đen trong số màu sắc, bởi trắng là nguyên nhân của các màu khác,
còn đen là sự vắng mặt của các màu. Thế nhưng, bởi hoạ sĩ không thể làm việc mà
thiếu đen và trắng, cho nên chúng ta bao gộp chúng trong số màu, và cho rằng
trong trật tự này, trắng đứng đầu tiên trong số màu đơn, và vàng đứng thứ hai,
lục thứ ba, lam thứ tư, đỏ thứ năm, và đen thứ sáu.
Chúng ta sẽ lấy trắng thay màu của ánh sáng, thiếu nó, không màu sắc nào có thể nhìn thấy, vàng thay màu Đất, lục thay màu Nước, lam thay màu Không khí, đỏ thay màu Lửa, và đen thay màu bóng tối vốn ở bên trên nguyên tố Lửa; vì ở đó không có vật chất ở bất kì mật độ nào, và những quang tuyến mặt trời phải xuyên qua, vì vậy mà chiếu sáng. Nếu bạn muốn vắn tắt nhìn thấy tất cả sự đa dạng của những màu kết hợp, hãy lấy những tấm kính màu và nhìn xuyên qua chúng vào tất cả những màu của đồng quê được nhìn qua bên kia những tấm kính. Khi đó, bạn sẽ thấy những màu của sự vật nhìn thấy ở bên kia những tấm kính đều hỗn hợp với màu của kính và bạn sẽ thấy màu nào được tăng cường hoặc bị yếu đi do sự hỗn hợp này. Ví dụ, nếu tấm kính màu vàng, tôi cho rằng những hình ảnh thị giác của vật thể xuyên qua màu đó tới mắt có thể hoặc vừa suy yếu hoặc nâng cao, và sự xuống cấp sẽ xảy ra với màu lam, đen, và trắng hơn hẳn mọi màu khác; và sự nâng cao sẽ xảy ra với màu vàng và lục hơn là với những màu khác. Như vậy, bạn sẽ khảo sát bằng mắt sự hỗn hợp màu sắc vốn nhiều vô hạn; rồi bạn có thể chọn lựa các màu sắc cho những kết hợp mới từ việc hỗn hợp và xắp xếp. Bạn cũng có thể làm tương tự như vậy với hai tấm kính khác màu giơ lên trước mắt rồi tiếp tục tự mình thực nghiệm.
Hãy viết về cầu vồng trong cuốn sách cuối luận về Hội hoạ, nhưng trước tiên hãy viết cuốn sách về màu sắc sinh ra do sự hỗn hợp với những màu sắc khác, như thế, bạn có thể chứng minh những màu sắc của những hoạ sĩ khác về nguyên uỷ của những màu cầu vồng.
Mọi vật thể bản
thân không có màu thì bị nhuốm hoặc vừa toàn thể hoặc một phần do màu sắc đối
chọi với nó. Điều này có thể cho thấy với mọi vật dùng như tấm gương bị nhuốm
màu sắc của vật phản chiếu trong nó. Và nếu vật màu trắng, thì bộ phận của nó
được chiếu sáng bởi màu đỏ sẽ xuất hiện màu đỏ; và cũng thế với mỗi màu khác dù
nó là sáng hay tối.
Mọi vật thể mờ đục hoặc không màu san sẻ với màu của những gì đối chọi với nó: như xảy ra với bức tường trắng.
Bất kì bề mặt màu trắng và mờ đục nào cũng nhuốm màu từng phần do phản chiếu từ những vật thể bao quanh.
Bởi trắng không phải màu nhưng lại có khả năng tiếp thu mọi màu sắc khác khi một vật thể trắng có thể nhìn thấy ở ngoài trời mà hết thảy bóng của nó là màu lam... còn bộ phận được phơi bày ra mặt trời và khí quyển thì khoác lấy màu sắc của mặt trời và khí quyển, còn bộ phận không thấy được mặt trời thì duy trì trong bóng và chỉ san sẻ màu sắc của khí quyển. Và nếu vật thể trắng này đã không phản chiếu những cánh đồng lục trải tận tới chân trời cũng không đối diện với độ sáng ngời của chân trời, thì nó chắc chắn sẽ xuất hiện đơn thuần tương đồng với sắc điệu của khí quyển.
Trong số màu có độ
trắng bằng nhau thì gần như sẽ loá nhất khi ở trên nền tối nhất, và màu đen gần
như sẽ đậm nhất khi nó nằm trên nền có độ sáng hơn. Màu đỏ cũng vậy gần như
chói nhất khi đặt trên nền màu vàng, và cũng thế với tất cả những màu khi đặt
trên những nền đó sẽ tạo ra những sự tương phản sắc nét nhất.
Cách miêu tả những vật thể màu trắng
Nếu bạn miêu tả một vật, hãy cho nó bao quanh bằng không gian rộng, bởi màu trắng không có màu riêng của nó cho nên nó nhuốm màu và thay đổi theo cấp độ nào đó bởi màu của những vật bao quanh. Nếu bạn thấy một phụ nữ trang phục màu trắng giữa phong cảnh thì phía hướng tới mặt trời có màu chói lọi, tới nỗi trong một số phần nó sẽ làm loá mắt như chính mặt trời; còn phía hướng tới khí quyển,—toả sáng qua sự đan bện với những tia mặt trời và được chúng thâm nhập—vì bản thân khí quyển là màu lam, nên phía hình tượng người phụ nữ sẽ xuất hiện tràn ngập trong màu lam. Nếu bề mặt của mặt đất quanh nàng là đồng cỏ và nếu nàng đứng giữa một cánh đồng được mặt trời thắp sáng và do chính mặt trời, bạn sẽ thấy từng phần của những nếp gấp y phục hướng tới đồng cỏ đều nhuốm màu bởi những tia phản chiếu với màu của đồng cỏ đó. Như vậy, màu trắng được chuyển hoá thành những màu của vật phát quang và màu của những vật không phát quang gần nó.
Mọi vật di động nhanh gần như nhuốm vào các phần của nó những ấn tượng về màu sắc. Mệnh đề này được chứng minh từ kinh nghiệm; vậy, khi ánh chớp di động giữa các đám mây đen, thì toàn bộ quá trình của nó qua tốc độ của đường bay ngoằn ngoèo tương tự một con rắn phát quang. Giống như nếu bạn di động một khúc củi đang cháy thì toàn bộ quá trình của nó sẽ như một vòng tròn lửa. Điều này là do cơ quan tri giác hoạt động nhanh hơn sự phán đoán.
Nghệ thuật hội hoạ chứng minh nhờ khoa học của nó, những phong cảnh rộng với những chân trời xa trên một mặt phẳng.
Người hoạ sĩ có
thể gợi ý với bạn những cự li khác nhau bằng việc thay đổi bằng màu sắc do khí
quyển sản sinh chen vào giữa vật thể và mắt. Y có thể miêu tả sương mù qua đó
hình dạng sự vật khó lắm mới nhận ra được; mưa với những đỉnh núi và thung lũng
phủ mây được phô bày suốt khắp; những đám
mây bụi cuồn cuộn quanh những chiến binh; những sông suối có độ trong suốt khác
nhau, và đàn cá tung tăng giữa mặt nước và đáy; và những viên sỏi nhẵn nhiều
màu sắc đọng lại trên bãi cát sạch của lòng sông bao quanh bởi những thảo mộc
xanh biếc nhìn thấy ở dưới mặt nước. Y sẽ miêu tả tinh tú ở những độ cao khác
nhau bên trên đầu chúng ta.
Phối cảnh không trung
Có một loại phối cảnh khác mà tôi gọi là không trung, bởi vì bằng sự dị biệt trong khí quyển, người ta mới có thể phân biệt được những cự li khác nhau của những toà nhà khác nhau xuất hiện trên một đường đơn độc; ví dụ như khi chúng ta nhìn thấy một số toà nhà vượt xa hẳn bức tường, tất cả được nhìn từ trên nóc tường, trông có vẻ có cùng kích thước; và nếu trong bức tranh, bạn muốn miêu tả một thứ xa hơn cái kia, bạn phải làm cho khí quyển sao cho đậm đặc lại. Bạn biết rằng trong một khí quyển có mật độ bằng nhau thì những vật xa nhất nhìn thấy qua nó, như núi non, vì thế có một khối lượng lớn khí quyển giữa mắt bạn và chúng, sẽ hiện màu lam và hầu như có cùng sắc điệu như bản thân khí quyển khi mặt trời ở phía Đông. Do đó, bạn nên tạo cho toà nhà gần nhất bên trên bức tường có màu sắc tự nhiên, nhưng làm cho những toà nhà ở xa hơn ít rõ nét và màu lam đậm hơn...
Mật độ của khói tính
từ đường chân trời trở xuống thì trắng và từ chân trời trở lên thì tối sẫm; và
mặc dù khói này bản thân có màu đồng dạng, nhưng sự đồng dạng này tỏ ra khác
nhau, vì sự dị biệt của không gian mà trong đó nó xuất hiện.
Về cây cối và ánh sáng chiếu trên chúng
Phương pháp thực
hành tốt nhất trong việc miêu tả cảnh sắc đồng quê, hoặc phong cảnh với cây
cối, là chọn lúc mặt trời trên bầu trời lúc khuất trong mây; vì thế những cánh
đồng đón nhận một ánh sáng khuếch tán chứ không phải là ánh sáng trực tiếp của
mặt trời vốn làm cho những bóng rõ nét, và rất khác biệt với ánh sáng.
Về những màu sắc ngẫu nhiên của cây cối
Những màu sắc ngẫu
nhiên của lá cây có bốn loại, đó là bóng, ánh sáng, quang huy, và trong suốt.
Những bộ phận ngẫu nhiên của lá thực vật
ở một cự li thật xa sẽ trở nên hỗn hợp, trong đó màu của phần nào trải rộng
nhất sẽ ưu thắng.
Những phong cảnh
có màu thiên thanh (azure) đẹp hơn trong thời tiết tốt khi mặt trời giữa trưa, và
hơn bất cứ thời điểm nào khác trong ngày, bởi không khí không bị ẩm ướt; và khi
quan sát chúng dưới những điều kiện ấy, bạn thấy cây cối có một màu lục đẹp ở hướng
mút điểm của chúng và những bóng sẫm lại ở hướng trung tâm; và trong cự li xa
hơn nữa, khí quyển chen vào giữa bạn và chúng, trông đẹp hơn khi có cái gì tối
hơn ở đằng xa hơn, và như thế màu thiên thanh là đẹp nhất.
Những vật nhìn từ phía mặt trời chiếu
sáng sẽ không cho bạn thấy những bóng của chúng. Nhưng nếu bạn ở thấp hơn mặt
trời bạn có thể thấy những gì mà mặt trời không thấy, và tất cả sẽ ở trong
bóng.
Lá cây ở giữa bạn và mặt trời có ba màu
chính, đó là, một màu lục sáng loáng đẹp nhất và dùng như tấm gương cho khí
quyển thắp sáng những vật thể nào mà mặt trời không thể với tới, và những bộ
phận trong bóng đối diện với mặt đất, và những bộ phận tối nhất được bao quanh
bởi những thứ khác ngoài bóng tối.
Cây cối trong phong cảnh giữa bạn và
chúng thì đẹp hơn nhiều so với cây cối giữa mặt trời và bản thân chúng; đó là
vì cây cối ở cùng hướng khi mặt trời cho thấy lá cây trong suốt tới mút điểm
của chúng và những bộ phận không trong suốt, ở đầu lá thì sáng loáng, và những
bóng thì sẫm lại bởi vì chúng không bị cái gì bao phủ. Cây cối, khi bạn đặt mình ở giữa chúng và mặt
trời, sẽ chỉ phơi bày ánh sáng và màu sắc tự nhiên và tự nó không mạnh lắm, và
ngoài điều này ra, một số những ánh sáng phản chiếu nhất định, và nhờ ánh sáng
của chúng trên nền tạo ra một sự tương phản mạnh đối với độ sáng của chúng,
nhưng lại ít rõ ràng. Và nếu bạn ở vị trí thấp hơn chúng thì những phần của
chúng có thể thấy được vì không phơi ra mặt trời, và chúng sẽ tối.
Trong gió.
Còn nếu bạn ở từ phía gió thuận đang thổi,
bạn sẽ thấy cây cối có vẻ sáng nhiều hơn là khi bạn thấy chúng từ những phía
khác; đó là bởi gió lật phần ngược của lá làm cho mọi cây cối trắng hơn; và,
đặc biệt hơn, chúng sẽ rất sáng nếu gió thổi từ hướng mặt trời, và nếu bạn quay
lưng lại với mặt trời.
Hãy
miêu tả phong cảnh với gió, nước và lúc mặt trời lặn và mọc.
Tất cả lá cây rủ xuống mặt đất khi những
nhánh nhỏ oằn xuống với những cành chúc lên, và tự làm cho thẳng theo những
luồng gió; và ở đây, phối cảnh của chúng đảo nghịch, vì nếu cây ở giữa bạn và
là hướng gió thổi tới, những chóp lá chỉ tới bạn trong tư thế tự nhiên, trong khi
lá ở phía đối diện sẽ có chóp lá trái với hướng, bằng sự lật lại, những chóp
của chúng hướng tới bạn.
Cây cối trong phong cảnh không nổi bật
riêng rẽ với nhau; bởi những bộ phận được chiếu sáng tiếp giáp với những bộ
phận được chiếu sáng của những gì bên ngoài chúng và vì thế có ít sự dị biệt về
ánh sáng và bóng (shade).
Khi những đám mây ở khoảng giữa mặt trời
và mắt, tất cả diềm từ những khối tròn của chúng thì sáng và chúng sẫm về phía
trung tâm và điều này xảy ra bởi ở phần chóp của những diềm mép này được mặt
trời chiếu cố từ bên trên trong khi bạn đang nhìn chúng từ phía dưới, và cũng
điều này xảy ra với vị trí của những cành cây; và những đám mây cũng vậy, như
cây cối, trong suốt ở mức nào đó, một phần nào sáng rực và ở diềm cho thấy mỏng
hơn.
Nhưng khi mắt ở giữa mây và mặt trời, thì
sự xuất hiện của mây trái lại với ở trên, vì diềm từ khối tròn của nó thì sẫm
và ánh sáng hướng tới trung tâm. Và điều này xảy ra vì bạn thấy cùng một phía đối
diện với mặt trời và bởi những diềm có một số độ trong suốt và tiết lộ với mắt
phần che giấu ở phía xa bên ngoài chúng; và vì nó không bắt được ánh nắng như
bộ phận quay hướng về nó, cho nên một cách nào đó nó tất yếu sẫm hơn. Lại nữa,
có thể bạn nhìn thấy những chi tiết của những khối tròn ấy từ mặt dưới, trong
khi mặt trời thấy chúng từ trên cao, và vì chúng không được định vị sao cho có
phản chiếu ánh sáng mặt trời, như trong ví dụ đầu tiên, nên chúng vẫn tối.
Những đám mây đen thường thấy cao hơn so
với những đám mây sáng và được mặt trời chiếu sáng, bị đẩy vào trong bóng bởi
những đám mây chen vào giữa chúng và mặt trời.
Hơn nữa, những dạng mây hình tròn đối
diện với mặt trời cho thấy diềm của chúng sẫm bởi chúng nằm ngược với nền sáng;
và để thấy điều này là đúng, bạn nên quan sát sự trội bật của toàn bộ đám mây trên
màu lam của bầu khí quyển vốn sẫm hơn bản thân nó.
Những
màu sắc ở giữa cầu vồng hỗn hợp vào nhau. Hình cung [của cầu vồng] bản thân nó
không ở trong mưa cũng không ở trong con mắt nhìn thấy nó; tuy nó được phát
sinh bởi mưa, mặt trời, và mắt. Cầu vồng luôn được nhìn thấy ở giữa mưa và thực
thể mặt trời; vì thế, nếu mặt trời ở phía đông và mưa ở phía tây, cầu vồng sẽ
xuất hiện trên cơn mưa ở phía tây.
Vào
giờ đầu tiên trong ngày, khí quyển ở phía nam gần đường chân trời có một lớp
sương mờ từ những đám mây đỏ hừng; ở hướng tây trời tối hơn, còn hướng đông ở hơi
ẩm bốc lên từ chân trời cho thấy sáng hơn chính chân trời thực sự, và màu trắng
của những ngôi nhà ở phía đông hầu như không nhận ra được; trong khi đó ở phía
nam, càng ở khoảng cách xa hơn, chúng càng khoác màu hồng đậm, sắc hừng hực, và
thậm chí còn hơn như thế nữa ở phía tây; và với những bóng thì ngược lại, vì
những bóng này biến mất trước màu trắng...
Nếu
bạn thắp ánh sáng và đặt nó vào trong một chiếc lồng đèn có màu lục hoặc một số
màu trong suốt khác, bạn sẽ thấy nhờ thực nghiệm mà mọi vật thể được chiếu sáng
gần như nhuốm màu sắc từ chiếc lồng đèn.
Bạn có thể cũng thấy ánh sáng xuyên qua
cửa sổ kính màu của những giáo đường thì mang màu sắc của những kính cửa sổ ấy.
Và nếu điều này chưa đủ thuyết phục, bạn nhìn ngắm mặt trời lúc hoàng hôn khi
nó hiện màu đỏ qua hơi nước, và nhuộm đỏ tất cả những đám mây phản chiếu ánh
sáng của nó.
2.
SỰ
SỐNG VÀ CẤU TẠO CỦA VẬT THỂ
Mặc dù con mắt của
hoạ sĩ chỉ nhìn thấy bề mặt của vật thể, nhưng khi thể hiện bề mặt y phải hiểu
rõ và thông giải được sự cấu tạo hữu cơ nằm ở bên dưới. Việc miêu tả nhân hình
đòi phải có một tri thức về cơ thể học và tỉ lệ. Những phong cảnh đòi hỏi sự
nghiên cứu về hình thái học (morphology) của thực vật, về sự cấu tạo của địa
cầu, về những chuyển động của nước và gió.
Tác
phẩm này phải bắt đầu với sự hoài thai ra con người, và miêu tả tính chất của
tử cung và bào thai sống trong đó bằng cách nào, và nó cư ngụ ở đó tới giai đoạn
nào và nó máy động sự sống và sinh dưỡng ra sao. Cũng vậy, sự tăng trưởng của
nó và khoảng cách nào giữa một giai đoạn tăng trưởng này và một giai đoạn khác.
Điều gì buộc bào thai xuất ra khỏi cơ thể người mẹ, và nguyên nhân đôi khi nó
ra khỏi tử cung người mẹ sớm trước thời hạn.
Tiếp theo, tôi sẽ miêu tả chi thể nào sau
khi bé trai sinh ra, sẽ tăng trưởng hơn những chi thể khác, và quyết định những
tỉ lệ của một bé trai được một tuổi. Rồi miêu tả người nam, nữ đã trưởng thành
hoàn toàn, với tỉ lệ của họ, sắc diện, màu da và tướng mạo.
Sau đó, nói về huyết quản, gân, cơ bắp,
và xương kết hợp ra sao. Và trong bốn bức vẽ trình bày bốn điều kiện phổ biến
của con người. Đó là, tiếng cười với những hành vi khác nhau của người cười; và
miêu tả nguyên nhân tiếng cười. Khóc trong những khía cạnh khác nhau với những
nguyên nhân của chúng. Sự xung đột với những hành vi giết người khác nhau: đào
thoát, sợ hãi, hung bạo, dũng cảm, tàn sát, và mọi thứ liên quan đến những điều
kiện như thế. Tiếp đến, trình bày sự Lao động qua việc kéo, đẩy, khiêng vác,
ngăn chận, chống đỡ, và những động tác đại loại như thế.
Hơn nữa, tôi miêu tả những tư thế và
những vận động. Tiếp theo, phối cảnh quan hệ đến chức năng của mắt; và thính
giác—ở đây tôi sẽ nói về âm nhạc—và về những giác quan khác—và miêu tả tính
chất của ngũ quan. Cơ chế này của con người, chúng ta sẽ chứng minh bằng hình
vẽ.
(a) Tỉ lệ
Lí thuyết về tỉ lệ
có một sức quyến rủ lớn đối với những nghệ sĩ thời Phục hưng. Tác phẩm của họ
không chỉ chủ tâm phô bày kĩ năng nghệ thuật, họ còn muốn đạt được sự hài hoà.
Những tỉ lệ trong hội hoạ, điêu khắc, và kiến trúc đều giống như hoà âm trong
âm nhạc và đưa đến một khoái cảm cực kì.
Tỉ lệ không chỉ tìm thấy trong những con
số và những đo lường mà cũng còn trong âm thanh, trọng lượng, thời gian, và vị
trí, và có thể là bất kì năng lực nào.
Nhà kiến trúc La-mã Vitruvius đã truyền
một số dữ liệu từ quy điển (canon) Hi-lạp với những tỉ lệ về nhân thể và những
dữ liệu này lại được tái lưu hành trong trong thời Phục hưng. Một bản vẽ của
Leonardo được gọi là “Con người theo Vitruvius” (hiện bảo tồn ở Học viện ở
Venice), được in lại trong một ấn bản sách của Vitruvius, phát hành năm 1511,
để minh hoạ cho phát biểu rằng một thân thể hoàn hảo với hai cánh tay và hai
chân dang ra có thể vẽ nội tiếp trong một hình vuông; trong khi cũng thân thể
này dang thẳng chân tay chiếm một vòng tròn vạch quanh rốn làm trung tâm. Những
tỉ lệ của nhân thể ở đây liên hệ tới những hình kỉ hà hoàn hảo nhất và có thể
nói rằng được phối hợp thành vũ trụ hình cầu.
Leonardo nỗ lực
xác minh và trình bày cặn kẽ công thức toán học của Vitruvius để đặt chúng vào
trong cơ sở khoa học qua việc quan sát thực nghiệm, và vì mục đích này, ông đã thu
thập dữ liệu từ những người mẫu thực.
Hình
học thì vô hạn bởi mọi số lượng liên tục có thể phân chia đến vô hạn theo
phương hướng này hoặc phương hướng khác. Nhưng số lượng bất liên tục mở đầu bằng
“một” và gia tăng tới vô hạn, và như đã nói, số lượng liên tục gia tăng tới vô
hạn và giảm đến vô hạn. Và nếu bạn cho tôi một tuyến 20 thước Ý (braccia), tôi
sẽ bảo cho bạn làm cách nào làm cho một tuyến thành 21 thước Ý.
Mọi
bộ phận trong toàn thể phải tỉ lệ với cái toàn thể... tôi cho rằng cùng nguyên
tắc này được xem là thích dụng với tất cả động vật và thực vật.
Khởi
từ hội hoạ vốn phục vụ mắt, giác quan cao quý nhất, nảy sinh sự hài hoà về tỉ
lệ; hệt như nhiều giọng khác nhau kết hợp và đồng thanh hợp xướng, sinh ra một
tỉ lệ hài hoà dẫn tới sự thoả mãn cơ quan thính giác mà người nghe bị say mê trong
niềm thán phục như thể đang trong cơn ngất ngây. Nhưng hiệu quả của tỉ lệ đẹp
từ một gương mặt thiên thần trong hội hoạ thì lớn hơn nhiều, vì những tỉ lệ này
sản sinh ra sự hoà hài đồng thời truyền tới mắt, hệt như một hợp âm trong âm
nhạc tác động tới tai nghe; và nếu sự hoà hợp đẹp đẽ này được phô bày tới người
yêu của nàng khi vẻ đẹp của nàng được miêu tả, thì chàng chắc chắn sẽ mê mẩn
chiêm ngưỡng trong niềm hoan lạc vô song vượt trên mọi xúc cảm khác.
Người
hoạ sĩ bằng những tỉ lệ hài hoà tạo nên những phần tổ hợp có tác dụng đồng thời,
vì vậy có thể tức thời thấy chúng, tác động tới nhau như là hợp nhất, đồng thời
vừa là chung và riêng; chung, nhìn xem thiết kế của bố cục như một toàn bộ; và
riêng, nhìn xem thiết kế từ những phần tổ hợp.
Vitruvius,
nhà kiến trúc, phát biểu trong tác phẩm luận về kiến trúc của ông rằng những số
đo về nhân thể được phân phối theo tự nhiên như sau: 4 ngón tay làm thành 1 lòng
bàn tay; 4 lòng bàn tay thành 1 lòng bàn chân; 6 lòng bàn tay thành 1 cubit; 4
cubit tạo thành chiều cao của một con người; và 4 cubit thành một bước; và 24
lòng bàn tay thành một người; và ông sử dụng những đơn vị đo này trong kiến
trúc.
Nếu bạn dang chân tới độ giảm chiều cao
của bạn xuống còn 1/14 và dang và giơ hai cánh tay lên để cho những ngón giữa
ngang bằng với chóp đầu của bạn, bạn phải biết rằng cái rốn sẽ tạo thành trung
tâm của một vòng tròn và tứ chi dang ra chạm vào chu vi của vòng tròn; và không
gian ở giữa hai cẳng chân sẽ tạo thành một tam giác đều.
Sải tay của một người dang hai cánh tay
thì bằng với chiều cao của người ấy.
Từ
chân tóc đến đáy cằm là một phần mười chiều cao của một người; từ đáy cằm đến
đỉnh đầu là một phần tám chiều cao của một người. Từ chóp ngực đến chân tóc là
một phần bảy của tổng thể chiều cao; từ núm vú đến đỉnh đầu là một phần tư của
một người. Bề ngang tối đa của đôi vai là một phần tư của chiều cao; từ khuỷu
tay tới đầu ngón tay giữa là một phần năm; từ khuỷu tay đến cuối vai là một
phần tám. Toàn bộ bàn tay là một phần mười. Dương vật bắt đầu ở trung tâm của
một người. Bàn chân là một phần bảy của một người. Từ lòng bàn chân đến ngay
dưới đầu gối là một phần tư của một người. Từ bên dưới đầu gối đến nơi dương
vật bắt đầu là một phần tư của một người.
Khoảng cách giữa cằm và mũi và khoảng
cách giữa lông mày và chỗ tóc bắt đầu thì bằng với chiều cao của tai và là một
phần ba của khuôn mặt.
Đầu af lớn hơn nf một phần sáu.
Bàn
chân từ chỗ tiếp giáp với cẳng tới chóp đầu ngón cái, thì cự li bằng khoảng
giữa phần trên của cằm và chân tóc ab; và bằng năm phần sáu của khuôn mặt.
Đối với mỗi người,
khoảng cách giữa ab bằng với cd.
Độ
dài của bàn chân từ đầu những ngón chân tới gót thì gấp hai lần từ gót tới đầu
gối, tức là từ chỗ xương cẳng nối với xương đùi. Bàn tay tới cổ tay thì gấp bốn
lần khoảng cách từ đầu ngón tay dài nhất tới khớp vai.
Chiều
rộng ở hông người đàn ông thì bằng khoảng cách từ đỉnh hông tới đáy của mông,
khi người ấy đứng cân bằng trên hai bàn chân; và cũng có cùng khoảng cách từ
đỉnh hông tới nách. Thắt lưng, hay phần hẹp hơn ở trên hông, sẽ là nửa chừng
giữa nách và đáy mông.
Mọi
người lúc ba tuổi thì bằng nửa chiều cao trọn vẹn sau này tăng trưởng.
Có
dị biệt lớn về độ dài giữa những khớp nối ở người thành niên và nhi đồng. Ở
người thành niên, khoảng cách từ khớp vai tới khuỷu tay, và từ khuỷu tay tới
đầu ngón cái, và từ vai này tới vai kia, trong mỗi ví dụ là hai đầu, trong khi
đó ở thiếu nhi chỉ có một đầu; bởi Tự nhiên hình thành cho chúng ta kích thước này
vốn là ngôi nhà của trí tuệ trước khi hình thành những gì chứa đựng những
nguyên tố thiết yếu.
Hãy
nhớ rất cẩn thận khi vẽ tứ chi, chúng nên tỉ lệ với kích thước của thân thể và
tương xứng với tuổi tác. Vậy, một người trẻ có tứ chi cơ bắp không nhiều lắm và
không gân guốc lắm, còn bề mặt thì mịn và đầy đặn, còn màu sắc thì nhu hoà. Ở
người thành niên, tứ chi nhiều cơ bắp và vạm vỡ; trong khi đó trên bề mặt người
già thì nhăn nheo, gồ gề và nhiều mấu, và các tĩnh mạch thì nổi lên.
(b) Cơ thể học và sự vận
động của cơ thể
Nhân thể là một
thể thống nhất phức hợp bên trong một trường tự nhiên lớn hơn, là một tiểu vũ
trụ mà trong đó những nguyên tố và những năng lực của vũ trụ được phối hợp. Để
nghiên cứu sự cấu tạo của cơ thể, Leonardo đã mổ xẻ những tử thi để khảo sát
xương, khớp, và cơ bắp vừa riêng rẽ vừa trong tương quan với nhau, và phác hoạ
từ nhiều góc nhìn và dùng những bản vẽ này cho sự chứng minh bằng thị giác, vì
một sự miêu tả thích đáng không thể nào nêu ra bằng ngôn từ. Theo Leonardo,
những chứng minh bằng thị giác đưa ra “những khái niệm hoàn chỉnh và chính xác
về những hình dạng khác nhau bất luận tác giả là người xưa hoặc người hiện đại
có thể nào nêu ra mà không bị tẻ nhạt và rối rắm vô cùng vì sự rườm rà trong việc viết và mất thời gian”. Hơn
nữa, không chỉ là những góc nhìn khác nhau, mà là vô vàn những khía cạnh phải
xem xét, và cũng còn là những chuỗi liên tục của những giai đoạn khi vận động. Những
vận động tròn của vai, cánh tay, và bàn tay, chẳng hạn, gợi lên một tính liên
tục bằng hình ảnh như chúng ta có thể thấy trên một đoạn phim.
Việc nghiên cứu về cấu tạo nhân thể bao
gồm nghiên cứu về chức năng, về cách thức mà những hành vi và những động tác được
thực hiện, những cơ bắp khác nhau tác động cùng nhau như thế nào khi cong và
duỗi thẳng những khớp; trọng lượng của một cơ thể được chống đỡ và giữ thăng
bằng ra sao. Leonardo nhìn cơ thể học bằng con mắt của nhà cơ học. Mỗi chi thể,
mỗi cơ quan ông tin rằng được thiết kế và thích nghi hoàn toàn để thực hiện
chức năng đặc biệt của nó. Như vậy, những cơ của lưỡi được tạo ra để sản sinh
ra vô số những thanh âm bên trong miệng khiến con người phát âm được nhiều ngôn
ngữ. Trong thời đại của Leonardo, không có sự phân chia giữa những ngành khác
nhau của cơ thể học. Ông đã khảo sát những vấn đề của sinh lí học và bào thai
học, và những hệ thống dây thần kinh và những động mạch. Ông đã dự kiến những
nguyên lí về sự tuần hoàn của máu và chuẩn bị nền tảng cho những phân tích đi
xa hơn về nhiều bộ môn.
Bạn
cho rằng tốt hơn cả là quan sát một cuộc chứng minh về cơ thể học hơn là xem
những bản vẽ này, hẳn là bạn đúng nếu có thể quan sát tất cả những chi tiết cho
thấy trong những bản vẽ ấy trong một bức hình đơn độc, trong đó, bằng tất cả sự
thông minh, bạn sẽ không nhìn thấy hoặc hấp thu được tri thức hơn vài tĩnh
mạch, trong khi đó để đạt được một tri thức đích thực và hoàn chỉnh về những
tĩnh mạch này, tôi đã mổ xẻ hơn mười thi thể, huỷ mọi chi thể khác nhau và loại
bỏ những mẩu thịt nhỏ nhất bao quanh những tĩnh mạch này, mà không làm máu tuôn
ra ngoài những ống mao quản. Và vì một cơ thể đơn độc đã không đủ đáp ứng suốt
một thời gian dài, cho nên cần thiết xúc tiến từng giai đoạn với thật nhiều cơ
thể để giúp cho kiến thức của tôi được hoàn hảo; điều này tôi đã lập lại hai
lần để phát hiện ra những dị biệt. Mặc dù bạn có một tình yêu đối với những thứ
như thế, bạn có thể bị nhụt chí bởi cảm xúc ghê tởm có tính tự nhiên, và nếu
điều này không cản trở bạn, bạn có thể bị nhụt chí do nỗi sợ trải qua bao nhiêu
giờ trong đêm giữa những tử thi, bị phanh thây, bị róc lột và trông thật kinh
khủng; và nếu điều này không làm bạn nhụt chí, vậy thì có thể là bạn thiếu kĩ
năng về hình hoạ, nó cần thiết cho việc miêu tả; còn nếu bạn có kĩ năng về hoạ
hình mà không kết hợp với kiến thức về phối cảnh; và nếu đã có kết hợp như thế,
có thể bạn không hiểu những phương pháp chứng minh hình học và phương pháp ước
lượng những lực và sức mạnh của những cơ bắp; hoặc có thể là bạn thiếu kiên
nhẫn cho nên bạn sẽ không có sự chuyên cần.
Về những tố chất ấy, chúng có trong tôi
hay không, một trăm hai mươi quyển sách mà tôi đã soạn sẽ đưa ra phán xét “có”
hay “không”. Trong những sách này, tôi đã không bị trở ngại bởi sự bần tiện
hoặc cẩu thả, mà chỉ thiếu thời gian. Tạm biệt.
Hoạ sĩ cần phải biết sự cấu tạo nội tạng của con người
Hoạ
sĩ có một tri thức về tính chất của gân, cơ, và dây chằng sẽ hiểu rất rõ về sự
vận động của một chi thể có bao nhiêu và gồm những gân nào tạo ra nó, và những
cơ nào khi gồng lên là nguyên nhân của sự co rút từ gân đó; và những gân nào mở
rộng thành lớp sụn mong manh bao quanh và chống đỡ cho cơ.
Như vậy, người hoạ sĩ sẽ theo những cung
cách khác nhau và phổ biến, biểu thị những tư thái khác nhau trong những hình
tượng của mình; và sẽ không làm như nhiều người, trong những vận động đa dạng,
vẫn phô bày cùng những thứ này nơi cánh tay, lưng, ngực, và cẳng chân. Và những
thứ này không thể xem là những khuyết điểm nhỏ.
Trong
toàn bộ 15 đồ hình sẽ cho bạn thấy cái tiểu vũ trụ nằm trên cùng bình diện như
trước đây, Ptolemy đã tiếp thu trong vũ trụ học của ông; và tôi sẽ chia chúng thành những chi thể như
ông đã chia đại vũ trụ thành những địa hạt; và tiếp theo, tôi sẽ xác định những
chức năng của những bộ phận trong mỗi hướng của chúng, đặt trước mắt bạn sự
miêu tả toàn bộ hình thể con người và khả năng vận động nhờ những bộ phận của
y. Và có lẽ điều ấy làm hài lòng đấng Tạo hoá của chúng ta khi tôi có thể phơi
mở tính chất của con người và những tập tính của y ngay cả khi tôi miêu tả về
hình thể của y.
Hãy
nhớ, để chắc chắn về đầu mối của mỗi cơ khi kéo dây gân đã được cơ này sản sinh
sao cho cơ này được vận động, và sự liên kết của nó với dây chằng của xương.
Bạn sẽ rất dễ bị lầm lẫn khi chứng minh những cơ và những vị trí, đầu mối và
tận cùng của chúng, trừ phi đầu tiên bạn chứng minh những cơ mảnh kiểu như sợi
chỉ; và theo cách này bạn sẽ có thể miêu tả với cơ này chồng lên cơ kia như tự
nhiên đã sắp đặt chúng; và như vậy, bạn có thể đặt tên chúng tuỳ theo chi thể
mà chúng phục vụ, ví dụ, cơ vận đầu ngón chân cái, và của xương giữa hoặc của
xương đầu tiên, v.v... Và khi bạn đã đưa ra thông tin này, bạn sẽ nhìn nghiêng
cái hình dạng, kích thước và vị trí đích thực của mỗi cơ; nhưng hãy nhớ làm cho
những sợi biểu thị những cơ này trong cùng những vị trí như tuyến trung tâm của
mỗi cơ; và như thế, những sợi này sẽ chứng minh hình dạng của cẳng chân và
khoảng cách của chúng theo một cách rõ ràng.
Cấu tạo bên trong bàn tay
Khi
bạn bắt đầu vẽ cấu tạo bên trong bàn tay, đầu tiên hãy tách rời tất cả xương
cốt ra với nhau một chút, như thế bạn có thể nhanh chóng nhận ra hình dạng thực
sự của mỗi cái xương từ lòng bàn tay và cũng nhận ra số mục và vị trí thực sự
trong mỗi ngón; và có một số ngón cưa theo chiều dọc để xem cái nào rỗng và cái
nào đặc. Sau việc này, đặt lại vị trí xương vào đúng khớp của chúng và miêu tả
toàn bộ bàn tay mở banh ra từ bên trong. Chứng minh tiếp theo sẽ là những bắp
cơ bao quanh cổ tay và phần còn lại của bàn tay. Việc thứ năm sẽ là miêu tả
những sợi gân làm di động những khớp thứ nhất của ngón tay. Thứ sáu, những sợi
gân di động những khớp thứ hai của ngón tay. Thứ bảy, gân làm di động các khớp thứ
ba của ngón tay. Thứ tám, miêu tả những dây thần kinh đem lại xúc giác cho
chúng. Thứ chín, tĩnh mạch và động mạch. Thứ mười, cho thấy toàn bộ bàn tay
hoàn chỉnh với da và kích thước; và kích thước của xương cũng nên đo. Và bất kể
những gì bạn làm với phía này của bàn tay, bạn cũng nên làm với ba phía kia—đó
là với phía lòng bàn tay, với phía mặt lưng, và với những phía các cơ duỗi và
cơ gấp. Như vậy, trong chương về bàn tay, bạn sẽ trình ra 40 bức chứng minh; và
bạn cũng làm y như thế với mỗi chi thể. Theo phương pháp này, bạn sẽ có được
tri thức toàn diện. Sau đó, bạn nên có một luận văn liên quan đến bàn tay của
từng động vật, để cho thấy chúng khác biệt như thế nào. Chẳng hạn, trong loài
gấu, những dây gân chằng từ những ngón chân đều gắn vào bên trên mắt cá của bàn
chân.
Trọng
lượng, sức, và vận động của những vật thể và những chấn động là bốn năng lực cơ
bản trong đó mọi tác động hữu hình của loài người đều có hiện hữu và mục đích.
Sau
việc chứng minh tất cả những bộ phận chi thể của con người và của những động
vật khác, bạn sẽ trỉnh bày đúng cách thức động tác của những chi thể này, từ
nằm cho tới trỗi dậy, khi di động, chạy, và nhảy trong nhiều động tác khác
nhau, khi nhấc và mang những trọng vật, khi ném đồ vật đi xa, và khi bơi; và
trong mọi động tác bạn cho thấy những chi thể và những cơ bắp nào vận dụng nó,
và đặc biệt xét về vai trò của những cánh tay.
Về,
khuynh hướng của chi thể khi vận động, bạn sẽ phải xem xét khi bạn muốn thể
hiện một người vì lí do nào đó phải quay ra đằng sau hoặc quay nghiêng, bạn
đừng làm cho y dời hai bàn chân và tất cả chi thể hướng tới phía mà y quay đầu
sang. Đúng hơn, bạn phải làm cho động tác xúc tiến theo những cấp độ và thông
qua những khớp khác nhau, của bàn chân, của đầu gối, của hông, và của cổ. Nếu bạn
cho y trụ ở bàn chân phải, bạn phải làm cho đầu gối trái uốn vào trong và bàn
chân trái hơi nhấc lên ra phía ngoài; và cho vai trái hơi thấp hơn vai phải; và
cho cái gáy thì nằm một đường chạy thẳng trên mắt cá phía ngoài bàn chân trái.
Và vai trái sẽ nằm theo tuyến thẳng góc ở bên trên ngón chân phải. Và luôn sắp
đặt hình thể người sao cho phía đầu quay sang không phải là phía lồng ngực hướng
tới, bởi thiên nhiên vì sự tiện lợi khi ban cho chúng ta một cái cổ có thể uốn dễ
dàng theo nhiều hướng khi mắt nhìn sang những điểm khác nhau và những khớp nối
khác phần nào đều phục tùng nó.
Tính uyển chuyển của chi thể
Tứ
chi sẽ thích nghi với thân thể bằng tính uyển chuyển và bằng sự tương quan với
hiệu quả mà bạn muốn nhân hình tạo ra. Nếu bạn muốn tạo ra một nhân hình trông
nhẹ nhàng và duyên dáng, bạn phải làm cho tứ chi thanh nhã và duỗi ra, và không
phô bày quá nhiều cơ bắp; và bạn cần thể hiện một số cơ một cách mềm mại, ẩn
ước và bóng không đậm lắm; tứ chi và đặc biệt là cánh tay phải thoải mái, và không
nên theo một tuyến thẳng với những bộ phận tiếp giáp. Hai bên hông, vốn là cột
trụ của một người, nên được sắp đặt sao cho bên phải cao hơn bên trái, rồi cho
vai bên phải thấp hơn vai trái và cho khớp nối của bên vai cao hơn theo một
tuyến thẳng ở trên phía hông cao nhất. Hãy cho cuống họng luôn ở trên trung tâm
của mắt cá bàn chân đang trụ. Còn cẳng chân không chịu lực thì đầu gối nên thấp
hơn bên kia, và gần cẳng chân kia. Những vị trí của đầu và cánh tay thì biến
thiên vô kể và vì thế tôi sẽ không bổ sung thêm bất cứ quy tắc nào cho chúng.
Tuy nhiên, hãy để chúng thoải mái và thư giãn, với những việc quay và vặn khác
nhau và những khớp cong lại duyên dáng, và trông không giống như những khúc gỗ.
Cái
được gọi là vận động giản đơn của một người khi kẻ ấy đơn thuần khom về phía
trước, hoặc phía sau, hoặc sang phía bên cạnh.
Cái
được gọi là vận động kết hợp của một người khi kẻ ấy cần phải khom xuống và
đồng thời quay sang bên cạnh...
Sự vận động của con người
Khi
bạn muốn thể hiện một người làm động tác di chuyển một số vật nặng cho thấy
những vận động này được thể hiện theo những phương hướng khác nhau. Một người
có thể khom xuống để nhấc một vật nặng với chủ ý nhấc nó lên trong khi duỗi
thẳng thân thể; đây là một vận động giản đơn từ dưới lên trên; hoặc người ấy có
thể muốn kéo lùi một vật; hoặc đẩy nó tới hoặc kéo nó xuống bằng một sợi dây
thừng chạy qua một cái ròng rọc. Ở đây bạn nên nhớ rằng thể trọng của một người
khi kéo thì tỉ lệ với trọng tâm của trọng lượng của người ấy là khoảng cách từ
điểm tựa của người ấy, và bạn phải bổ sung lực tạo ra từ cẳng chân và khom sống
lưng khi người ấy duỗi thẳng thân thể.
Cơ
gân hướng dẫn cẳng chân, và gắn liền với xương bánh chè của đầu gối, cảm thấy
nó phải tốn sức nhiều hơn khi mang một người thẳng đứng so với cẳng chân cong
hơn; cơ bắp tác động lên góc độ do đùi tạo ra nơi nó gắn với phần thân thì ít khó
khăn và ít trọng lượng khi nhấc lên, bởi vì nó không có trọng lượng của chính phần
đùi. Và ngoài điều này ra, những cơ của nó khoẻ hơn những cơ hình thành phần
mông.
Điều
đầu tiên mà một người làm khi bước lên những bâc thang là giải phóng cẳng chân
mà y muốn nhấc lên khỏi trọng lượng của phần thân người vốn đang trụ trên cẳng
chân này, và đồng thời y chất cẳng chân kia toàn bộ sức nặng của mình kể luôn
sức nặng của cẳng chân nhấc lên. Tiếp theo y nhấc cẳng lên và đặt bàn chân lên
bậc mà y muốn leo lên; sau đó, y vận chuyển sang cái bàn chân đặt cao hơn tất
cả sức nặng của thân mình và trọng lượng của cẳng chân rồi chống tay lên đùi,
lao đầu tới trước và di chuyển hướng tới điểm của cái bàn chân cao hơn, trong
khi đó nhấc nhanh gót của cái bàn chân thấp hơn; và bằng động lực tiếp thu được
như vậy, y nhấc bản thân lên; và đồng thời bằng việc duỗi rộng cánh tay vốn
đang tựa trên đầu gối, y đẩy thân mình và đầu lên phía trên và như vậy làm
thẳng đường cong của lưng.
Con
người và mọi động vật chịu đựng sự mỏi mệt khi đi hướng lên hơn là hướng xuống,
vì khi đi lên thì mang theo trọng lượng của mình, còn khi đi xuống, chỉ việc
buông thả nó.
Một
người, khi chạy, thì lao trọng lượng của mình trên đôi cẳng ít hơn là khi đứng
yên. Giống như tư thế của con ngựa, khi đang chạy, ít ý thức về trọng lượng của
người mà nó đang chở theo; vì thế, nhiều người coi điều đó là tuyệt diệu khi
một con ngựa trong cuộc đua có thể tự chống đỡ một chân mà thôi. Do đó, chúng
ta có thể nói về trọng lượng khi chuyển động hướng ngang, vận động càng nhanh,
thì trọng lực hướng về địa tâm càng ít đi.
Khi
một người đang ngồi trên đất bằng, y đứng lên như thế nào.
Kí
ức không có khả năng nhớ được mọi phương diện và biến hoá của bất cứ chi thể động
vật nào. Chúng ta sẽ chứng minh điều này qua ví dụ về bàn tay. Bởi vì mỗi lượng
liên tục có thể chia đến vô hạn qua sự vận động của mắt vốn quan sát bàn tay, di
chuyển qua một không gian, và cũng là một lượng liên tục và có thể chia đến vô
hạn. Và trong mỗi giai đoạn của vận động, vẻ ngoài và hình dạng bàn tay có biến
thiên, và sẽ tiếp tục biến đổi khi mắt di chuyển theo vòng tròn. Và bàn tay lần
lượt sẽ tác động theo cung cách tương tự như khi nó nhấc lên trong khi chuyển
động, tức là nó sẽ di chuyển qua không gian vốn là một lượng liên tục.
Có
[bốn loại] vận động giản đơn chính yếu nơi khuỷu tay cử động bởi khớp vai, đó
là khi cánh tay gắn chặt với khớp vai di chuyển hướng lên và hướng xuống hoặc
hướng tới phía trước hoặc phía sau. Tuy vậy, ta có thể nói, những vận động như
thế là vô hạn. Vì nếu chúng ta xoay vai hướng tới một bức tường và miêu tả một
hình tròn với cánh tay, chúng ta sẽ phải thực hiện tất cả những vận động chứa trong
vai nói trên. Và, vì [mỗi vòng tròn là] một lượng liên tục, nên vận động của
cánh tay [sản sinh ra] một lượng liên tục. Vận động này sẽ không sản sinh ra
một lượng liên tục nếu như nó không được dẫn đạo bởi nguyên tắc của sự liên tục.
Vì thế, vận động của cánh tay ấy đã đi qua mọi phần của vòng tròn. Và vì vòng
tròn là có thể chia vô hạn nên những biến thiên của vai là vô hạn.
Động tác đồng nhất nhìn từ những vị trí khác nhau
Cùng
một tư thế được nhìn thấy với vô số những biến thiên, bởi có thể quan sát nó từ
vô số những vị trí và những vị trí này là một lượng liên tục, và có thể chia
thành vô số những phần. Vì thế, mọi động tác của con người tự cho thấy sự biến
thiên vô hạn.
Những
vận động của con người thực hiện trong một trường hợp đơn độc hoặc vì một mục
đích đơn độc đều biến thiên vô hạn trong tự thân. Điều này có thể chứng minh
như thế này. Ta hãy giả định rằng một người đập vào vật thể nào đó. Vậy tôi cho
rằng việc đập vào của y được tạo thành từ hai trạng thái. Hoặc là người ấy nhấc
vật ấy lên và phải đi lên để tạo ra việc đập, hoặc là vật thể ấy đã hạ xuống
rồi. Bất cứ trường hợp nào, không thể phủ nhận rằng sự vận động xảy ra trong
không gian và không gian đó là một lượng liên tục, và lượng liên tục có thể
chia đến vô hạn. Kết luận: mọi vận động của vật hạ xuống đều có thể biến thiên
đến vô hạn.
(c) Sinh lí học
Ở
đâu có sự sống ở đó có nhiệt; ở đâu có nhiệt thì có sự vận động của những lưu
thể.
Nguyên
nhân làm di chuyển nước qua suối ngược lại dòng chảy tự nhiên của hấp lực cũng tương
tự nguyên nhân làm di chuyển những dịch thể (humour) trong mọi hình dạng của
những sinh vật thể.
[Với bản vẽ quả tim cho thấy những tĩnh mạch
và động mạch]
Hỡi văn sĩ, bạn sẽ miêu tả bằng ngôn từ
nào với sự hoàn thiện tương tự toàn bộ cấu tạo của nó trong bức hoạ này đây? Vì
thiếu tri thức, bạn sẽ miêu tả nó một cách lẫn lộn khi truyền đạt nhưng mà lại
ít am hiểu về những hình dạng đích thực của sự vật; và tự dối mình rằng bạn tìn
rằng bạn thoả mãn thính giả hoàn toàn khi bạn nói về hình thể của bất cứ gì có
cơ thể và được bao quanh bằng những bề mặt.
Tôi khuyên rằng, bạn đừng trở ngại mình bằng những
ngôn từ trừ phi bạn đang nói với người mù, hoặc nếu bạn muốn chứng minh với đôi
tai bằng ngôn từ thay vì bằng đôi mắt của con người đang nói về những thực vật
hoặc về những vật thiên nhiên và không mất công rót vào tai những thứ mà lẽ ra
phải biểu đạt bằng mắt vì ở đây bạn sẽ bị tác phẩm của hoạ sĩ vượt qua rất xa.
Bằng ngôn từ nào bạn có thể miêu tả quả
tim này mà không chiếm cả quyển sách? Thế nhưng, bạn càng viết chi tiết bao
nhiêu về nó bạn càng làm rối trí người nghe. Và bạn sẽ luôn cần tới những người
chú giải hoặc trở lại với kinh nghiệm, và đối với bạn thì ngắn ngủi và chỉ bàn
về một vài điều khi so sánh với mức độ của chủ đề liên quan trong những gì bạn
mong muốn tri thức toàn diện.
Mắt người
Đồng
tử của mắt thay đổi sang nhiều kích thước khác biệt tuỳ theo những khác biệt về
mức độ sáng và tối của vật thể ở trước mắt... Trong trường hợp này, thiên nhiên
đã ban cho năng lực thị giác, khi bị ánh sáng quá độ kích thích, thì đồng tử
thu nhỏ lại và ở đây thiên nhiên tác động giống như người thấy trong nhà quá
nhiều ánh sáng, thì khép cửa sổ lại ít nhiều tuỳ mức cần thiết, còn khi đêm
xuống, thì mở toang cửa sổ để nhìn thấy rõ hơn...
Thiên nhiên ở đây ban sự điều chỉnh không
ngừng và tính quân bình liên tục bằng sự giãn nở và thu nhỏ của đồng tử tuỳ
theo độ tối hoặc sáng ở phía trước nó. Bạn có thể quan sát quá trình ở những
động vật sống về đêm, như mèo, cú mèo, cú tai dài, chúng vốn có đồng tử nhỏ vào
ban trưa và rất to vào ban đêm... còn nếu bạn muốn thí nghiệm với một người
nhìn chăm chú vào đồng tử của mình trong khi cầm cây nến sáng ở cách một khoảng
cách ngắn và cho người ấy nhìn vào ánh nến này trong khi bạn mang nó càng lúc
càng tới gần hơn, và bạn sẽ thấy ánh nến càng tới gần hơn thì đồng tử của người
ấy sẽ càng co lại.
Đồng
tử định vị ở trung tâm của giác mạc vốn có hình dạng của bộ phận hình cầu chọn
đồng tử ở trung tâm đáy của nó. Giác mạc (luce)
này hình thành bộ phận của khối cầu tiếp nhận tất cả hình ảnh của những vật thể
và truyền chúng thông qua đồng tử ở bên trong tới nơi mà thị giác hình thành.
Trong
việc giải phẫu mắt, để có thể nhìn thấy rõ được cấu tạo bên trong mà không làm
trào dịch lưu (watery humour) của nó, bạn nên đặt toàn bộ con mắt trong lòng
trắng của quả trứng rồi nấu nó cho tới khi rắn lại; rồi cắt ngang quả trứng và
con mắt sao cho không bộ phận nào của phần giữa bị trào ra.
Hãy
đục hai lỗ thông trong cuống sừng của những tâm thất (ventricle) lớn và bơm sáp
chảy vào bằng ống chích, đục một lỗ trong tâm thất của bộ nhớ (memoria), và qua
cái lỗ này bơm đầy ba tâm thất của bộ não; và sau đó khi sáp đã tước đi bộ não
và bạn sẽ thấy hình dạng chính xác của ba tâm thất.
(d) Lưỡi
Về những cơ làm di
chuyển lưỡi
[được minh hoạ bằng những bản vẽ]
Không
có khí quan nào có số cơ nhiều như lưỡi,—trong những cơ này có hai mươi bốn
được biết là tách biệt khỏi những cơ khác mà tôi phát hiện được; và trong tất
cả những chi thể di chuyển bằng động tác tự giác thì khí quan này vượt qua tất
cả những phần còn lại về số lượng vận động của nó... Công việc hiện tại là khám
phá ra bằng cách nào mà hai mươi bốn cơ này được phân chia hoặc phân phối để
giúp đỡ lưỡi trong những vận động cần thiết vốn có nhiều và khác biệt; và hơn
nữa, nó phải được nhìn thấy những dây thần kinh truyền xuống đáy bộ não ra sao,
và bằng cách nào chúng đi vào lưỡi, tự phân phối và chỉa ra những chi nhánh. Và
phải ghi nhận thêm hai mươi bốn cơ này tự biến đổi thành sáu trong việc cấu tạo
của chúng trong lưỡi. Hơn nữa, bạn nên cho thấy những cơ này phát xuất từ đâu,
mà một số cơ trong cột sống nơi cổ... một số trong hàm trên, và một số trong
khí quản... và tương tự những tĩnh mạch nuôi dưỡng chúng và những dây thần kinh
gây cảm giác cho chúng... lưỡi tác động trong việc phát âm và đọc rõ ràng những
âm tạo ra lời. Lưỡi cũng dùng trong những vòng quay cần thiết của thực phẩm
trong tiến trình nhai và làm sạch từ bên trong miệng và răng. Lưỡi có bảy loại vận
động chủ yếu...
Hãy xem xét kĩ sự vận động của lưỡi ra
sao cùng sự giúp đỡ của môi và răng, việc phát âm tất cả những danh xưng của sự
vật mà chúng ta quen biết; và những từ đơn và câu phức của một ngôn ngữ lọt tới
tai chúng ta bằng khí cụ này; nếu như mỗi hiệu quả tự nhiên, đều có danh xưng,
thì những danh xưng đạt tới vô hạn, cùng vô số những sự vật trong hoạt động và
trong cơ năng tự nhiên; với những danh xưng này, người ta không biểu đạt chỉ bằng
một ngôn ngữ mà bằng nhiều ngôn ngữ, và chúng có xu hướng tới vô tận; bởi chúng
liên tục biến thiên từ thế kỉ này sang thế kỉ khác, từ quốc gia này sang quốc
gia khác, qua sự hỗn dung giữa các dân tộc bởi chiến tranh và những tai biến
khác không ngừng pha trộn vào với nhau; và cùng những ngôn ngữ này có khả năng
bị lãng quên, và cũng bị tiêu vong như mọi tạo vật; và nếu chúng ta thừa nhận
rằng thế giới là bất diệt, chúng ta có thể nói những ngôn ngữ này đã đang, và
vẫn còn là, mang tính đa dạng vô hạn, lưu truyền qua bao thế kỉ bền gan với tuế
nguyệt. Và đây không phải là trường hợp có bất kì ý nghĩa nào khác; vì những
điều này chỉ liên quan tới những sự vật như thiên nhiên không ngừng sản sinh;
và những hình dạng thông thường của sự vật do thiên nhiên tạo ra không thay
đổi, như những sự vật do con người tạo ra qua các thời đại, và con người là khí
cụ vĩ đại nhất của thiên nhiên.
Tôi
có rất nhiều từ ngữ trong tiếng mẹ đẻ mà đáng lẽ tôi phải than phiền về việc
thiếu hiểu biết chính xác về sự vật hơn là việc thiếu từ ngữ thể hiện đầy đủ
khái niệm trong tâm trí của tôi.
(e) Môi
Những cơ làm di động đôi môi của miệng
Những
cơ làm di động đôi môi của miệng ở con người thì nhiều hơn bất kì ở động vật
nào khác; và điều này cần thiết cho con người bởi vì nhiều hành vi mà đôi môi
này được sử dụng không ngừng, như trong việc phát âm bốn mẫu tự bfmp, khi huýt sáo, cười, khóc, và những
hành vi tương tự. Cũng vậy, trong những việc nhăn nhó kì quái mà những chú hề
vận dụng khi họ mô phỏng những khuôn mặt.
Những cơ nào căng thật chặt miệng và những
đường biên ở bên của nó sát lại gần nhau?
Những cơ làm căng miệng như vậy làm giảm
bớt độ dài của nó đều nằm trong đôi môi; hoặc đúng hơn đôi môi này đều là những
cơ thực sự tự khép lại. Trên thực tế, cơ này thay đổi kích thước của môi bên
dưới những cơ khác vốn liên kết với nó và từ đó cặp môi căng phồng lên và máy
động thành nụ cười,... còn cái cơ thu nhỏ lại nó giống như như vành môi dưới
được thành hình; và tiến trình tương tự đồng thời diễn ra ở vành môi trên. Có
những cơ khác khiến đôi môi đi tới một điểm; những cơ khác làm phẳng chúng;
những cơ khác làm méo lệch tất cả; và những cơ khác đem chúng trở về vị trí ban
đầu. Vì thế, luôn có nhiều cơ tương ứng với những điệu bộ khác nhau của đôi môi
này và nhiều cơ khác giúp phục hồi những điệu bộ này; và mục đích của tôi ở đây
là miêu tả và trình bày đầy đủ, chúng minh những sự vận động này nhờ những
nguyên tắc toán học.
Có
lần, tôi thấy ở Florence một người đàn ông bị điếc, khi bạn nói thật lớn tiếng,
y không hiểu bạn, nhưng nếu bạn nói khẽ và không gây ra tiếng, y hiểu được bạn
đơn thuần từ cử động của đôi môi. Giờ đây, có thể bạn sẽ cho rằng đôi môi của
một người nói lớn tiếng không cử động giống như đôi môi khi nói khẽ, và nếu
chúng cử động giống nhau chúng sẽ không được hiểu giống nhau. Về tranh luận
này, tôi để lại quyết định này cho việc thực nghiệm; hãy cho một người nói với
bạn nhẹ nhàng và lưu ý đôi môi người ấy.
(f)
Bào
thai
Mặc dù kĩ năng của con người có thể tạo ra những phát minh đa dạng và
đáp ứng bằng những máy móc khác nhau dành cho cùng một mục đích, nó sẽ chẳng
bao giờ nghĩ ra một phát minh nào đẹp hơn, giản đơn và trực tiếp hơn Tự nhiên;
bởi trong những phát minh của bà mẹ Tự nhiên không gì thiếu và thừa. Bà mẹ Tự
nhiên không cần sự đối trọng nào khi bà sáng tạo các chi thể thích hợp cho vận
động trong cơ thể động vật, mà đặt trong chúng linh hồn của thân thể vốn tạo
hình nên chúng, đó là linh hồn của người
mẹ nó đầu tiên tạo dựng trong tử cung hình hài của con người, và đến đúng kì hạn
đánh thức cái sẽ là kẻ cư trú trong cái nhân dạng đó. Và linh hồn này ban đầu nằm
ngủ dưới sự giám hộ của linh hồn người mẹ, người ban cho nó dưỡng chất và sự sống
thông qua tĩnh mạch cuống nhau và toàn bộ những thành phần tâm linh của nó; và
điều này vẫn tiếp diễn chừng nào sợ dây rốn nói trên kết nối với nó bởi rau
thai và phôi nhờ đó đứa con gắn bó với người mẹ. Đây là những lí do tại sao một
mong mỏi, một ước muốn mạnh mẽ, một nỗi sợ hãi mà người mẹ trải qua thì đứa con
cảm nhận còn mạnh hơn cả người mẹ nữa; vì có bao nhiêu trường hợp đứa con bị thiệt
mạng vì thế...
Do một tinh thần cai quản hai thân thể, cho nên những ước muốn, sợ hãi,
và đau đớn của người mẹ là một với nỗi đau, đó là nỗi đau thân xác, cùng những
ham muốn của đứa con trong thân thể người mẹ, cũng như thế, cách thức truyền dưỡng
chất cho đứa con và nó được nuôi dưỡng cùng nguyên nhân như những phần khác của
người mẹ,và những năng lực đời sống của nó được rút từ không khí cũng là nguyên
lí sinh tồn chung của loài người và mọi tạo vật khác.
Người da đen Ethiopia không phải là sản phẩm của mặt trời; vì nếu da
đen lấy da đen có con ở Scythia, thì dòng dõi vẫn là da đen; nhưng nếu một người
da đen lấy vợ da trắng có con thì dòng dõi có màu tro. Điều này chứng tỏ hạt giống
của người mẹ có năng lực trong bào thai ngang với hạt giống của người cha.
Tôi bộc lộ cho con người về dòng dõi đệ nhị của họ—đệ nhị hoặc có thể là
đệ nhất—nguyên nhân của tồn tại. Sự phân chia phần tâm linh khỏi phần vật thể.
Và đứa con thở và được nuôi dưỡng ra sao qua cuống rốn; và tại sao một linh hồn
cai quản hai thân thể, khi ta thấy người mẹ khao khát một thực phẩm nào đó thì
đứa con cũng mang những biểu thị đó. Và tại sao đứa con [sinh ra] khi được tám
tháng thì không sống được. Ở đây, Avicenna tranh biện rằng linh hồn sinh linh hồn
và nhục thể sinh nhục thể và các loại khí quan, nhưng ông sai lầm.
(g) Cơ thể học so sánh
Bạn
sẽ trình bày ở đây việc so sánh cặp giò của con ếch, vốn có một sự tương tự lớn
với cặp giò của con người, cả về xương và cơ. Rồi thêm nữa, chân sau của con
thỏ rừng có nhiều bắp thịt, với những cơ hoạt động mạnh, bởi vì chúng không bị
mỡ làm trở ngại.
Hãy
lưu ý những khúc cong ở những khớp và quá trình thịt căng phồng lên khi gấp và
duỗi; về chuyện này quan trọng nhất là phải viết một chuyên luận: miêu tả vận
động của những động vật bốn chân; trong đó kể cả con người trong ấu thời bò
bằng cả tứ chi.
Con
người luôn bước đi theo cách của những động vật bốn chân hệt như họ di chuyển
bàn chân chéo nhau theo kiểu con ngựa phi, con người cũng chuyển động tứ chi
chéo nhau như thế; tức là khi bước đi, bàn chân phải của người ta đi tới thì
cánh tay trái đánh tới trước và ngược lại, lúc nào cũng vậy.
Con
ếch sẽ chết tức khắc nếu cột sống bị đâm xuyên; và trước khi điều này xảy ra,
nó vẫn sống không có đầu, không tim hoặc bất kì xương hoặc ruột hoặc da, và vì
thế, ở đây cột sống gần như là nguyên nhân nền tảng của sự vận động và đời
sống. Tất cả những dây thần kinh của động vật bắt nguồn từ đây: khi bị đâm vào,
chúng chết tức khắc.
Tôi
đã phát hiện trong cấu tạo của cơ thể con người những cơ quan cảm giác trì độn
hơn và thô sơ hơn so với những cơ quan cấu tạo của động vật. Như vậy, nó được
cấu thành từ một khí cụ ít tinh xảo và từ những bộ phận ít có khả năng tiếp
nhận năng lực của những giác quan. Tôi đã thấy trong đàn sư tử, khứu giác hình
thành bộ phận thực chất của não đi xuống lỗ mũi để hình thành một chỗ đón nhận
lớn cho khứu giác. Đi vào chỗ đón nhận này là một lượng lớn những tế bào sụn
với nhiều thông đạo dẫn tới não bộ nói tới ở trên. Đôi mắt trong đàn sư tử có
một bộ phận lớn ở đầu dành cho hốc mắt và những dây thần kinh thị giác liên
thông trực tiếp với não bộ; với con người thì ngược lại, hốc mắt chỉ chiếm một
phần nhỏ, còn những dây thần kinh thị giác thì mỏng, dài và yếu; và bởi hoạt
động yếu cho nên chúng ta ban ngày nhìn thấy rõ, còn ban đêm thì tồi; trong khi
đó, sư tử ban đêm nhìn rõ hơn ngày; và bằng chứng có thể thấy là chúng săn mồi
vào đêm và ngủ vào ban ngày, như những loài chim sống về đêm.
Đôi mắt của động vật
Đôi
mắt của mọi động vật đều có đồng tử thích nghi với việc giãn nở và co lại tuỳ tỉ
lệ ánh sáng mặt trời hoặc nguồn sáng khác nhiều hơn hoặc ít hơn. Nhưng trong
loài chim, sự biến thiên lớn hơn, đặc biệt với loài chim ban đêm thuộc chủng
loại cú. Như cú sừng, cú trắng và cú nâu. Với những loài cú này, đồng tử giãn
nở cho tới khi hầu như nó chiếm trọn con mắt, hoặc co lại kích thước chỉ bằng
hạt kê, và luôn giữ lại hình tròn.
Nhưng ở đàn sư tử, như loài báo đen, báo,
báo tuyết, hổ, sói, mèo rừng, mèo Tây-ban-nha, và những động vật tương tự khác,
đồng tử khi co lại từ hình tròn xoe sang hình trứng.
Tuy vậy, con người có một thị lực yếu hơn
bất kì động vật nào khác, lại ít bị ánh sáng quá độ làm tổn thương và đồng tử
ít gia tăng ở những chỗ tối. Nhưng trong đôi mắt của những động vật sống ban
đêm đã nêu trên, trong loài cú sừng, là loài chim đêm lớn nhất, thị lực gia
tăng rất lớn tới nỗi trong màn đêm mờ nhất (gọi là bóng tối) nó có thể thấy rõ
rệt hơn là chúng ta nhìn thấy vào giữa trưa chói lọi, khi những loài chim này
ẩn trong những chỗ tối; hoặc nếu chúng buộc phải xuất hiện ra ánh mặt trời, thì
đồng tử co lại thật nhỏ tới nỗi thị lực của chúng giảm theo lượng ánh sáng.
Hãy nghiên cứu cơ thể học về các loại mắt
khác nhau và nhìn những đồng tử của các đôi mắt động vật nói trên xem các cơ
nào mở và đóng.
Nếu
ban đêm, mắt của bạn ở giữa ánh sáng và mắt của một con mèo, bạn sẽ thấy mắt
mèo giống như lửa.
Khi
loài chim nhắm mắt lại bằng hai lớp phủ, đầu tiên nó khép lớp thứ nhì, lớp này
nằm ở một phía tuyến nước mắt hướng tới đuôi mắt, và lớp phủ ngoài nhắm lại từ
dưới lên trên. Hai lớp này giao nhau và
đầu tiên che mắt từ hướng của tuyến nước mắt bởi vì chim đã thấy rằng nó an
toàn phía trước và phía sau; nó chỉ bảo toàn phần trên của mắt bởi vì những
nguy cơ từ loài chim săn mồi hạ từ trên xuống và sau tới; và trước tiên nó sẽ
mở lớp màng theo hướng của đuôi mắt, vì nếu kẻ thù ập tới từ sau thì chim có cơ
hội bay tới trước. Cũng vậy, nó giữ lớp màng gọi là thứ nhì vốn có kết cấu
trong suốt, nó làm vậy bởi nếu không có tấm chắn này thì nó không thể giữ đôi
mắt mở ra chống lại luồng gió đập vào mắt khi bay nhanh.
Phân
tích sự vận động của lưỡi con chim gõ kiến.
Miêu
tả lưỡi con gõ kiến và hàm của con sấu châu Phi.
Sau khi một hoạ sĩ
đã làm chủ khoa cơ thể học, y có tự do sáng tạo ra những sinh vật dựa theo ý
tưởng riêng của mình. Y có thể, chẳng hạn, ráp các bộ phận của nhiều loài vào
với nhau để tạo ra một cấu trúc giả tưởng. Những con quái vật của Leonardo là
một ví dụ kì lạ về phương thức mà tậm trí ông kết hợp khoa học với hư cấu.
Chúng thường là những ý tưởng dành cho những lễ hội hoá trang và những huy hiệu.
Làm sao tạo ra một con vật tưởng tượng trông có vẻ tự
nhiên
Bạn
biết rằng bạn không thể tạo ra bất cứ con vật nào mà không có những chi thể,
như mỗi chi thể mang một số điểm tương tự với chi của một số những động vật
khác. Nếu vậy, bạn muốn tạo ra một trong những con vật theo trí tưởng tượng trông
có vẻ tự nhiên—ta hãy giả thiết nó là một con rồng—hãy cho cái đầu của nó của loại
chó lớn tai cụp hoặc chó săn lông xù, cho mắt như mắt mèo, cho tai của loài
nhím, cho mũi của loài chó săn, với lông mày sư tử, và thái dương của con gà
trống già và cổ của con rùa nước.
(h) Vải vóc
Các
loại vải mỏng, dày, mới, cũ, với những nếp gấp đứt đoạn và xếp nếp, ánh sáng
nhẹ, bóng tối mờ và ít tối mờ, có hoặc không có những phản chiếu, rõ nét hoặc
không rõ nét tuỳ khoảng cách và màu sắc; và những y phục tuỳ theo địa vị xã hội
của người mặc, dài hoặc ngắn, phất phới hoặc cứng nhắc tuỳ những di động; bao
bọc quanh nhân vật khi khom xuống hoặc đuôi áo phất phới thành dòng nhấp nhô,
tuỳ những những nếp gấp; bám chặt bàn chân hoặc tách biệt khỏi, tuỳ theo đôi
chân đang nghỉ hoặc gấp, hoặc xoáy hoặc sải bước; bó chặt hoặc tách biệt với
những chỗ nối theo bước chân hoặc chuyển động hoặc khi có gió.
Và những nếp gấp nên tương ứng với phẩm
chất của những vải vóc dù trong suốt hay mờ đục...
Về y phục mỏng của phụ nữ khi đang bước
đi, đang chạy, đang nhảy, và các trạng thái khác.
Nên
vẽ tính chất của vải như thế nào: tức là, nếu bạn muốn miêu tả loại vải len thì
vẽ những nếp gấp từ đó, và nếu là lụa, hoặc vải mịn hoặc thô, hoặc vải gai hoặc
nhiễu đen, làm biến đổi từng nếp gấp và không miêu tả những bộ áo dài, như
nhiều người thường làm, từ những người mẫu che phủ bằng giấy hoặc da thuộc mỏng
thì sẽ rầt dễ đánh lừa bạn.
Mọi
vật thể tự tính chất có xu hướng duy trì thế yên nghỉ. Loại vải có mật độ và độ
dầy bằng nhau có xu hướng nằm phẳng; vì thế khi bạn gấp nó lại hoặc xếp nếp để
bắt buộc nó không giữ độ phẳng, hãy chú ý hiệu quả của sự kiềm chế ở phần kiên
cố nhất; và phần xa nhất ra với sự kiềm chế thì rơi lại trạng thái tự nhiên
nhất; tức là trải loang ra một cách tự do.
Bạn
không nên để cho y phục bị quá nhiều nếp gấp lộn xộn, mà nên đưa vào chỉ những
nếp gấp tạo ra bởi bàn tay hoặc cánh tay; phần còn lại bạn có thể để cho buông
xuống đơn thuần mà bản tính làm nó trôi chảy; và đừng cho những hình thể khoả
thân bị vắt ngang bởi quá nhiều đường nét hay những nếp gãy khúc.
Những
nhân vật mặc áo choàng không nên cho thấy hình thể quá nhiều tới nỗi cái áo
khoác trông như thể sát liền da thịt. Vì chắc chắn bạn không muốn chiếc áo
khoác sát với thịt bởi vì bạn phải nhận thức rằng giữa áo choàng và thịt là những
bộ y phục khác ngăn những hình dạng của tứ chi không hiển hiện được và xuất
hiện qua cái áo choàng. Và những chi thể mà bạn phô ra thì hãy làm nó dày chắc
để nó dường như là có những loại trang phục khác dưới lớp áo choàng. Chi thể của
một tiên nữ hoặc một thiên sứ nên cho thấy trong trạng thái hầu như nguyên hình, vì những chi thể này được miêu tả khoác
trang phục nhẹ, thướt tha và ép sát vào chi thể của những nhân vật khi gió đang
thổi.
(i)
Thực
vật học
Những trang dưới
đây bao gồm một tuyển chọn từ bút kí của Leonardo về thảo mộc. Những bút kí
khác liên hệ đến phong cảnh, chẳng hạn như những nghiên cứu về sự hình thành
nham thạch, những vận động của nước và mây, được nêu ra trong Chương II. Những
bút kí về khí quyển, ánh sáng và màu sắc trong phong cảnh được nêu ra trong
Chương IV.
Nhiều bản vẽ về cây cối và hoa thảo bản
xứ của nước Ý có thể tìm thấy trong thủ cảo của ông. Ông quan tâm đến tầm ảnh
hưởng của ánh sáng mặt trời và nước đối với việc tăng trưởng của chúng. Ông
theo dõi quá trình chín muồi của một quả bầu. Ông quan sát hấp lực của địa cầu
đối với những thực vật nhất định (hướng địa tính/geotropism) và tập tính của
những thực vật khác quay hướng tới mặt trời (hướng nhật tính/heliotropism). Ông
khảo sát nhựa các loại cây và và phát hiện rằng tuổi của chúng tương ứng với số
vòng trong thân cây cắt ngang. Sự quan sát của ông về trật tự theo đó lá cây
chiếm những vị trí khác nhau trên thân cây hoặc trục là bước đầu tiên để thiết
lập những quy tắc về sự sắp xếp lá (phyllotaxis) và việc này đã được phát triển
mấy thế kỉ sau đó.
Người
không có tính đại đồng (universal) thì không yêu quý bình đẳng mọi thứ bao gồm
trong Hội hoạ. Chẳng hạn có người không quan tâm đến phong cảnh và yêu quý
chúng thì chỉ xem xét một đề tài qua loa và đơn giản. Vì thế, Botticelli của
chúng ta nói rằng những học tập như thế là vô ích, bởi chỉ việc ném miếng bọt
bể tẩm màu sắc khác nhau lên một bức tường thì ở khoảng vấy màu sẽ hình thành
một bức phong cảnh thú vị có thể nhận ra rồi. Tôi thừa nhận hoàn toàn đúng là
trong một mảng vấy màu đó, người ta có thể dò tìm ra những sáng chế khác nhau
nếu người ta tìm kiếm chúng, giống như đầu người, những con vật khác nhau,
những trận chiến, nham thạch, biển, mây, cây cối, và những thứ tương tự, hệt
như khi lắng nghe những tiếng chuông chùm, ta gần như nghe được bất kể những gì
ta chọn. Nhưng mặc dù những mảng vấy màu đó có thể gợi lên với bạn những bố
cục, nhưng chúng không dạy cho bạn biết cách nào để hoàn tất bất kì chi tiết
nào.
Và loại hoạ sĩ này chỉ có thể vẽ những bức
phong cảnh rất tồi!
Miêu tả bốn mùa trong năm hoặc về những sự vật liên
quan
Vào
mùa thu, bạn sẽ vẽ những sự vật tuỳ theo tiến triển của mùa, khởi đầu lá cây
bắt đầu héo tàn trên những cành già cỗi nhất, ít hoặc nhiều, phụ thuộc vào cây
được thể hiện đang sinh trưởng trên đất cằn hay phì nhiêu, và ngay cả những
loại cây nhạt màu và có sắc đỏ hơn thì sinh ra quả trước tiên.
Không nên, như nhiều người, vẽ tất cả
những loại cây, cho dù chúng có cự li đều nhau, có cùng loại màu lục. Nói về
những cánh đồng, thảo mộc, những loại đất và đá khác nhau, và thân cây, chúng
đều luôn dị biệt. Bởi thiên nhiên thì biến thiên vô hạn, không chỉ về những
chủng loại mà ngay cả trong cùng thứ cây có thể thấy màu sắc khác nhau và trên
nhánh có lá đẹp và lớn hơn những cành khác. Thiên nhiên hết sức thú vị và phong
phú theo những biến thiên, trong số những cây cùng loại sẽ không tìm thấy một
cây gần như tương tự với cây khác, và không chỉ cây cối như một toàn thể, mà
các cành, lá và quả của chúng, cũng không thể tìm thấy cây này giống hệt như
cây kia.
Vì thế, hãy quan sát điều này và biến hoá
chúng hết sức nếu có thể.
Ở
những đầu mút cành cây, trừ phi chúng trĩu nặng do quả, nó hướng hết sức lên
bầu trời. Mặt trên của lá hướng lên bầu trời để nhận dưỡng chất từ sương rơi
ban đêm.
Mặt trời ban tinh thể và sự sống cho cây cối
và mặt đất nuôi dưỡng chúng bằng độ ẩm.
Những
cành thấp hơn, sau khi chúng đã hình thành góc tách biệt với thân mẹ, thì luôn
cong xuống sao cho không chen chúc với những cành khác sẽ liên tiếp ở phía trên
chúng trên cùng một thân và có thể hấp
thu không khí để nuôi chúng dễ dàng hơn.
Mỗi
chồi non và mỗi quả được sinh ra bên trên vị trí chen vào (trong nách lá) của
lá vốn phục vụ như người mẹ, bằng việc đem nước mưa và độ ẩm của sương rơi ban
đêm từ bên trên và bảo vệ chúng khỏi bị quá nhiều sức nóng của ánh mặt trời.
Về việc lá sinh trên cành
Độ
dầy cành không bao giờ sút giảm trong khoảng giữa lá này và là khác trừ khi bởi
độ dầy của cái mắt ở trên chiếc lá; và độ dầy này lại thiếu hụt trong phần kế
tiếp của cành tới khi có cái lá sau.
Thiên
nhiên đã xắp đặt lá cây từ những chồi mới nhú trong nhiều loại cây, chiếc lá
thứ sáu bao giờ cũng ở bên trên lá thứ nhất và tiếp tục như thế nếu quy luật
này không bị ngăn chặn.
Và việc này giúp cây cối hai công dụng,
một là khi cành và quả sinh ra trong năm sau từ mầm (hay mắt) vốn ở bên trên để
tiếp xúc với sự gắn bó của lá, thì nước làm ướt cành này có thể hạ xuống để
nuôi dưỡng chiếc mầm này, giọt nước đọng lại trong nách lá là nơi mà lá nảy
sinh; và công dụng thứ hai là khi những chồi này phát triển trong năm tới thì
chồi này sẽ không che chồi khác, vì năm cành cây đâm ra theo năm hướng khác
nhau, và cành thứ sáu đâm phía trên cành thứ nhất ở một cự li nào đó.
Tất
cả đoá hoa tiếp thụ mặt trời trực tiếp mới kết hạt chứ không phải những đoá hoa
khác chỉ tiếp thu ánh phản chiếu của mặt trời.
Nếu
bạn tước đi một vòng từ vỏ của một thân cây, nó sẽ héo tàn từ vòng trở lên và vẫn
sống từ vòng trở xuống, còn nếu bạn tạo cái vòng trong tuần trăng xấu, rồi cắt
cây từ dưới gốc trong một tuần trăng tốt, thì cái cây có vòng cắt trong tuần
trăng tốt sẽ sống sót và phần còn lại sẽ héo tàn.
Những
cành cây luôn bắt đầu ở trên lá.
Khởi
đầu của cành cây sẽ luôn có tuyến trung tâm với độ dầy [trục] nhắm tới tuyến
trung tâm [trục] của cây.
Nói
chung, gần như tất cả những bộ phận thẳng đứng của cây hơi cong cong theo độ
lồi hướng tới phương nam; và những cành của chúng dài hơn, dầy hơn và nhiều hơn
hướng tới phương nam hơn là phương bắc. Và điều này xảy ra vì mặt trời kéo nhựa
tới bề mặt của cây vốn gần nhất với nó. Và người ta ghi nhận điều này trừ phi
mặt trời bị cây cối khác che chắn.
Tất
cả những cành cây ở mỗi tầng phát triển trong độ cao của chúng, kết hợp với
nhau, bằng với độ dầy của thân cây.
Tất cả những nhánh sông ở mỗi tầng trong độ
dài của chúng có vận động bằng với kích thước của dòng chủ lưu.
Sự sáp nhập cành lên cây
Khởi
đầu chi nhánh của cây trên cành chính, giống như khởi đầu của lá trên chồi của
cùng cây ấy. Những lá này có bốn cách sinh trưởng và cách này ở bên trên cách
kia; cách thứ nhất, và thông thường nhất, chiếc lá thứ sáu luôn bắt nguồn bên
trên lá thứ sáu bên dưới; cách thứ nhì, hai phần ba lá ở bên trên là hai phần
ba lá bên dưới; cách thứ ba, chiếc lá thứ ba bên trên ở trên chiếc lá thứ ba
bên dưới; và thứ tư, cây linh sam được sắp xếp thành những tầng.
Tất
cả hạt đều có cuống rốn khi hạt chín muồi. Và tương tự như thế, chúng có tử
cung và rau thai, như thấy trong cỏ và mọi loại hạt sinh trưởng trong những vỏ
bọc. Nhưng những loại hạt sinh trưởng trong loại vỏ cứng, như hạt dẻ, hạt hồ
trăn và những hạt tương tự có cuống rốn dài và điều này phơi bày trong thời sơ
sinh của chúng.
Cây
anh đào (cherry) có đặc tính của cây linh sam (fir) về chi nhánh bố trí thành tầng
quanh thân; và những cành của nó mọc thành những bốn, những năm, hoặc những sáu
đối ngịch với nhau; và chóp của những chồi cao nhất hình thành một hình kim tự
tháp từ trung tâm hướng lên; và cây hồ đào và sồi hình thành một bán cầu từ
trung tâm hướng lên.
Chiếc
lá luôn quay mặt chính diện lên bầu trời để cho nó có thể tiếp nhận toàn diện
bề mặt khi sương rơi nhẹ từ khí quyển; những chiếc lá này được phân bố trên cây
cối sao cho lá này phủ lên lá khác thật ít, nhưng chúng nằm luân phiên cái này
trên lá kia như thấy trong dây thường xuân phủ những bức tường. Và sự luân
phiên này giúp hai mục đích; một là để lại những khoảng trống sao cho không khí
và mặt trời có thể thâm nhập vào giữa chúng,—và mục đích thứ hai là những giọt
nước rơi xuống từ lá thứ nhất có thể rơi lên lá thứ tư, hoặc lá thứ sáu trong trường
hợp của những loại cây khác.
Khi
miêu tả gió, ngoài việc cho thấy những cành bị uốn cong và lá lật ngược khi gió
thổi tới, bạn nên trình bày những đám mây bụi mịn trộn lẫn vào không khí bị xao
động.
Những
cây non có lá trong suốt hơn và vỏ cây bóng láng hơn những cây già cỗi; và đặc
biệt cây hồ đào có màu nhạt hơn vào tháng Năm so với tháng Chín.
Những
vòng mặt cắt ngang của cành cây cho thấy số năm của nó, độ rộng lớn hơn hoặc
nhỏ hơn của những vòng này cho thấy năm nào ẩm hơn và khô hơn. Chúng cũng cho
thấy hướng cành cây xoay về, vì phần quay tới hướng bắc dầy hơn phần quay tới
hướng nam vì thế trung tâm của thân thì gần với cái vỏ xoay về hướng nam hơn là
xoay về hướng bắc.
Mặc dù điều này không quan trọng trong
hội hoạ, tuy nhiên, tôi muốn miêu tả nó, ngõ hầu bỏ sót thật ít những gì tôi
biết về cây cối.
3.
BIỂU
HIỆN CỦA TINH THẦN
Tri thức về cơ thể
học không đủ và vì thế người nghệ sĩ phải đào sâu hơn. Những hành vi gợi lên
những động lực dẫn tới chúng; những gương mặt và những động tác phải tiết lộ
những trạng thái tinh thần. Nhân thể là một biểu hiện ra ngoài và hiển hiện của
linh hồn. Nó được tạo hình bởi tinh thần của nó. Người hoạ sĩ phải đảo ngược tiến
trình và bằng việc dựng một cơ thể biểu lộ một tinh thần.
Leonardo coi đây là mục đích cao nhất của
người nghệ sĩ và bản thân ông sở trường về nó. Bức chân dung Mona Lisa của ông đã luôn được coi là một kiệt tác vì
sự biểu lộ đời sống nội tâm, và những bức tranh khác của ông cũng trong cùng
phạm trù, với bức Bữa tiệc li là một
ví dụ thượng thặng. Trong số những bản vẽ còn sót lại có một loạt những bức
biếm hoạ về những gương mặt, cho thấy những thái cực của những biểu hiện.
Bàn
tay và cánh tay trong mọi động tác phải phô bày ý đồ tinh thần khiến chúng vận
động, trong mức độ có thể, bởi nhờ chúng, bất cứ ai có sự phán đoán đồng cảm
tuân theo những ý đồ tinh thần trong mọi vận động của chúng. Những nhà hùng
biện giỏi, khi họ muốn thuyết phục thính giả điều gì, thường thường kèm theo
lời lẽ của họ bằng những động tác bàn tay và cánh tay, tuy vậy có một số người
ngu coi thường những nét văn hoa đó, nên ở diễn đàn họ gần như là những pho
tượng gỗ, qua miệng của họ, tiếng nói của một người núp nơi diễn đàn, được dẫn bởi một ống nói. Lối thực hành
này là khuyết điểm lớn trong cuộc sống, và thậm chí trong cả những hình tượng
hội hoạ, vì, nếu chúng không được kẻ sáng tạo ban cho những động tác sinh động
dựa theo ý định mà bạn hình dung có trong một nhân vật như thế, sẽ được đánh
giá là chết hai lần; chết vì nó không sống động, và chết trong động tác.
Nhưng hãy quay lại với chủ đề của chúng
ta, dưới đây sẽ trình bày và bàn luận về nhiều cảm xúc; đó là: cảm xúc giận dữ,
đau đớn, hốt hoảng, khóc, trốn chạy, ham muốn, hiệu lệnh, xao nhãng, lo âu, và
đại loại.
Một
hoạ sĩ giỏi có hai đối tượng chính để vẽ, con người và ý hướng tâm linh của con
người, việc trước thì dễ, việc sau thì khó, bởi y phải thể hiện linh hồn đó
bằng những thái độ và động tác của tứ chi. Tri thức về những thứ này nên được
hấp thu qua việc quan sát người câm, bởi những động tác của họ có tính tự nhiên
hơn bất kì những loại người khác.
Việc
xem xét quan trọng nhất trong hội hoạ là những động tác của từng nhân vật biểu
lộ trạng thái tinh thần, như sự ham muốn, khinh miệt, giận dữ, thương xót, và
những trạng thái tương tự.
Trong
hội hoạ, những động tác của nhân vật ở trong từng trường hợp biểu lộ mục đích
tư tưởng của họ.
Mỗi
động tác phải nhất thiết được biểu lộ bằng sự vận động.
Nhận
biết và chí hướng là hai vận hành của tư tưởng con người.
Biện
biệt, phán đoán, phản ánh đều là những hoạt động của tư tưởng con người.
Thân thể của chúng ta quy phục trời, và
trời quy phục tinh thần.
Một
bức tranh hay đúng hơn những nhân vật trong đó nên thể hiện sao cho người xem
dễ dàng nhận ra mục đích trong tư tưởng qua những thái độ của họ... như trong
trường hợp của người điếc và câm khi nhìn xem hai người đang trò chuyện—tuy bị
mất khả năng thính giác, tuy vậy y vẫn có thể
hiểu được nội dung cuộc trò chuyện bằng những thái độ và cử chỉ của
những người nói.
Tứ
chi tuỳ từng việc lao động thì phải có gân guốc, còn tứ chi không lao động, bạn
làm cho không có cơ bắp và mềm.
Hãy thể hiện những nhân vật có động tác thích
hợp với việc biểu lộ mục đích tư tưởng của họ; nếu không, tác phẩm của bạn sẽ
không được tốt.
Một
bức tranh nhân vật không đáng khen ngợi trừ phi động tác xuất hiện trong nó
cũng biểu đạt được tâm tình thiết tha của y. Nhân vật đáng khen ngợi nhất là do
những động tác của nó, những biểu đạt một cách tuyệt vời nhất cái nhiệt tình
sôi động.
Những
người già nên được miêu tả bằng những động tác chậm và nặng nề, đầu gối của họ
cong cong, khi họ đứng yên thì đôi bàn chân đặt song song và cách nhau; khi
khom xuống thì đầu chúi về phía trước, và cánh tay của họ duỗi ra ít. Phụ nữ
phải được miêu tả bằng những thái độ
khiêm tốn, hai cẳng chân khép sát lại, hai cánh tay khoanh lại, đầu họ nghiêng
ít nhiều về một bên. Phụ nữ già nên miêu tả bằng những cử chỉ háo hức, nhanh
nhẹn, và nóng nảy, như những cơn giận dữ ghê gớm; nhưng động tác nên mãnh liệt
hơn ở cánh tay và đầu hơn là ở chân. Trẻ con, với những vận động hoạt bát và
vặn vẹo, còn khi ngồi thì điệu bộ e thẹn và rụt rè.
Nội dung và hình thức
Người
yêu thì bị xúc động bởi cái mình yêu, như giác quan xúc động bởi điều nó nhận
thức, và nó kết hợp và trở thành một và đồng nhất. Tác phẩm là thứ đầu tiên
sinh ra từ sự kết hợp này; nếu vật được yêu là hạ cấp, thì kẻ yêu trở thành hạ
cấp. Khi sự vật được đem vào kết hợp mà hài hoà với cái đón nhận nó, thì sẽ có
hoan lạc, thú vui, và thoả mãn. Khi người yêu được kết hợp tới người được yêu,
thì tìm thấy niềm an nghỉ ở đó; khi gánh nặng trút xuống thì nó tìm thấy niềm
an nghỉ...
4.
BỐ
CỤC TRANH
Khi một nghệ sĩ
được uỷ thác vẽ một bức tranh để tưởng nhớ một sự kiện nhất định, y không sao
chép một bối cảnh cho sẵn; mà phải bố cục nó. Những nhân vật xếp theo nhóm và
được đặt trên một hậu cảnh và phải thích hợp với một không gian nhất định.
Leonardo khuyên một hoạ sĩ tìm cảm hứng cho một bố cục khi nhìn vào một bức
tường bị vấy lốm đốm, cho thấy ông chuộng trò chơi tự do của trí tưởng tượng
trong việc phối hợp những sự vật thành những dạng thức hai chiều. Tuy thế, ông
đòi phải có một bối cảnh giống thật. Việc miêu tả những cơ thể trong không
gian, những vị trí tương đối của chúng, độ chiếu sáng, màu sắc, tỉ lệ cân đối,
cấu trúc, và những tư thế phải được phối hợp thành một toàn thể hài hoà.
Trật tự nghiên cứu
Tôi
cho rằng đầu tiên bạn phải học những chi thể và về cơ chế của chúng, và sau khi
đã hoàn tất việc nghiên cứu này, bạn nên học những động tác của chúng tuỳ theo
những hoàn cảnh xảy ra ở con người; và thứ ba, bố cục về những chủ đề, những
nghiên cứu nên rút ra từ những động tác tự nhiên và làm nhiều lần, tuỳ theo
hoàn cảnh cho phép; và chú ý tới chúng trên đường phố, quảng trường và những cánh
đồng, và ghi chú chúng bằng biểu thị vắn tắt về những hình thể của chúng; như
vậy, cái đầu biểu thị bằng một dấu O,
cánh tay là một đường thẳng hoặc cong, và cũng vậy đối với cẳng chân và cơ thể
và khi bạn trở về nhà hãy làm việc với những ghi chú này dưới một hình thức
hoàn chỉnh. Và những ý kiến chống đối cho rằng để thực hành và thực hiện được
nhiều tác phẩm, tốt hơn là thời kì học đầu tiên nên luyện vẽ từ những bố cục
khác nhau của các bậc thầy khác nhau trên giấy hoặc trên tường. Và nếu thực
hành theo lối này và những phương pháp tốt đều lĩnh hội nhanh chóng; đối với ý
kiến ấy, tôi đáp rằng phương pháp này sẽ tốt nếu căn cứ trên những tác phẩm có
bố cục tốt do các bậc thầy thiện xảo thực hiện. Nhưng bởi những bậc thầy như
thế rất hiếm tới nỗi chỉ kiếm ra một vài người, cho nên cách chắc chắn nhất là
đi thẳng tới những đối tượng của thiên nhiên hơn là những đối tượng mô phỏng từ
thiên nhiên đã bị biến chất nhiều, và cũng bị hấp thu những tập quán xấu; vì
người nào có thể đi tới suối nguồn thì không đi ra vũng nước.
Miêu tả một người đang nói chuyện giữa một nhóm người
Khi
bạn muốn miêu tả một người đang nói chuyện giữa một nhóm người, hãy xem xét chủ
đề mà y đang bàn tới rồi phỏng theo động tác của y với chủ đề. Tức là, nếu chủ
đề có tính thuyết phục, hãy cho động tác của y duy trì, nếu chủ đề đưa ra một
cuộc tranh luận, hãy cho diễn giả với những ngón tay phải ôm một ngón tay bên
trái và giữ những ngón tay nhỏ hơn khít chặt; và gương mặt của y cảnh giác quay
tới hướng mọi người, miệng hơi mở ra như thể y lên tiếng; và nếu y ngồi, hãy
cho y có vẻ như sắp đứng lên, với đầu
hướng phía trước. Nếu bạn miêu tả y đang đứng, cho y ngả nhẹ về tới trước với
đầu và vai về phía mọi người. Những điều này bạn nên miêu tả sự yên lặng và chú
tâm, tất cả ngắm dương mặt của diễn giả bằng những cử chỉ khâm phục; và cho
những người già kinh ngạc trước những gì họ nghe thấy, với khoé miệng trễ xuống
kéo bên má xuống thành những nếp với đôi lông mày nhướng lên chỗ chúng giao
nhau và tạo thành những nếp nhăn trên trán; một số ngồi với các ngón tay siết
chặt lấy đầu gối mệt mỏi; và một số ông lão khòm lưng, vắt chân chữ ngũ và một
bàn tay đặt lên đầu gối và giữ khuỷu tay và bàn tay kia chống lấy cằm.
Bút kí về Bữa tiệc li
Một
người vừa uống xong, để cái li về vị trí rồi quay đầu sang người đang nói.
Một người khác vặn cổ tay, cặp lông mày
nghiêm nghị quay về phía đồng bạn. Một người khác dang đôi bàn tay ra cho thấy
lòng bàn tay, và nhún vai lên tới tai, miệng tỏ ra kinh ngạc. Một người khác
nói vào tai người bên cạnh, khi người kia đang nghe, ông quay sang người nghe
trong khi đang cầm con dao, và bên kia thì ổ bánh mì đã cắt dở dang. Một người khác
đang xoay con dao trong tay thì làm đổ cái li trên bàn. Một người khác đặt hai tay
lên bàn và đang nhìn. Một người khác phồng miệng thổi. Một người khác chồm tới
trước để xem người đang nói chuyện lấy tay che mắt. Một người khác lui ra sau
lưng người đang chồm tới trước, và nhìn người nói chuyện giữa bức tường và
người đang chồm tới.
Người
hoạ sĩ phải luôn xem xét, khi có một bức tường mà y phải thể hiện trên đó một
câu chuyện, y sẽ định vị các nhân vật theo chiều cao thế nào, và khi y vẽ trực
tiếp từ cảnh thực cho bố cục này, y phải chọn một vị trí mà mắt nhìn ở phía
dưới đối tượng đang vẽ, còn đối tượng, khi sáp nhập vào bố cục, sẽ ở trên con
mắt của người quan sát. Nếu không, tác phẩm có thể bị chỉ trích.
Tại sao nên tránh sự trùng điệp những nhóm nhân vật
Lối
thực hành này, vốn được các hoạ sĩ hấp thu phổ biến trên các bức tường nhà thờ,
do đó nên bị chỉ trích nghiêm khắc vì họ miêu tả một cảnh trên một bình diện
với phong cảnh và kiến trúc, và khi họ leo lên tầng bên trên để miêu tả một
cảnh khác nữa và như thế làm thay đổi điểm nhìn của cảnh đầu tiên, và rồi tạo
cảnh thứ ba và cảnh thứ tư cứ theo cách đó, trên một bức tường mà có tới bốn
điểm nhìn thì hết sức là ngu xuẩn đối với những danh sư như thế.
Chúng ta biết rằng điểm nhìn thì đối diện
với tầm mắt của khán giả với quang cảnh, và nếu bạn hỏi tôi nên miêu tả thế nào
cuộc đời của một vị thánh được chia thành một số cảnh giới hạn trên cùng một
bức tường, tôi trả lời rằng, bạn phải thiết đặt tiền cảnh với điểm nhìn trên
một bình diện cùng với tầm mắt nhìn của khán giả tới quang cảnh. Và trên mặt
bằng này, miêu tả giai đoạn quang cảnh đầu tiên với một tỉ lệ lớn. Và tiếp
theo, giảm dần những nhân vật và kiến trúc trên những ngọn đồi và đồng bằng
khác nhau, bạn có thể miêu tả mọi biến cố của câu chuyện. Còn phần còn lại của
bức tường cho tới chóp đỉnh, bạn sẽ làm cho cây cối có kích thước tỉ lệ tuỳ
theo những nhân vật hoặc những thiên thần nếu những nhân vật này thích hợp với
câu chuyện, hoặc chim muông hoặc những áng mây hoặc những thứ tương tự; bằng
không, đừng có tốn công làm gì vì toàn bộ cả tác phẩm của bạn sẽ bị sai lạc.
Tôi
không thể không lưu ý trong số những quy tắc này, một sáng kiến mới để học tập,
tuy nó có vẻ tầm thường và gần như buồn cười, tuy vậy lại hết sức hữu dụng
trong việc đánh thức đầu óc cho những phát kiến khác nhau. Đó là, khi bạn nhìn
vào một bức tường loang lổ hoặc hỗn hợp các loại đá, nếu bạn sửa soạn nghĩ ra
một quang cảnh nào đó, bạn có thể nhìn thấy trong đó một sự tương tự với những
phong cảnh khác nhau được tô điểm với núi, sông, nham thạch, cây cối, đồng
bằng, thung lũng và những vùng đồi; hoặc bạn cũng nhìn thấy những trận đánh và
những nhân vật đang hành động; hoặc những gương mặt và y phục kì dị và vô số sự
vật mà bạn có thể giảm trừ thành hình dạng riêng biệt và vẽ kĩ. Và những thứ
này xảy ra trên những bức tường như thế một cách mơ hồ, như tiếng chuông, và
trong hồi chuông đó bạn có thể tìm thấy bất cứ cái tên và từ ngữ nào mà bạn
tưởng tượng ra.
Làm sao tăng tiến tài năng và kích thích những phát
minh khác nhau
Hãy
nhìn vào những bức tường tung toé nhiều vết loang lổ, hoặc những viên đá có
những màu sắc khác nhau. Nếu bạn muốn phát minh một cảnh nào đó, bạn có thể
nhìn ở đó những sự tương tự với nhiều phong cảnh, tô điểm với núi, sông, nham
thạch, cây cối, những đồng bằng rộng lớn, thung lũng và đồi, theo những cách
khác nhau. Bạn cũng có thể thấy những trận đánh khác nhau, và những tư thế của
những nhân vật kì lạ sống động. Điều này xảy ra trên những bức tường và những
viên đá màu sắc khác nhau, (vốn tác động) như tiếng chuông, và trong hồi chuông
đó bạn có thể tìm thấy từng cái tên và từ ngữ mà bạn tưởng tượng tượng ra.
Đừng khinh thường ý kiến của tôi, khi tôi
nhắc nhở bạn rằng sẽ không khó khăn với bạn đôi khi ngừng lại để nhìn vào những
khoảng loang lổ trên tường, hoặc tro tàn từ ngọn lửa, hoặc những đám mây, hoặc
bùn lầy hoặc những chỗ nào ở đó nếu bạn thấy hay hay, bạn có thể thực sự tìm
thấy những ý tưởng làm ngạc nhiên. Đầu óc của người hoạ sĩ được kích thích với
những khám phá mới, bố cục cho những trận đấu của động vật và con người, những
bố cục khác nhau cho phong cảnh và những vật quái dị, chẳng hạn như ma quỷ và
những thứ tương tự, có thể đem vinh dự cho bạn, bởi vì qua những thứ không rõ
ràng, tâm trí được kích thích cho những phát minh mới.
Cách thức miêu tả một trận đánh
Đầu
tiên hãy miêu tả khói của hoả pháo, trong không khí trộn lẫn bụi mù tung lên do
chuyển động của ngựa và chiến sĩ. Sự hỗn hợp này, bạn phải thể hiện như sau:
bụi, là một thứ từ mặt đất, có trọng lượng; Mặc dù do độ tinh mịn nên nó có thể
dễ dàng bốc lên và trộn lẫn vào không khí, tuy nhiên lại sẵn sàng rơi xuống
lại. Nó là thành phần đầu tiên trỗi lên cao nhất; vì vậy thành phần đó sẽ thấy
ít nhất và gần như mang màu sắc không khí. Khói trộn lẫn vào không khí nhiễm
bụi, khi nó bốc lên tới một độ cao nhất định, sẽ trông giống đám mây đen; và ở
phần cao nhất khói sẽ hiển hiện rõ rệt hơn bụi. Khói sẽ nhuốm màu lam, còn bụi
vẫn giữ màu của nó. Sự hỗn hợp của không khí, khói, và bụi, trông sẽ sáng hơn
nhiều từ phía ánh sáng chiếu tới hơn là phía đối diện. Các chiến sĩ càng hỗn
độn bao nhiêu thì càng ít thấy được họ, và tương phản giữa ánh sáng và bóng của
họ càng ít đi. Bạn nên tạo vẻ hồng hào bừng sáng trên những gương mặt cùng những
nhân vật và không khí bao quanh họ, và đối với những pháo thủ và những người
gần họ. Và vẻ bừng sáng này sẽ càng yếu đi khi nó xa khỏi nguyên nhân. Những nhân
vật ở giữa bạn và ánh sáng, nếu ở xa, sẽ có vẻ tối trên nền sáng, và chân của
họ càng tới gần hơn trên mặt đất thì càng khó nhìn thấy hơn, vì ở đó bụi hạt thô
hơn và dầy đặc hơn. Nếu bạn làm cho bầy ngựa phi nước kiệu xa khỏi đám đông,
hãy tạo những đám mây bụi nhỏ có khoảng cách với nhau tuỳ khoảng cách giữa
những bước sải của con ngựa, và đám mây xa nhất khỏi vó ngựa nên sẽ ít thấy rõ
nhất, vì nó sẽ lên cao và lan toả và mỏng, còn đám mây càng gần hơn sẽ dễ thấy,
nhỏ hơn và đặc hơn. Cho không trung mũi tên bay loạn xạ, một số bắn lên trên,
một số rớt xuống, một số bay ngang. Những quả đạn từ khẩu pháo phải có một
luồng khói đi theo dòng. Với những nhân vật ở tiền cảnh, bạn phải cho tóc và
lông mày họ lấm bụi, còn ở những chỗ phẳng khác thì có thể ngăn được. Bạn sẽ
cho những kẻ chinh phục xông lên phía trước với tóc và những vật thể nhẹ khác
phất phới trong gió, những đôi lông mày cụp xuống; và họ lao về phía trước với
tứ chi đối ngược nhau; tức là nếu một người bàn chân phải tiến tới, thì cánh
tay trái cũng nên tiến tới. Còn nếu bạn cho một kẻ nào đó ngã xuống bạn phải
tạo dấu chỗ kẻ ấy trượt chân trên bụi trở thành vũng bùn vấy máu; và xung quanh
khoảng đất lầy nhầy cho thấy dấu vết dẫm đạp của người và ngựa băng qua. Hãy
miêu tả một con ngựa kéo lê xác chủ nhân, để lại đằng sau y trong bụi và bùn
dấu vết thi thể bị kéo theo. Hãy miêu tả kẻ bị chinh phục và nhợt nhạt bầm dập,
với cặp lông mày giao nhau, và da bên trên lông mày bị có những nếp; hai bên
cánh mũi những nếp nhăn thành một vòng cung từ hai lỗ mũi và chấm dứt ở đầu
mắt; lỗ mũi bị kéo lên—do những đường nhăn này; đôi môi hình cung để lộ hàm
răng trên; và hàm răng cách ra cùng với tiếng kêu than. Hãy cho thấy có người
đang dùng bàn tay như tấm khiên che đôi mắt kinh hoàng với lòng bàn tay quay
hướng tới kẻ thù; trong khi bàn tay kia chống tựa trên mặt đất để chống đỡ thân
thể gắng gượng dậy. Hãy miêu tả những kẻ khác đang thét lớn với miệng mở lớn,
và đang chạy đi. Hãy đặt mọi loại khí giới giữa bàn chân của những chiến sĩ,
như khiên vỡ, giáo, gươm gẫy, cùng những vật thể khác. Hãy cho người chết bị bụi
phủ lên một phần hoặc hoàn toàn, và trộn lẫn với máu me rỉ ra và biến thành bùn
đỏ thắm, và cho máu được nhìn thấy bằng màu sắc chảy tuôn thành một dòng ngoằn
ngoèo từ thi thể vào bụi đất. Những người khác khắc khoải hấp hối đang nghiến
răng, đảo mắt, nắm chặt tay lại chống đỡ thân thể, và cẳng chân bị biến dạng. Có
thể cho thấy một số người bị tước khí giới và bị kẻ thù đánh đập đang hướng lên
kẻ cừu địch, dùng răng và móng tay muốn một sự báo thù tàn bạo và thảm thiết.
Bạn có thể nhìn thấy một con ngựa mất chủ đang chạy với bờm trong gió phất phơ
và móng guốc của nó làm cho kẻ thù kinh hoàng. Bạn có thể thấy một chiến binh nào
đó bị trọng thương ngã xuống đất, đang dùng khiên che mình, còn kẻ thù thì đang
cúi xuống và rán sức giáng cú trí mạng. Ở đó cũng có thể thấy nhiều người ngã
xuống chồng chất lên một con ngựa đã chết. Bạn sẽ thấy một số kẻ chiến thắng đang
rời bỏ trận đánh và rút khỏi đám đông, và hai bàn tay đang lau mắt và đôi má
lấm lem do bụi làm nhức mắt họ.
Bạn sẽ thấy những đội kị binh dự bị đang
đứng tràn trề hi vọng và cặp lông mày nhướng lên theo dõi, lấy tay che mắt theo
dõi trong lớp sương mù dày đặc và xáo trộn, sẵn sàng đợi lệnh của vị chỉ huy;
còn vị chỉ huy cũng vậy, giương cao quyền trượng, hối thúc nhóm dự bị, chỉ đạo
cho họ hướng tới nơi người ta đang cần họ. Và cho thấy một dòng sông nơi đó đàn
ngựa đang phi nước đại làm khuấy nước xung quanh với những con sóng cuồn cuộn,
bọt, và nước tung toé lên không trung và lên chân và thân mình của lũ ngựa. Và
bạn cũng xem xét bức tranh bạn vẽ, không địa điểm đất bằng nào mà không bị dẫm
đạp lẫn với máu.
Cách miêu tả cảnh Đêm
Khi
ánh sáng bị mất hoàn toàn thì tất cả tối tăm; vì đó là điều kiện của bóng đêm,
nếu bạn muốn miêu tả một cảnh trong đó, hãy bố trí để đem vào một ngọn lửa lớn.
Vậy thì vật nào gần ngọn lửa này nhất sẽ nhuốm màu lửa nhiều nhất. Vì bất cứ gì
gần nhất với nguyên tố này đều mang tính chất của nó nhiều nhất; và khi làm cho
ngọn lửa màu đỏ bạn phải làm cho mọi vật được chiếu bằng sắc điệu đỏ hồng;
trong khi những vật thể xa ngọn lửa hơn thì nhuốm sắc đen của bóng đêm. Những
nhân vật in trên nền ngọn lửa trông có vẻ tối sẫm trong ánh chói loà của ánh
lửa bởi vì bộ phận của vật thể mà bạn thấy bị nhuốm do bóng tối của đêm, chứ
không do lửa; những người đứng cạnh nhau sẽ nửa tối và nửa trong ánh đỏ hồng;
trong khi những người có thể thấy được bên kia những đường biên của ngọn lửa thì
tất cả được chiếu sáng bằng ánh đỏ bừng trên nền đen. Còn về động tác của họ, hãy
cho những người gần lửa lấy bàn tay và áo khoác che như chống lại sức nóng dữ
dội, cùng những gương mặt quay đi như thể sắp rời bỏ. Còn những người xa hơn
nữa, miêu tả đa số bàn tay giơ lên che mắt bị loá do ánh sáng quá chói.
Hãy
miêu tả cơn gió trên đất liền và trên biển.
Hãy
miêu tả một cơn mưa bão.
Cách miêu tả bão tố
Nếu
bạn muốn miêu tả bão tố, hãy xem xét và bài trí những hiệu quả của nó khi gió
đang thổi qua bề mặt biển cả và đất liền, nó nhấc lên và đem theo mọi thứ không
bám cố định nói chung. Và để miêu tả cơn giông bão này, trước tiên bạn phải cho
thấy những đám mây tan tác bay theo gió, cùng với bão cát thổi lên từ bờ biển,
cành và lá cây bị cuốn theo bởi sức mạnh và cuồng nộ của cơn gió mạnh và gieo
rắc những vật thể nhẹ khắp không trung. Cây cối và thảo mộc bị cong rạp xuống
đất, y như thể chúng tuân theo luồng của gió, cành vặn vẹo khỏi sự sinh trưởng
tự nhiên, lá thì lắc lư và lộn ngược. Còn những người đang ở đó, một số ngã
xuống và nằm cuộn với y phục, còn những người đang đứng sẽ ở đằng sau môt số
cây với cánh tay ôm vòng quanh để gió không thể kéo họ ra khỏi; còn những người
khác nên cho thấy họ đang cúi mình, bàn tay của họ đang che lên mắt bởi vì bụi,
quần áo của họ và tóc phất phới theo gió. Hãy miêu tả biển dữ dội và bão táp,
đầy bọt trắng xoáy cuộn giữa những đợt sóng lớn, và gió mang theo một lớp bụi
nước qua không trung bão tố tương tự một lớp sương mù dày đặc bao phủ tất cả.
Còn những chiếc tàu ở đó, một số nên cho thấy những cánh buồm bị rách và mảnh
rách bay phần phật trong khí quyển cùng với những sợi dây thừng đứt và một số
cột buồm bị chẻ đôi và đổ xuống, còn con tàu tự nó nằm bất lực và bị vỡ do
những đợt sóng dữ, với những kẻ kêu thét và bám chặt vào những mảnh vỡ của con
tàu đắm. Hãy cho những đám mây bị những cơn gió dữ dội xua đi, và nhào vào
những chỏm núi cao, và từ đó cuồn cuộn và xoáy như những con sóng đánh vào
những tảng đá; ngay cả không trung cũng nên tạo nỗi kinh sợ bằng bóng tối dầy
đặc gây ra do bụi, sương mù và những đám mây trĩu nặng.
MIÊU TẢ TRẬN HỒNG
THUỶ
Chủ đề nằm bên
dưới là sự bất lực của con người khi đối mặt với luật tàn nhẫn của thiên nhiên.
Leonardo lấy cảm hứng từ việc nghiên cứu của ông về sự vận động của nước trong
những sơn cốc, về thuỷ lưu, và khi ở bên bờ biển để viết một tường thuật liên
tục bao gồm những cảnh sắc khác nhau, được miêu tả sống động, hết việc này đến
việc khác theo quan hệ nhân quả. Khi một dòng cuồng lưu trỗi lên từ một nguồn
nhỏ, như thế gần như một tai biến nhỏ ở cạnh dốc núi dần dần dẫn tới một thảm
hoạ lớn, bởi đó toàn thể phong cảnh cuối cùng bị nhấn chìm. Có thể ông đã muốn
cho thấy sự huỷ diệt thế giới ra sao, đã dự ngôn trong sách Khải thị
(Apocalypse), và được tin là sắp xảy đến, và có thể là đã kết liễu.
Thủ cảo nguyên bản được minh hoạ bằng những
bức vẽ ở bên lề về những đợt sóng, thuỷ triều, thác nước, v.v... để làm rõ ràng
hơn về sự vận động.
Đầu
tiên, cần miêu tả đỉnh của một quả núi lởm chởm với những thung lũng bao quanh chân núi,
và ở các sườn của nó, cho thấy bề mặt của đất bị sụt lở cùng với rễ và đám cây
bụi và một bộ phận lớn những nham thạch bao quanh bị trơ trụi. Sự tàn phá theo dốc
xuống từ những vách đứng này, hãy cho nó đi theo dòng chảy xô tới, trơ ra đám
rễ xoắn và xù xì từ những cây lớn bị lật nhào và hư hại nghiêm trọng; và cho
những quả núi khi đã trở nên trơ trụi để lộ ra những kẽ nứt sâu do những cơn
địa chấn cổ đại còn lưu giữ; và cho một bộ phận lớn chân núi được bao phủ và
bọc với tàn tích của những bụi cây vốn đổ xuống từ những sườn núi cao chót vót;
và cho những thứ này hỗn hợp với bùn, rễ, cành cây cùng các loại lá khác nhau
dồn lại trong bùn, đất và đá. Và cho các mảnh vỡ của núi lăn sâu xuống thung lũng
và ở đó tạo nên bờ ụ bên những dòng nước sông cuồn cuộn; và những bờ sông đã bị
vỡ tung cuốn trôi theo những đợt sóng cực kì lớn, chúng tấn công và tàn phá tường
thành của các thành phố và các nông trại nơi thung lũng. Và hãy miêu tả những
tàn tích dinh thự cao của những thành phố này tốc lên một cơn bụi lớn có dạng như
khói hoặc những đám mây quấn quanh tương phản với cơn mưa đang trút xuống. Và
khi khối lượng lớn tàn tích lăn xuống từ những quả núi cao hoặc những dinh thự
lớn lao xuống những mặt nước của những hồ lớn, thì một lượng nước lớn dội lại
vào không trung theo hướng ngược lại; tức là góc của phản xạ sẽ bằng với góc
tới. Còn những vật thể trôi theo những dòng nước, sẽ xuất hiện ở một cự li xa
hơn từ những bờ sông đối diện và chúng nặng hơn và to lớn hơn. Nhưng những dòng
nước cuồn cuộn sẽ lượn quanh hồ và lưu giữ chúng và đánh vào bằng những xoáy
nước dội vào những chướng ngại vật khác nhau, vọt lên không trung với bọt vấy
bùn; rồi rơi xuống trở lại khiến cho nước bị đánh lại lao vào không trung. Và
những đợt sóng cuộn tròn rút khỏi nơi chấn động bị đẩy qua dòng của những đợt
sóng khác đang cuộn tròn chuyển theo hướng ngược lại và sau khi đánh vào những
đợt sóng này chúng dâng lên trong không trung mà không bị tách khỏi phần đáy
của chúng.
Và ở đâu nước từ hồ tuôn ra thì những đợt
sóng bị xúc tác lan tới chỗ thoát ra; từ đó nước đổ xuống hoặc hạ xuống qua
không trung hấp thu trọng lượng và động lực và khi khi đánh vào nước ở bên dưới,
nó xâm nhập, xé toang ra và cuồng nộ xô xuống để vươn tới độ sâu; và không
trung này vẫn đầy bọt lẫn với những khúc gỗ và những vật thể khác nhẹ hơn nước;
và xung quanh những thứ này bắt đầu tạo ra khởi đầu những đợt sóng với chu vi
càng gia tăng khi có đà hơn; và sự vận động này khiến cho chúng xuống thấp hơn
tỉ lệ với phần chân đáy rộng hơn của chúng; và vì thế thấy ít rõ rệt khi chúng
dịu đi. Nhưng nếu những đợt sóng dội lại vào những vật thể khác nhau, vậy thì
chúng vọt lùi trở lại đánh vào những đợt sóng khác đang tới gần tuân theo cùng
quy luật phát triển theo độ cong trong khi chúng đã cho thấy sự vận động nguyên
thuỷ của chúng. Cơn mưa khi rơi xuống từ những đám mây có cùng màu sắc như
những đám mây bị rợp bóng, trừ khi những tia mặt trời chiếu vào đó, trong
trường hợp ấy, mưa sẽ có vẻ ít sẫm hơn mây. Và nếu trọng lượng lớn tàn tích từ
những quả núi khổng lồ hoặc những toà nhà lớn khi giáng xuống sẽ gây nên những
vũng nước lớn, tiếp theo một lượng nước lớn sẽ dội lại không trung và dòng của
nó sẽ sẽ ở hướng ngược lại với vật chất đánh xuống nước; tức là góc phản xạ sẽ
bằng với góc tới. Còn những vật thể trôi theo dòng và chúng nặng hơn hoặc to
lớn, sẽ giữ một khoảng cách xa hơn từ hai bờ sông đối diện. Trong những vùng
xoáy, nước quay tròn nhanh hơn khi tới gần trung tâm hơn. Ngọn sóng biển đổ tới
phía trước rơi xuống chân sóng khi đánh lên với các bong bóng ma sát tạo trên
bề mặt của chúng. Và do sự ma sát này, nước rơi xuống làm thành những hạt li ti,
biến thành lớp bụi mù rồi lẫn vào với gió mạnh như luồng khói cuồn cuộn và
những đám mây ngoằn ngoèo và cuối cùng bốc lên vào trong không khí, bị vùi dập
và chao đảo do những luồng gió thưa hoặc dày tuỳ theo độ thưa hoặc mật độ của
những con gió này, và như vậy có sự phát sinh trong khí quyển một sự tràn ngập
những đám mây trong suốt vốn hình thành do cơn mưa nói trên và được thấy qua
những tuyến làm bằng mưa rơi gần với con mắt của người nhìn.
Những đợt sóng biển vỡ tung trên sườn núi
dồn lại, nổi bọt từ tốc độ chúng đánh lên những ngọn đồi và lần lượt gặp đợt
sóng kế tiếp bắt đầu và sau tiếng ầm ầm vang dội thì quay về thành một đợt cơn
lũ lớn ra biển là nơi chúng tới.
Hãy cho một đám đông cư dân, người và động
vật đủ mọi loại, cho thấy họ bị xua đi bởi trận hồng thuỷ đang dâng lên hướng
tới những đỉnh núi bao quanh những dòng nước này.
Về trận Hồng thuỷ và miêu tả về nó trong tranh
Hãy
cho không trung tối sẫm và u ám bị vùi dập bởi những trận cuồng phong trái
chiều và dày đặc từ cơn mưa liên tục trộn lẫn với mưa đá và đây đó có vô số cành
cây bị gẫy lìa và lẫn vào với vô vàn lá cây. Tất cả xung quanh hãy cho thấy
những cây cổ thụ bị bật rễ và bị tước lột do cuồng nộ của gió; hãy cho thấy
những mảng núi lở bị xói trơ trụi bởi những dòng cuồng lưu và làm tắc nghẽn
những thung lũng; cho tới khi những dòng sông cuồn cuộn ngập lụt và nhận chìm
những vùng đất rộng cùng với cư dân. Cũng vậy, bạn có thể thấy trên nhiều đỉnh
núi, nhiều loại động vật khác nhau túm tụm lại, chịu khuất phục và trở nên thuần
tính cùng ở với những người đàn ông đàn bà, họ chạy trốn tới đó cùng với con
cái. Còn những dòng nước bao phủ đồng ruộng bằng những đợt sóng, phần lớn làm vương
vãi giường tủ bàn ghế, ghe thuyền và các loại dụng cụ khác chế ra cấp thiết để
cứu sinh mạng, và trên đó những người đàn bà, đàn ông cùng con cái họ kêu than,
và thét lên kinh hoàng do cuồng phong khiến những dòng nước chảy cuồn cuộn trong
cơn bão lốc, mang theo chúng những tử thi chết đuối; hầu như không có vật thể
nào nhẹ hơn nước mà không bị các loài động vật khác nhau tìm chỗ núp, chúng
đứng tụm lại với nhau đầy sợ hãi, trong đó có sói, chồn cáo, rắn, và các loài
khác đang trốn tránh cái chết. Và mọi đợt sóng đánh vào bên cạnh chúng đều
giáng xuống bằng những cú va đập từ những thi thể chết đuối, những va đập ấy giết
chết những ai còn sống sót.
Bạn có thể nhìn thấy những nhóm người với
vũ khí trong tay đang bảo vệ những địa điểm nhỏ còn lại trước lũ sư tử, sói, và
dã thú săn mồi đang tìm chỗ an toàn. Ôi chao! Những tiếng thét thật kinh hoàng trong
không trung tăm tối bị xé toạc bởi sấm sét cuồng nộ loé lên xuyên thủng những
đám mây mang theo sự huỷ hoại và giáng xuống tất cả kẻ nào còn cầm cự! Ôi chao,
bạn có thể thấy nhiều người dùng tay bịt tai lại để không nghe thấy những âm
thanh khủng khiếp trong không trung tối đen bởi sự cuồng nộ của gió lẫn vào với
mưa, tiếng sấm từ trời, và những tiếng sét thịnh nộ! Những người khác, không
muốn nhắm mắt, họ đặt tay lên mắt, tay này áp lên tay kia che mắt để cầm chắc không
nhìn thấy cuộc tàn sát nhẫn tâm đối với loài người do cơn thịnh nộ của Thượng
đế... Ôi chao, biết bao tiếng ai oán! Biết bao nỗi kinh hoàng khi buông mình
vào những tảng đá! Những cành cây to lớn từ những cây sồi đồ sộ chất đầy những người
đung đưa trong không trung bị cơn cuồng nộ dữ dội của gió. Biết bao thuyền bè
bị lật úp, một số bị toàn bộ, những cái khác bị vỡ tan thành từng mảnh với người
ta trên đó rán sức thoát khỏi bằng những cử chỉ và động tác đau đớn báo trước
một cái chết kinh hoàng! Những người khác có những cử chỉ tuyệt vọng đang tự
kết liễu đời mình, họ vô vọng vì không thể chịu đựng được sự khắc khoải như
vậy; một số những người này lao xuống từ nham thạch chót vót, những người khác
đang dùng tay tự siết cổ; những kẻ khác túm lấy con cái và giết chúng một cách
hung bạo bằng chỉ một nhát; một số tự đả thương hoặc tự sát bằng các loại vũ
khí; những kẻ khác quỳ sụp xuống tự phó mình cho Thượng đế. Chao ôi! Biết bao
người mẹ đang nức nở trên xác những đứa con bị chết đuối và vực con mình trên
đầu gối, hai cánh tay dang ra và giơ lên lên trời cao, và với những tiếng kêu
khóc và thét lên thoá mạ cơn thịnh nộ của những thần linh! Những kẻ khác với
tay nắm chặt và ngón tay siết lại day dứt, ngấu nghiến chúng thành những vết
cắn tuôn máu, họ co quắp với ngực sát vào với đầu gối trong sự vật vã dữ dội
không kham nổi.
Những bầy động vật, như ngựa, bò, dê, và
cừu, cũng đã bị những dòng nước bao bọc và bị bỏ rơi cô lập trên những đỉnh núi
cao, chúng tụm lại với nhau, những con vật ở giữa đang trèo lên đỉnh, dẫm đạp
lên những con khác, và chúng đánh nhau kịch liệt; nhiều con đang hấp hối vì
thiếu ăn.
Và các loài chim cũng đã bắt đầu đậu trên
con người và trên những động vật khác vì chúng không còn tìm ra bất cứ mảnh đất
nào còn lại không bị nhận chìm mà không bị những sinh vật khác chiếm cứ; bởi vì
cái đói là sứ giả của tử thần đã lấy đi phần lớn sinh mạng của động vật và rồi
những thi thể trương lên, từ đáy nước sâu bắt đầu nổi lên mặt nước giữa những
đợt sóng vùi dập; và chúng đánh vào nhau; như những quả bóng được gió thồi
phồng lên, dội lại từ vị trí nơi chúng đánh vào, đè lên những thi thể khác.
Và ở bên trên những cảnh phán xét này, thiên
không mây đen che phủ bị xé toạc bởi những luồng chớp thịnh nộ của thiên đình,
ánh chớp loé lên đây đó, bóng tối mênh mang.
Giữa
những luồng gió xoáy là vô số những bầy chim đang đến từ những vùng đất xa xôi,
và những bầy chim này xuất hiện hầu như không thể phân biệt, vì trong những vận
động quay tròn của chúng, có lúc, cả bầy chim trong một đàn ở sát bên cạnh, cho
thấy phía hẹp nhất, và có lúc lại cho thấy tầm rộng cực kì ở chính diện; và
thoạt đầu xuất hiện, chúng có hình dạng như một đám mây không thể nhận dạng, và
tiếp theo là nhóm thứ hai và thứ ba trở nên rõ rệt hơn khi chúng tới gần mắt
người xem.
Lũ
chim gần nhất trong những đoàn chim đang hạ xuống bằng một vận động nghiêng, và
đậu trên những thi thể, đang bập bềnh theo những đợt sóng của trận hồng thuỷ,
rồi rỉa rói; chúng làm việc này cho tới khi sức nặng của chúng làm những thi
thể trương phình bị phân huỷ, lại dần chìm xuống đáy nước.
.
Những phân đoạn
Bóng
tối, cuồng phong, bão biển, ngập lụt, rừng cháy, mưa, chớp từ trời, động đất,
và núi băng lở, những thành phố san thành bình địa.
Gió lốc mang theo nước và cành cây cùng
con người qua không trung. Cành cây, có người trên đó, bị kéo giật đi bởi những
trận cuồng phong xô xát nhau.
Cây cối gẫy đổ chất nặng người.
Tàu bè lao vào những tảng đá bị vỡ nát.
Những bầy cừu.
Mưa đá, sấm chớp, gió lốc.
Người trên cây cối không thể chống đỡ cho
họ được, cây, đá, tháp, và đồi chật ních người, thuyền, bàn, máng xối và những
dụng cụ để thả nổi khác,—những quả đồi ngập đàn ông, đàn bà và động vật, với
loé chớp từ mây bật sáng quang cảnh.
II.
SO
SÁNH CÁC MÔN NGHỆ THUẬT
1. Hội hoạ, âm
nhạc, và thơ ca
Tài năng thực hành
nhiều môn nghệ thuật của Leonardo đã dẫn ông tới viêc so sánh những điểm dị
đồng của chúng, và khả năng này đào sâu nhận thức về những phẩm chất ưu việt
trong lãnh vực hội hoạ. Ông thách thức sự phân loại theo truyền thống kinh viện
về tri thức con người căn cứ vào đó bảy môn Nghệ thuật Tự do thể hiện hình thức
tối cao thành quả con người. Thơ và Âm nhạc đều bao gồm trong các môn này; thế nhưng
Hội hoạ bị hạ tầng cùng với “Nghệ thuật của Cơ giới” hoặc các nghể thủ công vốn
bao gồm lao động tay chân đủ các loại và bị coi là thấp kém.
Thơ tương tự âm nhạc, trong đó những âm
tiết của ngôn từ tương đương với những nốt nhạc. Cả thi cú lẫn thanh âm đều
diễn tiến qua thời gian theo sự hình thành tiết nhịp. Mặt khác, người hoạ sĩ
không tự thể hiện bằng những lữ luật tiết điệu của thời gian nhưng y có thể
truyền tiết điệu vào trong những đường nét của hình thể. Plutarch từng so sánh
những đường nét với sự vận động tiết điệu: “Vũ đạo tương tự với những đường nét
xác định hình thể—Vũ đạo giống thơ vô ngôn, trong khi thơ giống vũ đạo của ngôn
từ”.
Tuy nhiên, tiết điệu được coi là thứ yếu.
Chính sự kết hợp hài hoà, sự biến hoá của cao độ (pitch), dường như quan trọng
hơn cả đối với Leonardo. Nghệ thuật của hoạ sĩ tương tự với nghệ thuật của nhạc
sĩ trong đó những tỉ lệ cân đối tương đương với những biến thiên của cao độ
trong âm điệu. Những tỉ lệ cân đối ưu mĩ trong âm nhạc tương tự một hợp âm với
những nốt khác nhau ngân lên đồng thời. Những hoà âm đồng thời này cho con
người khoái cảm mãnh liệt. Ở đây, nghệ thuật thơ bị khiếm khuyết, vì nó không
thể đồng thời vang lên mỗi lần hơn một nốt. Theo những cứu xét này thì hoà âm
và tiết tấu vượt qua những giới hạn của một nghệ thuật. Chúng đáp ứng lại cảm
xúc với cái đẹp trong chính hữu thể của chúng ta và tự phơi mở dưới nhiều lốt
khác nhau tuỳ theo điều kiện của mỗi môn nghệ thuật. “Bạn có biết rằng linh hồn
chúng ta được soạn bằng sự hoà âm”.
Hoạ
sĩ là chúa tể của tất cả mọi loại người và vạn vật.[5]
Nếu hoạ sĩ muốn cho nhìn thấy những vẻ đẹp mê hồn, thì việc này nằm trong quyền
năng của y sáng tạo nên, còn nếu y muốn nhìn thấy những vật quái dị thật ghê
sợ, hài hước hoặc lố lăng, hoặc đáng thương, y có thể là chúa tể và là vị thần
của những thứ đó; nếu y muốn sản sinh ra những vùng đất có người hoặc sa mạc
hoặc những nơi tối tăm và rợp bóng để tránh cái nóng, hoặc những nơi ấm áp
trong thời tiết lạnh lẽo, y có thể làm được. Nếu y muốn những thung lũng, và từ
những ngọn núi cao mở ra một đại bình nguyên trải xuống tận chân trời ngoài
biển, y là chúa tể có thể thực hiện được; cũng thế, nếu từ những bình nguyên
thấp y muốn nhìn thấy những quả núi cao... Thực sự, bất kể những gì tồn tại
trong vũ trụ, trong bản chất, trong ngoại hình, trong trí tưởng tượng, người
hoạ sĩ trước tiên nảy ra trong đầu óc và sau đó dùng bàn tay biểu hiện; và
những khả năng vượt trội này, chúng có thể thể hiện một cái nhìn cân đối và hài
hoà về cái toàn thể, điều này có thể thấy đồng thời, thoáng nhìn, hệt như vạn
vật trong tự nhiên.
Ai
khinh miệt hội hoạ thì cũng không yêu triết học và tự nhiên. Nếu bạn khinh miệt
hội hoạ vốn là kẻ mô phỏng duy nhất mọi tác phẩm hữu hình của tự nhiên, tất bạn
sẽ khinh miệt một phát minh tinh tế vốn đem lại triết học và sự khảo sát tinh
tế liên quan tới tính chất của tất cả hình thái—biển và lục địa, thực vật và
động vật, hoa cỏ, vốn bao bọc trong bóng tối và ánh sáng. Hội hoạ đích thực là
một khoa học, là đứa con nòi của tự nhiên, vì hội hoạ sinh ra từ tự nhiên, hay
đúng hơn ta có thể gọi nó là cháu của tự nhiên; bởi vì mọi vật hữu hình đều do
tự nhiên sinh ra và lũ con này của tự nhiên đã đẻ ra hội hoạ. Vì thế chúng ta
có thể nói một cách chính đáng rằng hội hoạ là cháu nội của tự nhiên và tương
thân với Thượng đế.[6]
Hội
hoạ không thể dạy cho những người thiếu tư chất, không như toán học, người thầy
dạy bao nhiêu học sinh tiếp thu chừng ấy. Hội hoạ không thể sao chép như những
con chữ mà bản sao có cùng giá trị như nguyên bản. Nó cũng không thể khuôn đúc
như trong điêu khắc với vật đúc ra có cùng chất lượng với nguyên bản; nó không
thể tái chế tạo một cách vô hạn như trong việc in ấn sách.
Hội hoạ vẫn giữ tính cao quý vô song của
nó; riêng nó đem danh dự cho tác giả của nó, và duy trì tính độc đáo và quý
giá; nó chẳng bao giờ đẻ ra dòng dõi nào sánh bằng với nó; và tính đơn độc này
khiến nó vượt trội lên những khoa học được công bố khắp nơi. Chúng ta không
thấy hay sao, những hoàng đế phương Đông ngự hành khi che mặt và phủ kín bởi vì
họ nghĩ rằng thanh danh họ có thể bị giảm sút khi phô bày bản thân ra công cộng
và dung nhan của họ bị lộ ra. Chúng ta không thấy hay sao, những bức tranh miêu
tả Thượng đế thường xuyên được che đậy dưới những lớp vải vóc đắt giá và trước
khi chúng được mở ra trong những nghi lễ trọng đại của giới tu sĩ cử hành cùng
với ca xướng theo những nhạc điệu của nhạc khí; và vào khoảnh khắc phơi mở hình
tượng thì những đám đông lớn quần tụ ở đó và phủ phục xuống mặt đất để thờ
phụng và khẩn cầu tới Ngài và hình ảnh của Ngài được hiện thân để phục hồi sức
khoẻ và cho họ sự cứu rỗi vĩnh hằng, như thể Thượng đế đích thân có mặt. Những
thứ tương tự không xảy ra với bất kì tác phẩm nào khác của con người; và nếu
bạn khẳng định rằng nó không bởi vì công trạng của ngưởi hoạ sĩ mà chẳng qua là
chủ đề miêu tả, thì ta có thể trả lời, nếu đúng như vậy, thì con người có thể
cứ bình tĩnh ở trên giường để cho trí tưởng tượng của họ được thoả mãn, thay vì
đi tới những nơi mệt nhọc và hiểm nghèo như chúng ta thấy họ thực hiện không
ngừng trong những cuộc hành hương. Vậy điều gì thúc đẩy những con người này tiếp
tục hành hương? Chắc chắn bạn sẽ đồng ý rằng hình ảnh của Thượng đế là nguyên
nhân và không có khối lượng viết lách nào có thể sản sinh ra một hình ảnh sánh
bằng vừa về hình thức vừa về sức mạnh. Vì thế, gần như Thượng đế yêu một bức
hoạ và yêu những người tôn thờ và sùng kính nó và ngài hoan hỉ được thờ phụng
theo cách này hơn dưới một hình thức khác của sự mô phỏng; và ban ân điển và
giải thoát qua nó tuỳ theo niềm tin của những kẻ tập hợp ở những địa điểm như
thế.
Âm
nhạc có thể gọi là em gái của hội hoạ, vì âm nhạc phụ thuộc vào thính giác, cảm
quan thứ hai,[7] và
hoà âm được cấu thành bằng sự kết hợp những phần cân xứng vang lên đồng thời,
bổng và trầm bằng những tiết điệu hài hoà. Những tiết điệu này có thể nói là
viền quanh tính cân đối của những phần hợp thành sự hoà âm, hệt như đường nét
bao quanh những thành phần tạo nên vẻ đẹp của nhân thể.
Nhưng hội hoạ vượt trội và cao hơn âm
nhạc, vì nó không lịm tắt khi vừa sinh ra, như số phận bất hạnh của âm nhạc.
Trái lại, nó trường tồn và có tất cả ngoại dạng của sinh khí, tuy thực ra nó bị
hạn chế trên một bề mặt. Ồ, môn khoa học diệu kì có thể bảo tồn vẻ đẹp nhất
thời của người phàm và phú cho nó một sự thường hằng cao cả hơn những công
trình tự nhiên; vì những thứ này lệ thuộc vào sự thay đổi liên tục của thời
gian dẫn tới sự già cả không thể tránh được! Và một khoa học như thế trong cùng
mối tương quan với thiên nhiên thần thánh khi những tác phẩm của nó là những
tác phẩm của thiên nhiên, và vì thế nó được tôn sùng.
Nhạc
sĩ tự cho nghệ thuật của y sánh bằng với nghệ thuật của người hoạ sĩ, vì nó
cũng là một chỉnh thể cấu thành từ nhiều phần—những vẻ hoa mĩ được người quan
sát thưởng ngoạn như trong nhiều tiết điệu hoà âm, và với những tiết điệu này
vốn sinh ra và chết đi, nó làm hân hoan tâm hồn của con người. Nhưng người hoạ
sĩ trả lời và nói rằng nhân thể được kết hợp từ nhiều thành phần không ban
khoái cảm thông qua những tiết điệu hài hoà trong đó vẻ đẹp phải biến thiên và
tạo ra những hình thức mới, nó cũng không cấu thành bằng những tiết điệu vốn
không ngừng đòi được sinh ra và chết đi, mà người hoạ sĩ làm cho nó trường tồn
qua nhiều năm và sự đặc sắc ấy hài hoà do tỉ lệ sống động mà thiên nhiên với
tất cả sức mạnh của nó không thể nào giữ nổi. Biết bao bức tranh đã bảo tồn
hình ảnh về vẻ đẹp thiêng liêng mà thời gian hoặc cái chết bất kì đã phá huỷ
nguyên tác của Tự nhiên; vì thế tác phẩm của người hoạ sĩ đã tồn tại trong hình
thức cao cả hơn hình thức của Tự nhiên là ngườ tình của y.
Những trống định
âm được chơi như độc huyền cầm, hoặc sáo nhẹ.
Âm
nhạc có hai khuyết điểm, một là tính tử vong (mortal) và hai là tính tiêu hao (wasting). Tính tử vong luôn gắn liền với khoảnh khắc sau khi nó
phát ra thanh âm; tính tiêu hao nằm trong sự lập lại khiến cho nó bị nhàm chán
và hạ thấp.
Có
sự dị biệt trong việc biểu hiện về nhân thể đối với nhà thơ và hoạ sĩ, cũng như
có sự dị biệt giữa những thân thể bị phân li và thân thể hợp nhất. Bởi vì nhà
thơ khi miêu tả vẻ đẹp hay xấu của bất kì nhân vật nào chỉ có thể cho bạn thấy
tuần tự, từng chút một, trong khi hoạ sĩ phô bày đồng thời tất cả... Và phương
cách của nhà thơ có thể sánh với phương cách của nhạc sĩ đơn độc đảm đương bản
nhạc viết cho bốn giọng với trước tiên là giọng nữ cao, tiếp theo là giọng nam
cao, rồi giọng nữ trầm, và cuối cùng là giọng nam trầm. Những cuộc trình diễn
như thế không thể sản sinh ra vẻ đẹp có tỉ lệ hài hoà trong những phân bố của thời
gian... Cũng vậy, âm nhạc khi phổ những giai điệu ngọt ngào theo những phân bố
tiết tấu của thời gian, kết hợp chúng bằng những giọng khác nhau. Còn nhà thơ thì
bị ngăn khỏi sự tách bạch về hoà âm của các giọng, y không có khả năng đưa ra
một sự tương đương với hoà âm trong âm nhạc, bởi vì nó vượt ngoài năng lực của
y khi lên tiếng về những sự vật khác nhau cùng lúc như người hoạ sĩ thực hiện
trong những tỉ lệ hài hoà trong đó những phần hợp thành được tạo ra đồng thời tương
tác và có thể thấy vừa phối hợp và vừa đồng thời vừa riêng biệt... Vì những lí do này, nhà thơ được liệt ở dưới
hoạ sĩ trong việc thể hiện những vật hữu hình, và thua cả nhạc sĩ trong việc
thể hiện vật vô hình.
Nếu
nhà thơ biết cách miêu tả và viết xuống những ngoại hình của hình thể, thì
người hoạ sĩ có thể làm ra chúng tới mức xuất hiện sống động khi tạo nên những
biểu hiện của những gương mặt cùng với sáng và bóng. Ở đây, nhà thơ không thể
đạt được bằng ngòi bút những gì hoạ sĩ đạt được bằng cây cọ.
Và
nếu nhà thơ lĩnh ngộ bằng tai, thì hoạ sĩ lĩnh ngộ bằng mắt—là giác quan cao
quý hơn; nhưng tôi sẽ không đòi hỏi gì hơn là một hoạ sĩ giỏi nên thể hiện tính
kịch liệt của một trận chiến so với một nhà thơ miêu tả một trận chiến, và cả
hai trận chiến này được đặt trước công chúng; bạn sẽ thấy ngay cái nào có sức
thu hút lớn nhất đối với khán giả, và cái nào gây thảo luận nhất, điểm nào đáng
ca ngợi hơn và cài nào thoả mãn hơn. Không hồ nghi, bức tranh sẽ dễ hiểu hơn
nhiều và vẻ đẹp sẽ làm hài lòng hơn. Hãy khắc tên của Thượng đế và đặt hình ảnh
của Ngài đối diện, và bạn sẽ thấy cái nào đáng tôn sùng hơn. Hội hoạ bao hàm
trong nó tất cả những hình thái của tự nhiên, trong khi bạn không có gì ngoại
trừ danh xưng của chúng vốn không phổ quát như hình thái. Nếu các bạn có những hiệu
quả về biểu hiện thì chúng tôi có những biểu hiện về hiệu quả. Hãy lấy trường
hợp của một nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của một cô nương cho người tình của nàng và
một hoạ sĩ miêu tả nàng; và các bạn sẽ thấy tư chất nào sẽ mà vị phán quan ngả
về bên nào hơn. Rõ rệt bằng chứng về sự việc của chuyện này tự nhiên sẽ định
vào phán quyết của kinh nghiệm.
Những người đặt hội hoạ vào trong số
những môn nghệ thuật cơ giới. Thực ra, những hoạ sĩ cũng sẵn sàng như các người
khi ca tụng tác phẩm họ bằng văn tự, tôi không chắc chúng ta có chịu đựng được
sự sỉ nhục với một danh xưng thấp hèn đến thế không. Nếu các người gọi hội hoạ
là có tính cơ giới bởi nó là tác phẩm làm bằng tay và bàn tay thiết kế những gì
nằm trong trí tưởng tượng, còn những văn sĩ của các người chép xuống với cây
viết bằng công việc bàn tay phát xuất trong đầu óc của các người. Còn nếu các
người gọi nó có tính cơ giới bởi vì nó được thực hiện vì đồng tiền, còn ai rơi
vào sai lầm này—nếu có thể gọi là sai lầm—hơn bản thân các người? Nếu giảng
dạy, các người không tìm tới những ai trả thật hậu hĩnh hay sao? Có việc chi
các người làm mà không có thù lao? Tuy thế, tôi không nêu việc này ra để trách,
vì mọi việc lao động đều mong được phần thưởng.Và nếu một nhà thơ nói rằng tôi
sẽ viết một câu chuyện để biểu thị cho những việc lớn lao, thì hoạ sĩ có thể
cũng làm như vậy, vì ngay cả Apelles cũng có thể vẽ bức "Vu khống”. Nếu
bạn nói rằng thơ ca trường cửu hơn, thì tôi cũng nói rằng những tác phẩm của
một thợ đồ đồng trường cửu hơn nữa, vì thời gian bảo tồn chúng lâu hơn cả những
tác phẩm của bạn và chúng tôi; tuy thế, họ phơi bày ít trí tưởng tượng; và một
bức tranh có thể được tạo ra trường cửu hơn nếu được vẽ trên đồng có màu sắc
tráng men.
Chúng
ta bằng nghệ thuật mình có thể gọi là cháu nội của Thượng đế.
Nếu thơ ca bàn về triết học luân lí, thì
hội hoạ bàn về triết học tự nhiên. Nếu thơ ca miêu tả hoạt động của tinh thần,
thì hội hoạ xem xét hoạt động tinh thần như phản ánh trong những vận động [của
cơ thể]. Nếu thơ ca có thể làm kinh sợ con người bằng những hư cấu về địa ngục,
thì hội hoạ có thể làm như thế bằng việc đặt cùng những điều đó trước mắt. Giả
sử có sự tỉ thí giữa nhà thơ và hoạ sĩ khi thể hiện cái đẹp, nỗi kinh hoàng
hoặc một quái vật đê tiện, xấu xa, thì bất kể dùng phương pháp hay hình thức
miêu tả nào, người hoạ sĩ cũng sẽ làm thoả mãn hơn. Chúng ta không thấy hay sao
những bức tranh quá đỗi tương tự với vật thực đến nỗi chúng đánh lừa được cả
người và thú.
Hội hoạ vượt trội mọi tác phẩm khác của con người bằng
sự cấu tứ tinh tế
Con
mắt là cửa sổ của linh hồn, là phương tiện chủ yếu nhờ đó sự nhận thức có thể
giám thưởng trọn vẹn và phong phú nhất những tác phẩm vô hạn của thiên nhiên;
còn cái tai đứng thứ nhì, thụ đắc phẩm giá bằng việc nghe những điều mắt nhìn
thấy. Nếu bạn là nhà sử học hoặc nhà thơ, nhà toán học mà không tận mắt nhìn thấy
mọi điều, bạn có thể tường thuật về chúng bằng văn tự nhưng không được hoàn hảo.
Và nếu bạn, hỡi nhà thơ, kể chuyện bằng ngòi bút, thì hoạ sĩ bằng cây cọ có thể
kể dễ dàng hơn, với sự hoàn hảo đơn giản hơn, và ít tẻ nhạt. Nếu bạn gọi hội
hoạ là thơ câm, thì hoạ sĩ có thể gọi thơ ca là hoạ mù. Vậy hãy xem xét loại
nào khuyết tật nặng hơn, là mù hay câm? Mặc dù nhà thơ cũng được tự do như hoạ
sĩ khi sáng tác từ hư cấu, nhưng sáng tạo của y không đưa ra sự thoả mãn lớn
đối với con người như hội hoạ; vì tuy thơ ca cố gắng miêu tả những hình thái,
động tác, và nơi chốn bằng văn tự, còn hoạ sĩ áp dụng tính tương tự thực sự về
hình thể để tái hiện chúng. Vậy, hãy xét coi cái nào gần hơn với con người thực
sự, tên người đó, hay hình ảnh người đó? Tên người đó thay đổi cùng với sự thay
đổi từ xứ sở này sang xứ sở khác; còn hình dạng của người ấy thì không thay đổi
ngoại trừ bởi cái chết.
Nhân
dịp lễ chúc thọ Hoàng đế Mathias,[8]
một nhà thơ đem tới một bài thơ tán tụng sự kiện mà y nói rằng vì lợi ích của
thế giới; còn một hoạ sĩ tặng cho ngài bức chân dung người yêu dấu của ngài.
Hoàng đế vội gấp lại cuốn sách của nhà thơ và quay sang bức tranh rồi dán chặt
mắt lên đó với niềm thán phục biết bao. Khi ấy nhà thơ tức giận nói: “Thưa bệ
hạ, xin hãy đọc, chỉ có đọc, ngài sẽ thấy sự việc có ngụ ý thâm sâu hơn nhiều so
với một bức tranh câm”. Hoàng đế phẫn nộ đối với việc chỉ trích ngài đang hâm
mộ sự câm lặng, ngài nói: “Hãy câm tiếng, hỡi nhà thơ, ngươi không biết mình
đang nói gì; bức tranh này phục vụ cho một cảm quan cao cả hơn cả tác phẩm của
ngươi vốn có thể dành cho người mù. Hãy đưa cho trẫm những gì thấy được và chạm
vào chứ không chỉ nghe tới, và cũng đừng trách sự chọn lựa của trẫm khi đặt
cánh tay đè lên cuốn sách của ngươi và hai tay đưa bức tranh lên mắt để thưởng
thức; bởi vì đôi tay trẫm chọn những cái phù hợp với cái cảm quan cao quý hơn
chứ không chỉ là thính giác. Ý trẫm cho rằng nghệ thuật của người hoạ sĩ hơn xa
nghệ thuật của nhà thơ vì y phục vụ cho cảm quan cao quý hơn. Ngươi không biết
rằng linh hồn của chúng ta được kết hợp bằng hoà điệu và hoà điệu đó có thể tạo
ra khi những tỉ lệ của sự vật được thấy hoặc được nghe đồng thời hay sao? Vả
lại ngươi không thấy rằng trong nghệ thuật của ngươi không có sự đối ứng đồng
thời giữa các tỉ lệ, mà phần này tạo ra phần khác tiếp tục nhau, vì thế cái sau
còn chưa sinh, cái trước đã chết rồi. Do đó, theo ý trẫm, sự phát minh của
ngươi kém hơn nhiều so với phát minh của hoạ sĩ vì lí do duy nhất là không có
sự bố cục về tỉ lệ hài hoà. Nó không thoả mãn tinh thần của người nghe hoặc
người nhìn ngắm giống như những tỉ lệ về hình thể mĩ lệ tạo thành vẻ đẹp tuyệt
trần của gương mặt này đây trước mắt trẫm, chúng đều liên kết lại với nhau và
tương tác đồng thời khiến cho ta khoái cảm xiết bao bằng những tỉ lệ thiêng
liêng của chúng, làm ta nghĩ rằng không có tác phẩm nào khác của con người trên
trần gian có thể cho ta niềm vui thú lớn hơn.
1.
THỜI
GIAN VÀ KHÔNG GIAN
Tỉ lệ của vạn vật
Tỉ lệ không chỉ thấy trong số tự và đo
lường mà cũng còn trong âm thanh, trọng lượng, thời gian, không gian, và có thể
trong bất cứ năng lực nào.
Hãy miêu tả tính chất của thời gian được biện
biệt với những định nghĩa về hình học. Điểm không có phần nào; một tuyến là
chuyển tiếp của một điểm; những điểm là những biên giới của một tuyến.
Một khoảnh khắc không có thời gian. Thời gian được tạo bằng sự vận động
của khoảnh khắc, và những khoảnh khắc là những biên giới của thời gian.
Mặc dù thời gian được kể bằng những lượng
liên tục, thế nhưng, do tính vô hình và phi vật chất, nó không bị quy vào phạm
trù của Hình học vốn thể hiện những sự phân chia bằng hình và thể biến thiên vô
hạn, như thường xuyên thấy trong trường hợp những vật hữu hình và những vật có
chất thể; nhưng nó hài hoà những thứ này chỉ khi liên quan đến những nguyên lí
đệ nhất của nó, tức là điểm và tuyến. Điểm được xem trong hạn từ của thời gian
có thể sánh với khoảnh khắc, còn tuyến sánh với trường độ của lượng thời gian.
Và hệt như những điểm là khởi đầu và kết thúc của tuyến nói trên, vì thế những
khoảnh khắc hình thành điểm kết thúc và khởi đầu của bất cứ sự khoảng thời gian
nhất định nào. Và trong khi một tuyến thì có thể phân chia tới vô hạn, một
khoảng thời gian thì không khác với sự phân chia đến vô hạn như thế; và vì
những phân chia của tuyến có thể mang một tỉ lệ nhất định với nhau, vì thế có
thể là những phần của thời gian.
2.
ÂM
THANH VÀ KHÔNG GIAN
Tựa
như một viên đá ném xuống nước trở nên trung tâm và tạo nên nhiều vòng tròn, và
như âm thanh tự khuếch tán thành những vòng tròn trong không trung; vì thế bất
cứ vật thể nào, được đặt trong khí quyển toả sáng, tự nó khuếch tán thành những
vòng tròn, và làm đầy không trung bao quanh với vô hạn hình ảnh của chính nó.
Tôi
cho rằng âm thanh của tiếng vang được phản xạ tới tai sau khi nó đã dội vào,
giống như hình ảnh vật thể dội vào gương được phản chiếu vào trong mắt. Và khi
hình ảnh vật thể trút từ một vật thể đi vào gương và từ gương vào mắt với những
góc đều nhau, thì âm thanh dội và vang lại theo những góc đều nhau khi nó đi
tới từ sự chấn động đầu tiên trong không trung và để gặp tai.
Mọi
ấn tượng tiếp tục trong một thời gian nơi đối tượng nhạy cảm tiếp thu nó, và ấn
tượng nào có năng lượng lớn hơn sẽ tiếp tục trong kẻ tiếp thu một thời gian lâu
hơn, còn năng lực ít hơn thì trong một thời gian ngắn hơn...
Ấn tượng nhậy cảm là một ấn tượng của sự
va đập tiếp thu trên một chất thể vang vọng như những loại chuông và những thứ
tương tự, hoặc như thanh điệu trong tai, và quả vậy, trừ khi nó bảo tồn cái ấn
tượng về những thanh điệu này, có thể chẳng bao giờ sinh ra khoái cảm từ việc
nghe một thanh âm đơn độc; vì khi nó đi thẳng từ thanh điệu thứ nhất đến thanh
điệu thứ năm, thì hiệu quả như thể ta nghe thấy hai thanh điệu này đồng thời,
và như thế, ta tiếp nhận được sự hài hoà thực sự với thanh điệu thứ nhất cùng
với thanh điệu thứ năm; vì nếu thanh điệu thứ nhất không lưu lại trong tai
trong một thời gian nào đó, thì thanh điệu thứ năm lập tức theo sau thanh điệu
thứ nhất gần như sẽ đơn độc; và một thanh điệu đơn sẽ không thể tạo nên bất cứ hài
hoà nào cả, và vì thế bất cứ điệu đơn độc nào khi hát lên hẳn sẽ thiếu sự hấp
dẫn.
Cũng vậy, sự phát xạ của mặt trời hoặc
một vật thể phát quang khác lưu lại trong mắt một thời gian sau khi nó được
nhìn thấy, và sự chuyển động của một khúc củi xoáy nhanh thành một vòng tròn
khiến cho vòng tròn này gần như là một ngọn lửa đồng đều liên tục.
Những giọt mưa gần như là những sợi chỉ
liên tục thả xuống từ những đám mây; và ở đây người ta có thể thấy mắt lưu giữ những
ấn tượng về những vật thể di động mà nó nhìn thấy...
Tiếng nói gây ấn tượng qua không khí mà
không chiếm chỗ không khí, và va đập lên những vật thể rồi trở về nguồn.
Người
hoạ sĩ đo lường khoảng cách của sự vật khi chúng lùi khỏi con mắt theo những
cấp độ như người nhạc sĩ đo lường những quãng âm mà tai nghe thấy. Mặc dù những
vật thể do mắt quan sát tiếp xúc nhau khi chúng thoái lui, tuy thế tôi tìm ra
quy tắc của tôi về một chuỗi những quãng cách đo được 20 thước Ý (braccia),
giống như người nhạc sĩ, tuy những thanh âm của y kết hợp và được xâu chuỗi với
nhau, đã tạo nên những quãng tuỳ khoảng cách từ âm này tới âm kia và được gọi
là đồng thanh (unison), âm thứ hai, âm thứ ba, âm thứ tư, và âm thứ năm và vân
vân, cho tới những định danh được gọi theo những cấp độ khác nhau về cao độ
đúng với thanh giọng con người.
3.
HỘI
HOẠ VÀ ĐIÊU KHẮC
So sánh giữa hội hoạ và điêu khắc
Hội
hoạ đòi hỏi sức tưởng tượng và kĩ năng nhiều hơn và phi thường hơn so với điêu
khắc, bởi vì tinh thần của hoạ sĩ phải tất yếu nhập vào tinh thần của tự nhiên
để đóng vai như một kẻ thông giải giữa tự nhiên và nghệ thuật; hội hoạ phải có
khả năng thuyết minh lí do biểu hiện về quy luật của tự nhiên, và phương cách
làm cho tính tương tự của đối tượng bao quanh mắt và hội tụ ở trong đồng tử của
mắt để chuyển đi hình tượng chân thực; nó phải biện biệt được trong số nhiều vật
thể có kích thước bằng nhau và cái nào sẽ xuất hiện lớn hơn đối với mắt; trong
những màu sắc giống nhau, cái nào sẽ xuất hiện đậm hơn và cái nào xuất hiện nhạt
hơn; trong số những vật thể tất cả đều đặt ở cùng độ cao, cái nào sẽ xuất hiện cao
hơn; trong số những vật tương tự đặt ở những cự li khác nhau, tại sao chúng có
vẻ ít rõ nét hơn những vật khác.
Nghệ thuật hội hoạ bao hàm trong lãnh vực
của nó tất cả những vật thể hiện hình, còn điêu khắc với những hạn chế của nó
không có, ấy là những màu sắc của mọi vật với cường độ và độ trong suốt của
những vật thể biến thiên. Nhà điêu khắc đơn thuần cho bạn thấy những hình dạng
của vật thể tự nhiên và không có sự tinh xảo nào xa hơn. Hoạ sĩ có thể gợi ý
những cự li khác nhau qua việc biến hoá màu sắc, qua khí quyển chen vào giữa
vật thể và mắt. Y có thể miêu tả những đám sương mù qua đó khiến hình dạng sự
vật khó nhận ra; mưa lộ rõ với những quả núi phủ mây; và những đám bụi quấn quanh
những chiến sĩ làm dấy lên; những dòng suối có độ trong suốt khác nhau, đàn cá
đùa chơi giữa mặt nước và đáy nước; và những viên sỏi nhẵn thĩn đủ màu sắc lắng
đọng trên nền cát sạch của lòng sông bao quanh thảo mộc xanh biếc thấy dưới mặt
nước. Y sẽ miêu tả những tinh tú ở những độ cao biến thiên trên đầu chúng ta và
vô số những hiệu quả khác tới mức điêu khắc không thể mong tới.
Nhà
điêu khắc không thể nào miêu tả độ trong suốt hoặc những vật thể phát sáng.
Con
mắt không thể nhận ra hình dạng của vật thể ở trong biên giới của chúng, nếu
không nhờ có bóng và ánh sáng; nhiều khoa học sẽ không tồn tại nếu không có khoa
học về bóng và ánh sáng—như hội hoạ, điêu khắc, thiên văn, và đại bộ phận phép phối
cảnh và những thứ tương tự.
Có thể thấy, nhà điêu khắc không thể làm
việc mà thiếu sự trợ giúp của bóng và ánh sáng, vì thiếu những thứ này thì vật
liệu được khắc chạm hẳn vẫn giữ nguyên một màu... Một mặt phẳng được chiếu sáng
bởi một loại ánh sáng đều và không chỗ nào biến thiên về độ sáng tối từ màu sắc
tự nhiên của nó; và sự tương đồng này về màu sắc biểu thị cho độ nhẵn đồng bộ
của bề mặt. Vì thế, sau đó nếu vật liệu được chạm khắc không được phủ bởi bóng
và ánh sáng để sinh ra độ lồi lõm xen vào của cơ bắp, thì nhà điêu khắc sẽ
không thể nào liên tục theo dõi tiến triển tác phẩm của y, nếu không, những gì
y tạo hình trong ban ngày hẳn trông sẽ như thể nó được tạo ra trong bóng tối
của đêm.
Về hội hoạ
Dù
thế nào, hội hoạ nhờ bóng và ánh sáng thể hiện trên bề mặt phẳng, những hình
dạng với những thành phần lồi lõm từ những hướng đa dạng, và tách biệt nhau
theo cự li khác nhau.
Nhà
điêu khắc có thể cho rằng phù điêu (basso
relievo) là một loại hội hoạ; điều này có thể thừa nhận ở mức độ hình hoạ
liên quan vì phù điêu có mang phép phối cảnh. Nhưng còn về bóng và sáng, nó làm
hỏng cả điêu khắc lẫn hội hoạ bởi vì những bóng của phù điêu trong những bộ
phận súc đoản (foreshortened), chẳng hạn, không có độ sâu tương ứng với bóng
trong hội hoạ hoặc điêu khắc hình tròn. Nhưng nghệ thuật này là sự hỗn hợp của
hội hoạ và điêu khắc.
Điêu khắc kém tính trí năng hơn hội hoạ và thiếu nhiều
phẩm chất cố hữu
Khi
tôi thực hành nghệ thuật điêu khắc cũng như nghệ thuật hội hoạ, và thực hiện cả
hai môn trong cùng mức độ, gần như với tôi, không hoài nghi về tính thiên vị,
tôi mạo muội đưa ra ý kiến về hai môn, môn nào trong hai môn này có kĩ năng lớn
hơn và hoàn thiện hơn.
Đầu tiên, một pho tượng phụ thuộc vào ánh
sáng nhất định, là ánh sáng từ bên trên, trong khi một bức tranh mang ánh sáng
và bóng râm của nó khắp nơi. Sáng và bóng là thiết yếu với điêu khắc. Ở mặt
này, nhà điêu khắc được trợ giúp bởi tính chất phù điêu (độ nổi), vốn tạo ra
ánh sáng và bóng râm theo tính phù hợp tự nhiên; trong khi người hoạ sĩ phải
sáng tạo ra chúng bằng nghệ thuật ở điểm mà thiên nhiên thường không làm.
Nhà điêu khắc không thể khu biệt giữa
những màu sắc tự nhiên khác nhau của vật thể; còn hoạ sĩ về mặt này thì đạt
được trong từng chi tiết. Những tuyến phối cảnh của nhà điêu khắc gần như không
chân thực theo bất kể cách nào; còn những tuyến phối cảnh của hoạ sĩ có vẻ trải
ra hàng trăm dặm ra ngoài chính tác phẩm. Những hiệu quả của phép phối cảnh
không gian thì ở ngoài tầm tác phẩm của nhà điêu khắc; họ cũng không thể biểu
hiện vật thể trong suốt hoặc vật thể phát quang, hoặc những phản chiếu, hoặc vật
thể bóng loáng như tấm gương và những thứ có bề mặt lấp lánh, hoặc sương mù,
hoặc thời tiết âm u, hoặc vô số những sự vật mà tôi miễn liệt kê để khỏi làm
chán chường.
Ưu thế duy nhất mà điêu khắc có được là sức
chống chọi lớn hơn đối với thời gian...
Hội
hoạ thì đẹp hơn, giàu tưởng tượng hơn và phong phú hơn về chất liệu, trong khi
điêu khắc thì bền vững hơn, nhưng không có điểm vượt trội nào khác.
Điêu khắc phơi mở chính nó mà không cần
nhiều nỗ lực; còn hội hoạ gần như một thứ thần kì, tạo ra những vật không sờ mó
được xuất hiện như sờ mó được, trình ra những vật như nổi mà lại phẳng phiu,
những vật xa mà như gần.
Thực sự, hội hoạ được trang sức với vô
hạn khả năng mà điêu khắc không thể làm chủ.
III.
ĐỒ
ÁN KIẾN TRÚC
Những thủ cảo của
Leonardo bao gồm nhiều thiết kế kiến trúc cho những đại giáo đường hình vòm được
xây dựng trên đồ án trung tâm là nơi những vấn đề về kết cấu được bàn tới về
mặt lí thuyết và từ quan điểm nghệ thuật. Ông cũng thiết kế những pháo đài,
biệt thự, lâu đài, đình viên, và chuồng ngựa cho những nhà bảo trợ. Kiến nghị
của ông là nỗ lực để hoàn thành những đại giáo đường ở Milan và Pavia.
Ông quan tâm đến những vấn đề lí thuyết
mang tầm quan trọng thực tiễn—trong những vấn đề như hình thức giáo đường thế
nào mới đáp ứng tối ưu được yêu cầu về âm học (acoustics). Ông viết về cung vòm,
xà và sức chịu lực của chúng; về nguyên nhân và tiến triển của những vết nứt
trên tường và cách phòng tránh.
Những ý tưởng của ông về quy hoạch thành
thị, về cách bố trí nhà ở và vườn kết hợp nghệ thuật với kiến thức kĩ thuật, để
cung cấp nhiều ánh sáng, độ thông gió, và không gian mở, những phòng cách âm, xa
lộ hai tầng, và những vấn đề về điều kiện vệ sinh.
Những biểu đồ này được vẽ lại từ bút kí của ông, biểu
thị những quy tắc được Vitruvius và Leon Battista Alberti đề xuất những tỉ lệ
cho chân trụ cột Attic.
Cung vòm là gì?
Một
cung vòm không gì khác hơn là một lực tạo nên từ hai lực yếu; vì vòm trong kiến
trúc được cấu thành từ hai bộ phận của một vòng tròn, và mỗi bộ phận này tự bản
thân rất yếu và có xu hướng đổ xuống, và khi bộ phận này chống đỡ sức đổ của bộ
phận kia thì hai lực yếu đổi sang một lực đơn độc.
Về tính chất trọng lực của vòm
Một
khi vòm được thiết dựng, nó duy trì trạng thái bình hành, bởi vì lực hai bên
đẩy nhau; nhưng nếu một bộ phận của vòng tròn này nặng hơn bộ phận kia thì tính
ổn định chung quy bị phá hoại.
Biểu
đồ dưới đây cho thấy những vòm cung được tạo ra ở cạnh hình bát giác đã xô đẩy chân
cột từ những góc ra bên ngoài, như biểu thị bằng những tuyến hc và td xô đẩy chân cột m; và
chúng có xu hướng bật khỏi trung tâm một bát giác như thế.
Thí
nghiệm chứng minh, một trọng lực đặt trên một vòm cung không tự hạ phóng
(discharge) hoàn toàn trên những trụ cột; ngược lại, trọng lực càng lớn đặt
trên những vòm cung, thì vòm cung càng truyền ít trọng lực tới những trụ cột.
Thí nghiệm sau đây: một người được đặt trên cái cân đòn bẩy ở giữa thân giếng,
tiếp theo, cho y dang tay và chân ra giữa những thành giếng, và bạn sẽ thấy
trọng lượng của y nhẹ hơn rất nhiều so với trên cân đòn bẩy. Hãy đặt trên vai y
một trọng lực, bạn sẽ thấy qua thí nghiệm rằng, trọng lực càng lớn mà bạn đặt
trên vai y thì y sẽ phải nỗ lực càng lớn hơn khi dang tay và chân và trong khi
ghì vào thành giếng, và trọng lực lên cân đòn bẩy sẽ càng kém đi.
Một ngôi tháp mới đặt
nền móng một phần trên một công trình xưa.
Những thang nước
Khi
mức hạ xuống từ những đập nước đã trũng sâu tới mức cuối cùng nó tụt xuống đáy
sông, thì những dòng nước hạ xuống sẽ không hình thành hốc ở chân bờ sông, nên
sẽ không mang đất đi theo cách dội lại, và như thế chúng sẽ không tiếp tục hình
thành độ dài phần đáy của đập nước từ phía dưới. Hơn nữa, nếu bộ phận thấp nhất
của bờ sông nằm nghiêng qua dòng những thuỷ lưu được kiến tạo thành những bậc
thang sâu rộng theo lối cái cầu thang, thì những dòng nước trong khi chúng hạ
xuống theo dòng của chúng sẽ quen đổ xuống thẳng góc từ khởi đầu của gian đoạn
thấp nhất này, và đào sâu những nền tảng của bờ sông, sẽ không có thể hạ xuống
nữa với một lực lượng hết sức mạnh mẽ. Và tôi sẽ nêu ra một ví dụ cho điều này,
chiếc thang đi xuống mà những dòng nước đổ xuống từ những cánh đồng Sforzesca ở
Vigenano, vì nước tuôn chảy xuống nó với một độ cao năm mươi thước Ý.
Nước sẽ cho phép
đổ xuống từ toàn bộ vòng tròn ab.
Quy hoạch thành thị
Chiều
rộng của con đường hãy cho bằng với chiều cao phổ biến của nhà ở.
[Với đồ án về thành thị cho thấy đường xá ở
tầng cao và thấp]
Đường lộ ở tầng cao hơn là sáu thước Ý so
với đường lộ ở tầng thấp, và mỗi đường lộ nên rộng hai mươi thước Ý và biên duyên
có độ dốc xuống nửa thước Ý tính từ trung tâm. Và từ trung tâm này cứ mỗi thước
Ý sẽ có một khe thoát rộng một ngón tay và dài một thước Ý, nhờ đó nước mưa rút
xuống vào những lỗ thông trên những đường lộ hạ tầng. Và ở hai bên đường lộ này
nên có một hành lang cuốn (arcade) rộng sáu thước Ý trên những cột trụ.
Và nếu có ai muốn đi qua toàn bộ nơi này
bằng những đường lộ tầng cao thì có thể dùng chúng cho mục đích này, cũng vậy
với những ai muốn đi qua những đường lộ tầng thấp. Những đường lộ tầng cao
không được sử dụng cho loại xe hàng hoá hoặc những phương tiện giao thông mà
chỉ dành cho sự tiện lợi của giới quyền quý. Mọi loại xe tải phục vụ và thuận
lợi cho thường dân nên giới hạn trên những đường lộ tầng thấp. Nhà phải quay
lưng lại với nhau, dành đường lộ tầng thấp ở giữa chúng. Những cửa dùng tiếp
nhận những đồ cung cấp, như củi và rượu, vv... Nhà vệ sinh, chuồng ngựa, và những
nơi hôi hám với chất thải đổ vào những thông đạo dưới lòng đất được định vị
khoảng cách ba trăm thước Ý từ một nhịp cuốn (arch) cho tới phần còn lại, mỗi
thông đạo nhận ánh sáng qua những lỗ hổng từ mặt đường phía trên, và cứ mỗi nhịp
cuốn sẽ có một thang cuốn.... Ở chỗ rẽ đầu tiên sẽ có cửa đi vào những nhà vệ
sinh, và cầu thang này có thể cho người ta đi xuống từ đường tầng cao xuống
đường tầng thấp.
Những đường tầng cao bắt đầu ở bên ngoài
những cổng ở độ cao sáu thước Ý. Địa điểm này nên chọn gần biển, hoặc gần sông
lớn, để những chất ô uế của thành phố có thể được nước vận chuyển đi xa.
Quy hoạch nhà ở
Một
toà nhà phải luôn tách ra toàn diện để có thể thấy được hình dạng chân thực của
nó.
[Với bản vẽ kiến trúc].
Gian phòng lớn dành cho chủ nhân, phòng,
bếp, chạn, phòng gác, phòng lớn dành cho thành viên gia đình, và sảnh đường.
Phòng lớn dành cho chủ nhân và phòng dành
cho gia đình nên có nhà bếp ở giữa, và thực phẩm có thể phục vụ thông qua những
cửa sổ rộng và thấp hoặc bằng những loại bàn xoay. Phòng lớn của gia đình nằm ở
phía bên kia nhà bếp sao cho chủ nhà không nghe được âm thanh tạp.
Người vợ nên có căn buồng riêng và sảnh
đường cách riêng khỏi phòng gia đình, vì thế bà có thể sắp đặt cho những đầy tớ
gái ăn tại một bàn khác cùng một sảnh đường. Bà nên có hai căn buồng khác cũng
như buồng riêng, một buồng cho các tớ gái, buồng kia cho các bảo mẫu, và không
gian rộng dành cho dụng cụ nhà bếp. Và căn buồng này sẽ là nơi liên thông về các
tiện nghi khác nhau; và là chỗ tiếp xúc với việc làm vườn và chuồng ngựa.
Kẻ giữ kho lương thực phải có lối vào nhà
bếp ở đằng sau, để có thể làm việc một cách mau lẹ; và cửa sổ nhà bếp nên đối
diện với kho lương thực sao để dễ rút củi. Và cho nhà bếp tiện lợi với việc rửa
đồ dùng bằng thiếc để không phải mang đi suốt căn nhà. Tôi muốn có một cánh cửa
lớn đóng lại toàn bộ căn nhà.
Cối xay nước
Lợi
dụng cái cối xay nước, tôi có thể sản sinh ra một luồng không khí bất kì khi
nào; vào mùa hè, tôi sẽ làm cho nước vọt lên tươi mát, nổi bọt và chảy dọc theo
khoảng giữa những bình diện được sắp đặt như thế này [bản vẽ]. Đường mương có thể rộng nửa thước Ý, và ở đó nên có những
bình rượu, luôn luôn tinh khôi nhất. Luồng nước khác nên chảy qua khu vườn làm
ẩm những rặng cam và chanh thuỳ theo nhu cầu của chúng. Những cây chanh này sẽ
thường trực, bởi vì địa thế của chúng sẽ được sắp đặt sao cho dễ được bao phủ
lên trên và độ ấm áp liên tục mà mùa đông sản sinh ra sẽ là những phương tiện
bảo tồn chúng tốt hơn nhiều so với lửa, vì hai lí do: một là độ ấm này của
những dòng suối có tính tự nhiên và có cùng độ ấm từ rễ của mọi thảo mộc; thứ
hai, lửa tạo ra hơi ấm từ những cây cối này theo cách ngẫu nhiên, bởi nó bị lấy
mất độ ẩm, không đồng bộ cũng không liên tục, lúc đầu thì ấm hơn về sau và rất
thường bị coi nhẹ do sự bất cẩn của những người trông nom nó.
Thảo mộc từ những dòng suối nhỏ phải được cắt
thường xuyên để giữ độ trong của nước và có thể nhìn xuống dưới đáy có đá cuội,
chỉ để lại những loại thực vật dùng làm thức ăn cho cá, như cải xoong và những cây
tương tự, những loại cá như thế không làm cho nước đục, tức là không được thả
lươn vào đó, hoặc cá hanh, hoặc cá chó, vì chúng sẽ tiêu diệt những loại cá
khác.
Nhờ cối xay nước, bạn sẽ tạo ra nhiều ống
dẫn nước qua suốt ngôi nhà, và những dòng suối ở những địa điểm khác nhau, và ở
một chặng nào đó, khi có người đi qua, từ mọi phía ở dưới nước sẽ vọt lên, và
như thế ở đó cũng sẽ có người sẵn sàng muốn tắm từ bên dưới, cho tới những phụ
nữ hoặc những người khác ngang qua đó.
Ở trên đầu, chúng ta phải dựng một tấm
lưới rất mịn bằng đồng để che bên trên khu vườn và quây lại bên dưới với nhiều
loại chim khác nhau. Như vậy, bạn sẽ có âm nhạc bất tuyệt cùng với hương hoa
cam và hoa chanh.
Với trợ giúp của cối xay, tôi sẽ làm ra
mọi loại âm thanh liên tục từ mọi loại nhạc cụ, chừng nào cối xay còn tiếp tục
di chuyển.
IV.
ĐỜI
SỐNG CỦA HOẠ SĨ
Người
hoạ sĩ phấn đấu và thi đua với thiên nhiên.
Người
hoạ sĩ phải nên cô tịch và lưu tâm những gì mình thấy, tự tranh luận về nó để
chọn những phần nào là tối ưu nhất từ bất cứ những gì y thấy. Y nên tác động
như một tấm gương chuyển hoá tự thân muôn màu như những vật thể đặt ở phía
trước nó. Như thế, hoạ sĩ gần giống như là thiên nhiên thứ hai.
Đời sống của hoạ sĩ trong xưởng vẽ
Để
cho cơ thể khoẻ mạnh không làm nhụt tinh thần, người hoạ sĩ hay hoạ viên nên
giữ được sự cô tịch, đặc biệt khi chuyên tâm với những nghiên cứu và phản ánh
sự vật vốn không ngừng xuất hiện trước mắt và trang bị chất liệu để lưu giữ kĩ
trong kí ức. Khi cô độc, bạn hoàn toàn là chính mình; và nếu bạn chỉ cần có một
đồng bạn thì là một nửa của chính mình, hoặc còn ít hơn nữa theo tỉ lệ về sự
thiếu dè dặt trong cách cư xử của người bạn kia. Còn nếu có thêm những đồng bạn,
còn mắc sâu hơn vào cùng sự phiền phức đó. Nếu bạn nói, “Tôi sẽ theo đường của
mình, tôi sẽ ra ngoài ẩn dật để học tập các hình thể của vật tự nhiên”, tôi nói
với bạn rằng, điều này sẽ tác động xấu vì bạn không thể không nghe họ huyên
thuyên; vì không thể nào phục vụ hai chủ nên bạn sẽ đóng vai làm đồng bạn tồi
tệ, và thực hiện những nghiên cứu nghệ thuật còn tồi tệ hơn. Còn nếu bạn nói
rằng, “Tôi sẽ lui thật xa tới nỗi những lời lẽ của họ không tới được và quấy
rầy được tôi”, tôi nói với bạn rằng, bạn sẽ bị xem là gàn; nhưng hãy nhớ rằng làm
như vậy bạn ít ra sẽ được cô tịch; và nếu bạn phải có đồng hành thì hãy tìm
trong những nghiên cứu... Điều này giúp bạn đạt được những lợi thế có được từ
những phương pháp khác nhau. Còn mọi đồng bạn khác có thể rất tác quái với bạn.
Những
căn phòng hoặc nơi cư trú nhỏ tạo kỉ luật cho tâm trí, những gian phòng lớn làm
chia trí.
Cự tuyệt với chủ trương hoạ sĩ không nên làm việc
trong những ngày lễ
Vì
hội hoạ là cung cách học biết về đấng sáng tạo ra vạn vật diệu kì—và đây là
cung cách để yêu nhiệt thành một nhà phát minh lớn như thế. Thực vậy, tình yêu
lớn nảy sinh từ sự hiểu biết trọn vẹn cái mà người ta yêu; và nếu bạn không
biết nó bạn có thể yêu nó nhưng chỉ chút xíu, hoặc chẳng hề.
Và nếu bạn yêu Ngài vì những lợi ích và
bạn mong chờ có được từ Ngài, thì bạn giống như con chó vẫy đuôi, mừng và nhảy xổ
vào người có thể cho bạn một cục xương. Còn nếu con chó biết và có thể hiểu
được đức tính của vị chủ nhân này, thì tình yêu của nó lớn hơn đến đâu!
Đời sống của hoạ sĩ ở thôn quê
Một
hoạ sĩ cần phải biết cái phần toán học liên quan tới hội hoạ, và việc đoạn
tuyệt quan hệ với những bằng hữu vốn không cùng chí hướng nghiên cứu; và trí
não phải có năng lực tự thích nghi với sự đa dạng của các loại đối tượng trước
mắt; và thoát khỏi những mối quan tâm khác. Và nếu, trong khi xem xét và xác
định một trường hợp, thì trường hợp thứ hai xen vào trong lúc tâm trí bận rộn
với một đối tượng, vậy thì y phải quyết định trường hợp nào thực hiện khó khăn
hơn, và đi theo nó tới khi nó hoàn toàn được sáng tỏ; và tìm ra giải thích cho
cái kia kia; và trên hết, phải giữ cho tâm trí trong sáng như mặt gương, có thể
biến đổi theo nhiều màu sắc khác nhau tuỳ theo những vật thể; và những đồng bạn
của y sẽ học giống y trong những học tập của họ, và nếu y không tìm ra đồng bạn
nào để học theo, y nên giữ những suy tư cho riêng mình, vì rút cuộc, y sẽ không
tìm ra đồng bạn nào hữu ích hơn.
Học khi bạn thức, hoặc trước khi bạn đi ngủ trong bóng
tối
Tôi
tìm ra bằng kinh nghiệm của mình rằng, lợi ích thật không nhỏ khi bạn nằm trên
giường trong bóng tối để rà đi rà lại trong trí tưởng tượng đường nét của những
hình thể mà bạn đã nghiên cứu hoặc về những vật thể đáng ghi nhớ được thai
nghén bằng sự trầm tư tinh tế; và điều này chắc chắn là một việc tập luyện đáng
khen ngợi và hữu ích khi tạo ấn tượng sự vật lên kí ức.
Tinh
thần của một hoạ sĩ nên như tấm gương, luôn tiếp nhận màu sắc của vật thể được
phản chiếu, và chứa đầy hình ảnh của nhiều vật thể ở phía trước. Vì thế, bạn
phải biết rằng, bạn không thể là một hoạ sĩ giỏi trừ phi bạn đa tài đa nghệ khi
tái hiện trong nghệ thuật của bạn mọi loại hình thái mà thiên nhiên tạo ra. Bạn
sẽ không biết phải làm sao trừ phi bạn nhìn thấy và nhớ chúng trong tâm trí. Vì
thế, khi bạn đi dã ngoại, hãy chú ý tới những vật thể khác nhau, lúc nhìn vật
này, lúc xem vật nọ, thu thập một kho những dữ liệu đa dạng được chọn lựa từ
những cái ít có giá trị. Chớ như một số hoạ sĩ, khi tinh thần mệt mỏi, đầu óc không còn màng đến công việc, họ luyện
tập bằng việc đi dạo để thư giãn, tuy nhiên, sự mệt mỏi tinh thần như thế cản
trở họ nắm bắt những đối tượng mà họ thấy, nhưng thường khi họ gặp bạn bè và
người thân chào đón, tuy họ có thể thấy và nghe nhưng lại không nhận biết nếu
họ thấy quá nhiều dáng điệu.
Hỡi
các hoạ sĩ của tôi, điều gì xui khiến bạn rời bỏ nhà cửa ở thành thị, bỏ lại
cha mẹ và bằng hữu để đi về vùng quê, lên núi cao và xuống thung lũng, nếu
không vì vẻ đẹp của thế giới tự nhiên, nếu cân nhắc kĩ, bạn chỉ có thể thưởng ngoạn
qua khí quan thị giác; và chính bởi ở đây, nhà thơ thi đua với hoạ sĩ, thế tại
sao bạn không dùng sự mô tả của nhà thơ về những phong cảnh này rồi ở trong nhà
mà không cần phải phơi mình với nắng mặt trời chói chang? Chẳng phải là thiết
thực và ít mệt mỏi hơn hay sao, bởi vì bạn có thể ở một nơi mát mẻ mà không cần
đi lại và hứng chịu bệnh tật? Nếu linh hồn bạn không thể tận hưởng khoái cảm
qua đôi mắt, là những cửa sổ của căn nhà, thì nó không thể đón nhận ánh phản
chiếu của những nơi rực rỡ, nó không thể thấy những thung lũng rợp bóng được
tưới bởi những dòng sông uốn khúc lóng lánh, nó không thể nhìn thấy bao nhiêu đoá
hoa vô vàn màu sắc khác nhau bày ra trước mắt. Nhưng nếu một hoạ sĩ vào một
ngày mùa đông lạnh lẽo khắc nghiệt phô cho bạn thấy trong tranh của y những
điều này, hoặc ở những thôn quê khác nơi bạn từng tận hưởng bên dòng suối nào
đó, và nơi bạn có thể thấy lại mình trên những cánh đồng muôn hoa trong như một
người tình bên cạnh người yêu dấu của bạn dưới những bóng mát dịu dưới rặng cây
xanh um, chẳng phải nó cho bạn khoái cảm hơn là việc nghe nhà thơ mô tả về một
cảnh như thế?
Thời gian nghiên cứu chọn lựa đề tài
Những
chiều mùa đông nên được dùng cho các học sinh trẻ học tập những việc đã chuẩn
bị trong mùa hè; đó là, những bản vẽ từ mẫu khoả thân mà bạn đã vẽ trong mùa hè
nên tập trung lại và chọn những chi thể và thân thể xuất sắc nhất trong số đó
để ứng dụng trong thực tế và lưu vào trí nhớ.
Về tư thế
Sau
đó, vào mùa hè tiếp theo, bạn nên chọn một người thân thể đã phát triển, và
không mặc loại áo chẽn, vì như vậy hình thể sẽ mất đi dáng điệu tự nhiên, và
cho y làm một số động tác duyên dáng và thanh nhã; nếu cơ bắp của y không cho
thấy rõ rệt những đường nét trên chi thể, điều đó không thành vấn đề. Khi có đủ
những tư thế từ nhân vật, bạn có thể điều chỉnh chi thể bằng những tư liệu mà
bạn đã học tập trong mùa đông.
Về cách học tập đúng cách bố cục nhiều nhân vật trong
tranh lịch sử
Khi
bạn đã học kĩ phép phối cảnh và sắp xếp trong trí nhớ mọi bộ phận và hình dạng
của các vật thể, bạn nên khởi công và thường khi bạn đi tản bộ quan sát và xem
xét những hoàn cảnh và hành xử của người ta khi họ nói chuyện, cãi nhau, hoặc
cười, hoặc đi tới chuyện đánh nhau; những hành vi của chính họ và của những người
ngoài cuộc can thiệp hoặc nhìn ngó. Hãy ghi chú về họ bằng những nét tốc hoạ
vào cuốn sổ nhỏ mà bạn luôn mang theo; và trên loại giấy nhuộm màu nhẹ, để
không thể bị tẩy xoá, và thay sổ cũ bằng sổ mới; bởi những thứ này không nên bị
bôi boá mà cần bảo tồn cẩn thận; vì những hình dạng và vị trí của vật thể là vô
hạn tới nỗi trí nhớ không thể nào ghi nhớ được, bởi vậy, hãy giữ những thứ này
như là hướng đạo và thầy của mình.
Vẽ trong nhóm có tốt hơn hay không
Tôi
cho rằng và khẳng định, vẽ trong nhóm tốt hơn nhiều so với vẽ một mình, vì
nhiều lí do. Trước tiên là bạn hẳn phải xấu hổ khi bị xem trong số những hoạ
viên nếu bạn bị thua kém, và cảm giác xấu hổ này sẽ dẫn bạn tới việc học tập
tốt; thứ hai, một sự ghen tị lành mạnh sẽ kích thích bạn gia nhập vào số những
người được khen ngợi hơn bạn, vì việc khen ngợi những người khác sẽ khích lệ
bạn; còn một điều khác là bạn có thể học được từ những bản vẽ của những người
vẽ giỏi hơn bạn; và nếu bạn giỏi hơn người khác, bạn có lợi qua việc coi khinh
những khuyết điểm của người khác, còn lời khen của những người khác sẽ khuyến
khích bạn cố gắng tiến xa hơn.
Về việc đánh giá tranh của bạn
Chúng
ta biết rất rõ rằng những sai sót dễ nhận ra trong tác phẩm người khác hơn là
của mình; và thường khi quở trách những thiếu sót của người khác, chúng ta có
thể bỏ quên những khuyết điểm lớn hơn trong bản thân... Theo tôi, khi bạn vẽ,
bạn nên có một tấm gương phẳng và thường nhìn vào tác phẩm của bạn phản chiếu
trong đó, khi bạn thấy nó đảo ngược, và nó có vẻ với bạn như tranh của hoạ sĩ
nào khác, bạn sẽ có thể đánh giá đúng hơn về những khuyết điểm của nó hơn bằng
cách khác. Cũng tốt nếu bạn thường nên bỏ mặc tác phẩm và thư giãn một chút, bởi
khi trở lại với nó, bạn sẽ phán xét tốt hơn; vì ngồi quá gần bên tác phẩm có
thể đánh lừa bạn rất cao. Cũng tốt khi lùi lại ở một khoảng cách, bởi vì tác
phẩm trông sẽ nhỏ hơn và mắt bạn tiếp nhận nó nhiều hơn trong một thoáng nhìn
và dễ nhìn ra sự thiếu hài hoà và tỉ lệ trong những chi thể, màu sắc và đường
nét của những đối tượng.
Về việc chọn những diện mạo đẹp
Với
tôi, dường như không phải là ân huệ nhỏ nếu một hoạ sĩ có thể ban cho những
nhân vật của mình một phong thái ưu nhã, và ân huệ này, nếu không nhờ thiên
tính, thì y có thể thủ đắc bằng việc học tập bổ sung theo cách này: Hãy quan
sát xung quanh và chọn những bộ phận tuyệt nhất trong nhiều dung mạo đẹp, và vẻ
đẹp này do sự công nhận của số đông thay vì theo phán đoán của riêng bạn; bởi bạn
có thể tự lừa gạt mình và chọn những dung mạo vốn mang những nét tương tự như
của bạn, vì thường là sự tương tự đó làm hài lòng chúng ta; và giả sử bạn xấu,
hẳn bạn sẽ chọn những dung mạo không xinh đẹp, rồi bạn sẽ tạo ra những dung mạo
xấu như nhiều hoạ sĩ. Vì thường là những hình dáng của một người thầy khi chọn
thì tương tự như bản thân của ông; vì thế hãy chọn những vẻ đẹp như tôi nói rồi
khắc sâu trong tâm trí.
Phối ánh sáng cho những diện mạo được thanh nhã nhất
Nếu
bạn có một cái sân bạn có thể tuỳ ý phủ nó bằng một tấm vải gai che mái để có
ánh sáng lí tưởng. Hoặc khi bạn muốn vẽ một chân dung, hãy thực hiện vào thời
tiết ảm đạm, hoặc khi chiều xuống, sắp đặt người mẫu quay lưng lại một bức
tường của cái sân. Hãy lưu ý diện mạo của những người đàn ông đàn bà trên đường
phố lúc hoàng hôn và lúc trời ảm đạm, bạn có thể nhận thấy vẻ ôn hoà và tinh tế
của họ. Vì thế, hỡi người hoạ sĩ! Hãy có một đình cái sân được bố trí với những
bức tường tô màu đen và một cái mái nhỏ hẹp nhô ra bên trong những bức tường.
Nó có bề rộng 10 thước Ý, dài 20 thước Ý, cao 10 thước Ý và được che bằng một
tấm bạt gai khi có mặt trời chiếu sáng, hoặc nếu không, hãy vẽ bức chân dung
vào lúc hoàng hôn hoặc lúc trời u ám hoặc sương mù; vì đây là ánh sáng hoàn
hảo.
Quy tắc học tập hội hoạ cho thiếu niên
Chúng
ta biết rõ thị giác là một trong những động tác nhanh nhất và trong một khoảnh
khắc chúng ta nhìn thấy vô số những hình thể; tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể nhận
thức mỗi lần chỉ được một thứ.
Độc giả, hãy giả định bạn nhìn thoáng vào
trang viết này, và bạn sẽ nhận ra ngay là nó ngập những con chữ khác nhau,
nhưng vào lúc ấy bạn không thể nào nhận ra là những chữ gì cũng không nhận ra
chúng muốn nói gì. Do đó, bạn cần tiến hành nhìn từng chữ một, từng dòng một,
để có thể hiểu được những chữ này hàm nghĩa gì. Cũng vậy, nếu bạn muốn trèo lên
một dinh thự lớn bạn phải lên từng bậc thang một; nếu không, sẽ không thể nào
lên tới phần cao nhất. Vì thế, tôi nói với bạn, kẻ nào mà thiên tính khiến
hướng đến nghệ thuật này, nếu bạn muốn có tri thức về những hình thể của sự
vật, bạn sẽ bắt đầu với những chi tiết của chúng, và không được tiếp tục sang
bước thứ nhì cho tới khi bước thứ nhất đã ghi sâu vào kí ức và trong thực hành.
Còn nếu bạn làm khác, bạn sẽ phí thời giờ, hoặc chắc chắn bạn sẽ kéo rất dài việc
học tập; và hãy nhớ sự chuyên cần phải được tôn làm đầu, hơn là thực hành mau
lẹ.
Đầu tiên nên học tập chuyên cần thay cho thực hành mau
lẹ
Nếu
là hoạ viên, bạn muốn học giỏi và đạt được mục đích, hãy tự làm quen với công
việc một cách từ từ khi bạn vẽ, biện biệt những bộ phận ánh sáng nào có mức độ
sáng nhất, và cũng vậy, về bóng, bóng nào tối hơn những bóng khác và cách chúng
liên kết với nhau ra sao; tiếp đến, kích thước và những tỉ lệ của chúng tương
quan với nhau; chú ý những hướng của đường viền, và trong những đường nét, phần
nào của chúng cong sang bên này hoặc bên kia, chỗ nào dễ thấy hơn chỗ nào mơ hồ
hơn, chỗ nào thô chỗ nào tinh tế; và cuối cùng, những bóng và ánh sáng hoà lẫn mà
không có nét hoặc vệt: và khi bạn đã luyện tập bàn tay và sự phán đoán bằng sự
chuyên cần như thế, bạn sẽ đạt được sự thi thố mau lẹ trước khi khi bạn nhận thức
ra.
Những
quy tắc này chỉ sử dùng trong việc kiểm tra những hình thể; bởi vì mỗi người
phạm những sai sót nhất định trong những bố cục tranh đầu tiên của mình và kẻ
nào không biết thì không thể sửa đổi. Do đó, khi bạn ý thức về những sai lầm
thì kiểm tra tác phẩm, ở đâu thấy sai thì sửa, và hãy nhớ đừng bao giờ phạm vào
nữa. Nhưng nếu bạn cố áp dụng những quy tắc này trong bố cục tranh, bạn sẽ
không tạo được sự khởi đầu và sẽ làm rối tác phẩm của bạn.
Những quy tắc này mục đích dành cho bạn có
được trí phán đoán tự do và tốt; bởi trí phán đoán tốt tiến hành từ sự thấu
hiểu minh bạch, và sự thấu hiểu minh bạch này nảy sinh ra từ lí trí phái sinh
từ những quy luật vững chãi, là con gái của kinh nghiệm vững chãi—là bà mẹ
chung cho tất cả các khoa học và nghệ thuật. Vì thế, xin ghi nhớ những châm
ngôn về quy tắc của tôi, bạn sẽ có thể, chỉ bằng việc phán đoán tu sửa của bạn
để xét đoán và nhận biết sự trái tỉ lệ trong một tác phẩm, ngay cả nó nằm trong
phối cảnh hoặc trong những nhân vật hoặc những sự vật khác hay không.
Nhiều
người không nghiên cứu lí thuyết về bóng và ánh sáng và về phép phối cảnh bèn
quay ra tự nhiên và sao chép nó; như vậy họ có được một sự thực tiễn nhất định
thuần bằng việc sao chép mà không nghiên cứu hoặc đẩy xa việc phân tích tự
nhiên. Có một số người nhìn vào những vật thể trong tự nhiên qua tấm kính hoặc
tờ giấy trong suốt hoặc những tấm mạng rồi kẻ lại trên bề mặt trong suốt đó;
tiếp theo, họ điều chỉnh những đường nét, bổ sung vào chỗ này chỗ nọ để cho
chúng phù hợp với quy luật về tỉ lệ, rồi họ đem phối hợp sáng tối bằng việc
điền vào những vị trí, kích thước, và hình dạng của bóng và sáng. Những thực
hành này có thể đáng khen đối với người biết cách trình bày những hiệu quả của
tự nhiên bằng trí tưởng tượng của mình và chỉ cầu đến chúng để tránh sự rối
loạn mà không đánh mất nét đặc thù tế vi nhất trong việc mô phỏng chân thật về
một vật thể mà tính tương tự chuẩn xác đòi hỏi; nhưng đáng trách với những
người không thể miêu tả mà thiếu chúng hoặc không dùng đầu óc để phân tích, bởi
qua sự lười biếng đó, y làm hỏng trí thông minh của mình và y sẽ chẳng thể nào
sản sinh ra bất cứ gì hay đẹp mà không miễn cưỡng. Những kẻ như vậy sẽ luôn
nghèo nàn và yếu trong tác phẩm mang trí tưởng tượng hoặc sáng tác tranh lịch
sử.
Người
hoạ sĩ vẽ bằng thực hành và phán đoán của con mắt mà không vận dụng lí trí thì
giống như một tấm gương chỉ sao chép mọi thứ đặt ở trước nó mà vô tri về sự vật
đó.
Những
ai ham thực hành mà thiếu khoa học thì như người hoa tiêu trên con tàu không
bánh lái hoặc la bàn, y không bao giờ chắc chắc được mình đang đi đâu. Việc
thực hành luôn luôn nên đặt cơ sở trên lí thuyết vững chãi, từ đó phép phối cảnh
là hướng đạo và cổng ngõ, thiếu nó thì tuyệt không thể thực hiện tốt được trong
bất kì loại tranh nào.
Một hoạ sĩ không đáng ca ngợi nếu không có tính đại
đồng
Có
lẽ phải thành thật thừa nhận rằng có một số người tự huyễn hoặc mình khi gọi
một hoạ sĩ là một “sư phụ”, người chỉ có thể vẽ giỏi hình đầu hoặc hình người.
Chắc chắn không phải là thành tựu lớn lao nếu sau khi học tập duy nhất một thứ cả
đời để đạt được một số cái hoàn hảo. Nhưng chúng ta biết rằng hội hoạ bao hàm
và chứa đựng tự thân nó mọi sự vật mà tự nhiên sản sinh ra, hoặc vốn là kết quả
từ những hành vi ngẫu nhiên của con người, nói tóm lại, bất cứ gì có thể lĩnh
hội được bằng mắt, dường như với tôi y chỉ là một hoạ sĩ tồi vì y chỉ vẽ giỏi
một hình tượng đơn độc. Vì bạn không thấy sao, biết bao nhiêu động tác biến
thiên chỉ nói riêng của con người? Bạn không thấy có biết bao nhiêu động vật
khác nhau, và cũng vậy, cây cối, hoa thảo? Đa dạng biết bao những vùng đồi núi
và bình nguyên, sông, suối, thành thị với những công thự và tư dinh, những khí
cụ mà con người sử dụng; biết bao nhiêu phục sức, trang sức, và các môn nghệ
thuật! Tất cả những thứ này nên được miêu tả với sự thoải mái và hoàn hảo đồng
đều bởi tất cả người nào mà bạn muốn gọi là một người thầy tốt.
Trong những tác phẩm quan trọng, không nên tin cậy
hoàn toàn vào trí nhớ mình cũng như khinh việc vẽ từ thiên nhiên
Bất
cứ hoạ sư nào mạo muội khoe khoang rằng mình có thể nhớ hết những hình thái và
hiệu ứng của thiên nhiên, với tôi là y được phú bẩm đại ngu si, bởi vì những
hiệu ứng này là vô tận mà kí ức của chúng ta không sao kham nổi. Vì vậy, hỡi
hoạ sĩ, hãy cảnh giác để cho lòng tham lợi không hất cẳng danh tiếng trong nghệ
thuật, vì để có được danh tiếng này thì lớn hơn nhiều so với danh tiếng về sự giàu
có. Vì những lí do này hay khác có thể nêu, đầu tiên bạn nên nỗ lực về hình hoạ
để trình bày với thị giác trong hình thái biểu cảm được mục đích và phát minh được
cấu tứ đầu tiên trong trí tưởng tượng của bạn, rồi tiếp tục bằng việc cởi ra và
mặc vào cho tới khi bạn thấy mãn ý; rồi sắp đặt những người mẫu mặc y phục hoặc
khoả thân theo cách bạn đã bố trí họ trong tác phẩm; và tạo những kích thước và
độ lớn được quyết định bằng phép phối cảnh, để cho không thứ gì còn lại trong
tác phẩm mà không theo chỉ bảo của lí tính và bởi những hiệu ứng trong tự
nhiên. Và điều này sẽ là cách để khiến chính bạn danh tiếng trong nghệ thuật.
Tranh suy bại và giảm giá trị qua các thời khi hoạ sĩ
không có tiêu chuẩn nào khác hơn việc mô phỏng những bức tranh đã hoàn thành
Hoạ
sĩ sẽ sản sinh những bức tranh ít giá trị nếu lấy tranh người khác làm tiêu
chuẩn của mình, còn nếu y nghiên cứu từ tự nhiên y sẽ có thành quả. Như có thể
thấy trong tranh sau thời đại La-mã người ta mô phỏng lẫn nhau và vì thế nghệ
thuật của họ triền miên bị suy đồi từ thời này sang thời nọ. Sau những thời
này, Giotto xuất hiện, người Florence, ông không thoả mãn với việc mô phỏng
những tác phẩm của người thầy ông là Cimabue, sinh ra trong vùng núi cô tịch
chỉ có những bầy dê và dã thú cư ngụ, và được thiên nhiên dẫn dắt tới nghệ
thuật, ông bắt đầu vẽ trên đá những cử động của đàn dê do ông chăn dắt; và như
vậy ông bắt đầu vẽ tất cả những động vật nào có thể thấy ở thôn dã, và theo
phương cách đó sau khi học tập rất nhiều, ông đã vượt trội không chỉ những hoạ
sư trong thời đại của ông mà tất cả những hoạ sư trong nhiều thời đại đã qua.
Về sau, nghệ thuật của ông lại bị suy bại, bởi mọi người đều mô phỏng những bức
tranh đã xong rồi trong quá khứ; như vậy, nó tiếp tục suy đồi... cho tới Tomaso
ở Florence, tên hiệu là Masaccio, chứng minh tác phẩm hoàn hảo của ông mà những
kẻ lấy đó làm tiêu chuẩn mà không lấy tự nhiên—người tình của mọi hoạ sư—bản
thân họ mỏi mệt vô ích. Và tương tự, tôi muốn nói về những nghiên cứu toán học,
có những kẻ chỉ học tập những bậc quyền uy chứ không phải tác phẩm của tự
nhiên, thì họ là những hậu duệ chứ không phải con cái của tự nhiên, và tự nhiên
vốn là người tình của tất cả mọi kẻ sáng tạo ưu tú. Ôi thật điên rồ những kẻ
khiển trách những ai học từ tự nhiên, mà không chỉ trích những bậc uy quyền mà bản
thân họ vốn là môn đệ của chính tự nhiên.
Vì
thế, hỡi người hoạ sĩ nào không biết những quy luật này, nếu bạn miễn bị chỉ
trích bởi những kẻ đã học tập chúng, hãy nhiệt tâm miêu tả mọi thứ dựa theo tự
nhiên và chớ khinh miệt sự học tập như thế giống như những kẻ làm việc chỉ vì
hám lợi.
Một
môn đệ tồi là kẻ không vượt trội được thầy mình.
*
[1] Lí thuyết này nguyên thuỷ
được đề xướng trong De Anima (Về Linh
hồn) của Aristotle.
[2] Lí thuyết này đầu tiên được đề xuất do
triết gia Hi-lạp Aristotle trong De Anima,
khoảng 350 trước CN.
[3] Hình ảnh tạo trên võng mạc
thì đảo lộn, nhưng chính não bộ chứ không phải thấu kính chuyển vị hình ảnh và
làm cho chúng ta nhìn thấy sự vật đúng vị trí của chúng. Trong hình minh hoạ,
Leonardo nhận thức thấu kính như là quả cầu ở trung tâm của nhãn cầu.
[4] Trong hội hoạ hiện đại, hai đề mục
cuối này được mô tả bằng các thuật ngữ, những sắc độ (values) và bao quanh
(envelopment).
[5]
Trong Đàm đạo về đời và tác phẩm của những hoạ sĩ xuất sắc nhất cổ đại và hiện
đại (1666) André
Félibien viết: "Phải phân chia tác phẩm dài và chăm chỉ này thành ba phần
chính. Phần thứ nhất xử lí việc bố cục bao gồm hầu như toàn thể lí thuyết về
nghệ thuật. Hai phần khác nói về hình hoạ và tô màu chỉ liên quan đến việc thực
hành và thuộc về người thợ, khiến cho những phần này không cao quý bằng phần thứ
nhất vốn hoàn toàn tự do và người ta có thể biết mà không cần là hoạ sĩ."
[6] Dante, Địa ngục, XI, 105 "Như thể nghệ thuật là con cháu của Thượng đế."
[7] Theo những truyền thuyền thống xưa,
năm giác quan xếp hạng theo thứ bậc về tính cao quý. Thị giác đứng đầu, kế đến
là thính giác. Hai giác quan này gắn bó với các bộ môn nghệ thuật của hội hoạ
và âm nhạc, và vị thế cao hơn các giác quan thuộc khứu giác, vị giác, và xúc
giác.
[8] Mathias Corvinus, Vua nước Hungary, bạn
của danh gia Sforza và nhà bảo trợ nghệ thuật và văn chương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét