Thứ Ba, 28 tháng 5, 2024

THƠ Emily Dickinson (1830-1886)

Dự án dịch toàn tập thơ của Emily Dickinson
(trang này sẽ thường xuyên được cập nhật)




[49]
Tôi chẳng mất mát gì nhiều trừ hai lần
Tất cả giờ nằm dưới lớp cỏ xanh
Đã hai lần tôi là kẻ hành khất
Đứng van xin trước cửa nhà Chúa!
Đã hai lần thiên sứ giáng xuống
Bồi thường những mất mát của tôi
Kẻ trộm! Chủ ngân hàng – Cha!
Tôi lại rơi vào cảnh nghèo khốn!
[49]
I never lost as much but twice -
And that was in the sod.
Twice have I stood a beggar
Before the door of God!
Angels - twice descending
Reimbursed my store -
Burglar! Banker - Father!
I am poor once more!

*



[50] Tôi vẫn chưa nói cho ngôi vườn biết Vì sẽ không kiềm chế được mình Giờ tôi vẫn không đủ sức Tiết lộ điều đó với con ong Tôi sẽ không nói ra trên đường phố Vì hàng quán sẽ nhìn chằm chằm vào tôi Rằng người kia quá nhút nhát ngu ngơ Làm sao dám đối mặt với cái chết. Những sườn đồi kia không biết được Bao nhiêu nơi tôi đã ngao du Cũng chẳng mách với cánh rừng thân yêu Cái ngày tôi sẽ đi Cũng đừng lẩm bẩm điều đó ở bàn Hoặc vô tình bên đường Chỉ ẩn ý bằng mật ngữ rằng Một người hôm nay sẽ ra đi.

[50] I hav’nt told my garden yet - Lest that should conquer me. I hav’nt quite the strength now To break it to the Bee – I will not name it in the street For shops w’d stare at me - That one so shy - so ignorant Should have the face to die. The hillsides must not know it - Where I have rambled so - Nor tell the loving forests The day that I shall go – Nor lisp it at the table - Nor heedless by the way Hint that within the Riddle One will walk today –

*


[54]
Nếu như tôi chết
Bạn vẫn sống tiếp
Thời gian róc rách trôi
Buổi sáng rạng rỡ
Giữa trưa nắng cháy
Như thường lệ
Lũ chim dậy sớm xây tổ
Đàn ong nhộn nhịp tất bật
Và người ta có quyền chọn sự ra đi
Thoát li doanh nghiệp dưới thế!
Khi ta nằm với hoa cúc
Vui thay khi biết rằng chứng khoán vẫn mạnh
Thương mại sẽ tiến triển
Mậu dịch cũng chóng phát đạt
Điều ấy khiến sự ra đi thanh thản
Và làm cho linh hồn bình yên hơn
Kìa xem những quý ông hoạt bát
Đang quản lí một hiện trường sôi nổi!


[54]
If I should die,
And you should live,
And time should gurgle on,
And morn should beam,
And noon should burn,
As it has usual done;
If birds should build as early,
And bees as bustling go,—
One might depart at option
From enterprise below!
’T is sweet to know that stocks will stand
When we with daisies lie,
That commerce will continue,
And trades as briskly fly.
It makes the parting tranquil
And keeps the soul serene,
That gentlemen so sprightly
Conduct the pleasing scene!

*


[61]
Xin Cha trên trời!
Đoái hoài con chuột
Bị con mèo tóm!
Xin dành một “chỗ ở” cho chuột
Trong vương quốc của ngài!

Để được rúc vào tủ chạn nhà trời
Gặm nhấm suốt ngày,
Đâu cần hay chu kì thời gian
Vẫn trang nghiêm vần xoay!


[61]
Papa above!
Regard a Mouse
O'erpowered by the Cat!
Reserve within thy kingdom
A "Mansion" for the Rat!

Snug in seraphic Cupboards
To nibble all the day,
While unsuspecting Cycles
Wheel solemnly away! 

*


[87]
Một nỗi sợ thót tim, một tia lấp lánh, một giọt nước mắt
Thức dậy vào một sớm mai
Tìm lí do người ta thức dậy,
Hít vào một bình minh khác.


[87]
A darting fear — a pomp — a tear —
A waking on a morn
To find that what one waked for,
Inhales the different dawn.

*



[88]
Ta ưa ngồi cạnh bên người đã khuất
Việc ấy trở nên vô cùng thân thương
Như ta đang níu kéo cái đã mất
Dù những thứ còn lại vẫn ở đây

Bằng phép tính số học không chính xác
Ta ước đoán số phần thưởng cho mình
Cực đại tỉ lệ thuận với suy giảm
Trong đôi mắt cơ hàn của chúng ta!


[88]
As by the dead we love to sit -
Become so wondrous dear -
As for the lost we grapple
Tho' all the rest are here -

In broken mathematics
We estimate our prize
Vast - in it's fading ratio
To our penurious eyes!


*


[113]
Chúng ta mang nặng gánh đêm
Chúng ta hân thưởng bình minh
Khoảng trống lấp đầy bằng chúc phúc
Khoảng trống cũng có thể bị khinh miệt

Đây một ngôi sao, và kia một ngôi sao
Một số lạc đường!
Đây sương mù, kia mù sương
Sau đó là ban ngày!


[113]
Our share of night to bear –
Our share of morning –
Our blank in bliss to fill
Our blank in scorning –

Here a star, and there a star,
Some lose their way!
Here a mist, and there a mist,
Afterwards - Day!

*



[165]
Con nai khi bị thương nhảy cao nhất
Tôi nghe người thợ săn nói thế
Đó chỉ là hoan lạc cực độ của cái chết
Sau cú hãm phanh là im bặt!

Tảng đá bị va đập toé lửa!
Tấm thép bị giẫm đạp bật lên!
Đôi má luôn đỏ bừng hơn
Chỉ là do sốt ran của lao bệnh

Hoan lạc là áo giáp của thống khổ
Được trang bị kĩ lưỡng
Kẻo có ai nhìn thấy máu,
Kêu lên: “Bạn bị thương!”



[165]
A Wounded Deer - leaps highest -
I've heard the Hunter tell -
'Tis but the Ecstasy of death -
And then the Brake is still!

The Smitten Rock that gushes!
The trampled Steel that springs!
A Cheek is always redder
Just where the Hectic stings!

The Smitten Rock that gushes!
The trampled Steel that springs!
A Cheek is always redder
Just where the Hectic stings!

Mirth is the Mail of Anguish -
In which it Cautious Arm,
Lest anybody spy the blood
And "you're hurt" exclaim!

*



[254]
“Hi vọng” là cánh chim
Nó đậu trong linh hồn
Hát bài ca vô ngôn
Mãi chẳng bao giờ dứt

Tiếng du dương vô cùng
Trong cuồng phong bão tố
Lao đao cánh chim nhỏ
Sưởi ấm áp bao người

Tôi nghe tiếng chim hót
Nơi vùng đất giá lạnh
Trên vùng biển xa xăm
Dù trong cảnh tuyệt cùng
Chẳng bao giờ chim hỏi
Xin tôi một vụn bánh



[254]
“Hope” is the thing with feathers -
That perches in the soul -
And sings the tune without the words -
And never stops - at all –

And sweetest - in the Gale - is heard -
And sore must be the storm -
That could abash the little Bird
That kept so many warm –

I've heard it in the chillest land -
And on the strangest Sea -
Yet, never, in Extremity.
It asked a crumb - of Me.

*


[258]
Một tia sáng xiên xiên
Trong chiều mùa đông
Ngột ngạt và trầm trọng
Như nhạc khúc giáo đường

Vết thương từ trời ban
Không để lại một ngấn tích
Chỉ những đổi thay thầm kín
Nơi ý nghĩa ẩn mình

Không ai giải thích được nó
Đó là dấu ấn của tuyệt vọng
Một nỗi thống khổ lộng lẫy
Gửi xuống từ thiên không

Khi nó đến, cảnh vật lắng nghe
Bóng tối nín thở
Khi nó đi, như khoảng cách
Trên gương mặt người chết


[258]
There's a certain Slant of light,
Winter Afternoons –
That oppresses, like the Heft
Of Cathedral Tunes –

Heavenly Hurt, it gives us –
We can find no scar,
But internal difference –
Where the Meanings, are –

None may teach it – Any –
'Tis the seal Despair –
An imperial affliction
Sent us of the Air –

When it comes, the Landscape listens –
Shadows – hold their breath –
When it goes, 'tis like the Distance
On the look of Death –

*


[280]
Tôi thấy một đám tang trong tâm trí,
Những người đến viếng tang đi tới đi lui
Rồi tiếng chân bước giậm, bước giậm mãi
Tới lúc dường như giác quan bị phá vỡ

Và khi tất cả họ đã ngồi xuống
Một nghi thức, như cái trống
Cứ gõ nhịp, gõ nhịp, cho đến khi
Thần thức tôi dường như trở nên tê liệt

Và sau đó tôi nghe thấy họ nhấc cái hộp lên
Tiếng cọt kẹt xuyên qua linh hồn tôi
Một lần nữa, cũng với những đôi ủng chì,
Rồi không trung vang lên hồi chuông

Như thể cả bầu trời là một cái chuông,
Và tồn tại chỉ còn là cái tai,
Còn tôi, với sự câm lặng, như một giống loài xa lạ
Bị đắm, bơ vơ, chốn đây

Và rồi một tấm ván lí trí bị nứt gãy,
Và tôi rơi xuống, rơi xuống
Và tôi va vào một thế giới, mỗi lần lao xuống,
Và không còn biết gì nữa sau đó


[280]
I felt a Funeral, in my Brain,
And Mourners to and fro
Kept treading – treading – till it seemed
That Sense was breaking through –

And when they all were seated,
A Service, like a Drum –
Kept beating – beating – till I thought
My Mind was going numb –

And then I heard them lift a Box
And creak across my Soul
With those same Boots of Lead, again,
Then Space – began to toll,

As all the Heavens were a Bell,
And Being, but an Ear,
And I, and Silence, some strange Race
Wrecked, solitary, here –

And then a Plank in Reason, broke,
And I dropped down, and down –
And hit a World, at every plunge,
And Finished knowing – then –

*


[288]
Tôi vô danh! Còn bạn là ai?
Bạn cũng vô danh phải không?
À, vậy chúng ta là một cặp, đừng nói ra!
Họ sẽ tuyên dương chúng ta, bạn biết mà.

Làm người nổi tiếng chán lắm!
Phô trương như con ếch
Oang oang tên tuổi mình suốt ngày
Trước vũng lầy ngưỡng mộ!


[288]
I’m Nobody! Who are you?
Are you – Nobody – too?
Then there’s a pair of us?
Don’t tell! They’d advertise – you know!
How dreary – to be – Somebody!
How public – like a Frog –
To tell one’s name – the livelong day –

To an admiring Bog! 

*


[303]
Linh hồn tự chọn đồng bạn 
Rồi đóng chặt cửa
Với cái đa số thần thánh
Từ đó không hiện diện nữa

Nàng không màng
Dù thấy cỗ xe ngựa nghênh đón
Trước cánh cổng thấp
Nàng thờ ơ
Cho dù hoàng đế có quỳ xuống
Trên tấm thảm

Tôi biết nàng từ một vương quốc đông dân
Nhưng nàng chỉ chọn một
Rồi mọi mối quan tâm khoá kín
Như bàn thạch


[303]
The Soul selects her own Society —
Then - shuts the Door -
To her divine Majority -
Present no more -

Unmoved - she notes the Chariots - pausing -
At her low Gate -

Unmoved - an Emperor be kneeling
Upon her Mat -

I've known her - from an ample nation —
Choose One -
Then - close the Valves of her attention —
Like Stone -

*


[306]
Những khoảnh khắc siêu việt của linh hồn
Xảy ra với linh hồn đơn độc
Khi bạn hữu và mọi việc trần thế
Đã mất hút vào trong vô tận

Hoặc chính linh hồn đã thăng thiên
Tới một đỉnh cao xa vời vợi
Vượt ngoài tầm nhận thức thấp hơn
So với linh hồn toàn năng

Sự siêu thoát phàm trần này
Thật hiếm có – nhưng cũng tuyệt vời
Như sự hiện hình – phụ thuộc vào
Quyền thống lĩnh trên không

Cái vĩnh hằng được khải thị
Cho một thiểu số được ưu ái
Về cái bản thể phi thường
Của sự bất tử


[306]
The Soul’s Superior instants
Occur to Her – alone –
When friend – and Earth’s occasion
Have infinite withdrawn –

Or She – Herself – ascended
To too remote a Height
For lower Recognition
Than Her Omnipotent –

This Mortal Abolition
Is seldom – but as fair
As Apparition—subject
To Autocratic Air –

Eternity’s disclosure
To favorites—a few—
Of the Colossal substance
Of Immortality 

*


[322]
Có một ngày – giữa mùa hè
Trọn vẹn dành cho tôi
Tưởng chừng chỉ dành cho các Thánh
Nơi của sự Phục sinh

Mặt trời mọc như thường lệ
Hoa vẫn cứ nở rộ
Như thể không linh hồn nào vượt qua ngày hạ chí
Điều này làm cho vạn vật mới mẻ

Thời điểm này ngôn từ gần như là sự báng bổ
Biểu tượng của một từ ngữ
Là thừa thãi – như trong bí tích
Trang phục – của Chúa chúng ta

Mỗi người là ngôi giáo đường niêm phong của nhau
Được phép hiệp thông – lần này
Để không tỏ ra quá vụng về
Trong “Tiệc của Chiên Con”

Giờ khắc trôi nhanh – như thời khắc muốn
Nắm chặt bằng đôi bàn tay tham lam
Khuôn mặt của hai con tàu – ngoảnh lại
Buộc phải cập bờ bến của nhau

Và khi tất cả thời gian tan biến
Không một thanh âm bên ngoài
Mỗi người tự buộc mình vào thập giá của nhau
Chúng ta không tạo thêm ràng buộc nào khác

Lời ước định đã là đủ – rằng chúng ta sẽ trỗi dậy
Cuối cùng – bỏ lại nấm mộ
Cho một cuộc hôn nhân mới
Được thanh tẩy – thông qua Núi Sọ của tình yêu

[322]
There came a Day—at Summer's full,
Entirely for me—
I thought that such—were for the Saints—
Where Resurrections—be—

The Sun—as common—went abroad—
The flowers—accused—blew,
As if no soul the solstice passed—
That maketh all things new.

The time was scarce profaned—by speech—
The symbol of a word
Was needless—as at Sacrament—
The Wardrobe—of our Lord—

Each was to each—the sealed church,
Permitted to commune this—time—
Lest we too awkward show—
At “Supper of the Lamb.”

The Hours slid fast—as Hours will—
Clutched tight—by gready hands—
So—faces on two Decks—look back—
Bound to opposing Lands—

And so when all the time had failed—
Without external sound—
Each—bound the other's Crucifix—
We gave no other Bond—

Sufficient troth—that we shall rise—
Deposed—at length—the Grave—
To that new Marriage—
Justified—through Calvaries of Love!


*

[441]
Lá thư này tôi gửi cho thế giới
Thế giới chưa bao giờ viết cho tôi –
Những thông điệp dung dị Mẹ Thiên Nhiên đã nói
Bằng sự uy nghi nhu mì

Thông điệp của Người được kí thác
Vào những bàn tay nào tôi chẳng biết –
Vì tình yêu Người, hỡi những đồng hương dịu dàng
Hãy phán xét tôi thật từ tâm


[441]
This is my letter to the World
That never wrote to Me—
The simple News that Nature told—
With tender Majesty

Her Message is committed
To Hands I cannot see—
For love of Her—Sweet—countrymen—
Judge tenderly—of Me

*


[442]
Chúa tạo ra cây khổ sâm bé nhỏ
Nó đã cố gắng trở thành một bông hồng
Nhưng thất bại và cả mùa hè trêu cười
Nhưng ngay trước khi trận tuyết đến
Một sinh vật màu tím mọc lên
Làm mê hoặc cả ngọn đồi

Và khi mùa hè giấu vầng trán
Sự chế nhạo đã im lặng
Trong giá lạnh nó đứng duyên dáng
Màu lam tím sẽ không xuất hiện
Cho đến khi gió bấc vẫy gọi nó
Chúa ơi, liệu tôi có rực rỡ?


[442]
God made a little Gentian
It tried - to be a Rose
And failed-and all the Summer laughed
But just before the Snows
There rose a Purple Creature
That ravished all the Hill

And Summer hid her Forehead
And Mockery - was still
The Frosts were her condition –
The Tyrian would not come
Until the North - invoke It
Creator - Shall I - bloom?

*


[449]
Tôi chết vì Cái Đẹp
Nhưng còn chưa quen trong mộ phần
Một người chết vì Sự Thật
Nằm ở gian phòng kế bên
Anh khe khẽ hỏi vì sao tôi chết?
Tôi đáp, “Vì Cái Đẹp”
“Còn tôi, vì Sự Thật – chúng tự thân là một
Vậy chúng ta là anh em”, anh nói
Và như thế, như người thân gặp nhau trong màn đêm
Chúng tôi trò chuyện gián cách hai gian phòng
Cho tới khi rêu mọc trên môi
Và phủ kín tên của chúng tôi

[449]
I died for Beauty - but was scarce
Adjusted in the Tomb
When One who died for Truth, was lain
In an adjoining Room -
He questioned softly "Why I failed"?
"For Beauty", I replied -
"And I - for Truth - Themself are One -
We Brethren are", He said -
And so, as Kinsmen, met a Night —
We talked between the Rooms -
Until the Moss had reached our lips -
And covered up - Our names – 

*


[451]
Ngoại tại từ nội tại
Nhờ đó có được tầm mức
Là công tước hay chú lùn
Tuỳ theo khí sắc trung tâm

Cái trục vi tế bất biến
Điều tiết cái bánh xe
Dù những nan hoa xoay dễ thấy hơn
Và cùng lúc bụi tung

Cái bên trong vẽ cái bên ngoài
Bằng bút cọ không dùng tay
Bức tranh triển hiện đúng như
Cái dấu ấn bên trong

Trên bức vẽ động mạch tinh tế
Một gò má một vầng trán có lẽ
Bí mật của ngôi sao trong hồ
Mắt ngoài không phải dễ biết.


[451]
The Outer - from the Inner
Derives it's Magnitude -
'Tis Duke, or Dwarf, according
As is the central mood –

The fine - unvarying Axis
That regulates the Wheel -
Though Spokes - spin - more conspicuous
And fling a dust - the while.

The Inner - paints the Outer -
The Brush without the Hand -
It's Picture publishes - precise -
As is the inner Brand –

On fine - Arterial Canvas -
A Cheek - perchance a Brow -
The Star's whole secret - in the Lake -
Eyes were not meant to know.

*


[478]
Tôi không có thời gian để ghét
Bởi nấm mộ sẽ ngăn cản tôi
Mà cuộc đời quá ngắn
Làm sao đủ cho thù hận

Tôi cũng không có thời gian để yêu
Tuy nhiên sẽ cần phải vất vả
Một chút tân toan với tình yêu
Tôi cho vậy là đủ sức mình


[478]
I had no time to Hate—
Because
The Grave would hinder Me—
And Life was not so
Ample I
Could finish—Enmity—

Nor had I time to Love—
But since
Some Industry must be—
The little Toil of Love—
I thought
Be large enough for Me—

*


[465]
Phút lâm chung,
tôi nghe thấy tiếng con nhặng vo ve
Sự tĩnh lặng trong căn phòng
Giống như không khí tĩnh lặng
Trước khi bão tố ập xuống

Những con mắt vây quanh đã khô lệ
Và mọi hơi thở dồn lại
Dành cho giây phút cuối cùng
Khi thần chết giá lâm trong căn phòng

Tôi đã di nguyện những kỉ vật của mình
Trao đi những gì tôi có thể
Nhưng rồi vào chính lúc đó
Một con nhặng đột nhiên chen vào

Cái đốm xanh ấy bấp bênh vo ve
Vòng vèo giữa ánh sáng và tôi
Và rồi những ô cửa đóng sầm
Và rồi tôi không còn thấy gì nữa

[465]
I heard a Fly buzz – when I died –
The Stillness in the Room
Was like the Stillness in the Air –
Between the Heaves of Storm –

The Eyes around – had wrung them dry –
And Breaths were gathering firm
For that last Onset – when the King
Be witnessed – in the Room –

I willed my Keepsakes – Signed away
What portion of me be
Assignable – and then it was
There interposed a Fly –

With Blue – uncertain stumbling Buzz –
Between the light – and me –
And then the Windows failed – and then
I could not see to see –

*



[501]
Thế giới này không phải là sự kết luận
Có một giống loài vượt ra ngoài
Vô hình, như âm nhạc
Nhưng xác thực, như âm thanh

Nó vẫy gọi, và nó bối rối
Triết học, không biết rõ
Và qua một câu đố, cuối cùng
Sự khôn ngoan, phải ra đi

Để đoán nó, các nhà thông thái lúng túng
Để có được nó, con người phải chịu đựng
Sự khinh miệt của các thế hệ
Và sự đóng đinh, phơi bày ra

Đức tin trôi tuột, cười cợt chế nhạo
Đỏ mặt, nếu có ai nhìn thấy
Hái một nhánh chứng cứ
Và hỏi đường chiếc chong chóng gió

Nhiều điệu bộ khoa trương, từ bục giảng
Tiếng hô Hallelujah rền vang mạnh mẽ
Thuốc mê không làm dịu được chiếc răng
Đang gặm nhấm linh hồn


[501]
This World is not Conclusion.
A Species stands beyond —
Invisible, as Music —
But positive, as Sound —

It beckons, and it baffles —
Philosophy — don’t know —
And through a Riddle, at the last —
Sagacity, must go —

To guess it, puzzles scholars —
To gain it, Men have borne
Contempt of Generations
And Crucifixion, shown —

Faith slips — and laughs, and rallies —
Blushes, if any see —
Plucks at a twig of Evidence —
And asks a Vane, the way —

Much Gesture, from the Pulpit —
Strong Hallelujahs roll —
Narcotics cannot still the Tooth
That nibbles at the soul —

*


[511]
Giả sử anh đến vào mùa thu,
Em sẽ quét đi mùa hè
Với nửa nụ cười nửa hắt hủi,
Như bà nội trợ xua một con ruồi

Giả sử một năm nữa gặp anh,
Em sẽ cuộn mỗi tháng thành quả bóng
Và đặt chúng vào từng ngăn kéo riêng,
Cho tới đúng kì hẹn.

Nếu như hàng thế kỉ bị trì hoãn,
Em sẽ đếm chúng trên bàn tay,
Cứ bớt mãi tới khi từng ngón tay em rơi xuống
Vào vùng đất hoang liêu.

Nếu chắc rằng, sau khi kiếp sống này chấm dứt
Anh và em gặp được nhau
Em sẽ vứt bỏ cuộc đời như một mảnh vỏ,
Và ôm lấy vĩnh hằng.

Nhưng giờ đây, không thể nào biết
Đôi cánh dài bất định của thời gian
Như con ong tinh quái giày vò,
Chẳng biết nó sẽ đốt khi nào.


[511]
If you were coming in the fall,
I ’d brush the summer by
With half a smile and half a spurn,
As housewives do a fly.

If I could see you in a year,
I ’d wind the months in balls,
And put them each in separate drawers,
Until their time befalls.

If only centuries delayed,
I ’d count them on my hand,
Subtracting till my fingers dropped
Into Van Diemen’s land.

If certain, when this life was out,
That yours and mine should be,
I ’d toss it yonder like a rind,
And take eternity.

But now, all ignorant of the length
Of time’s uncertain wing,
It goads me, like the goblin bee,
That will not state its sting. 

*


[595]
Như ngọn đèn chân
hùng vĩ cháy đỏ
Dưới những gốc cây
Những màn kịch xa cuối ngày
Đang diễn ra

Cả vũ trụ tán thưởng
Trong khi vị đứng đầu đám khán giả
Khoác áo hoàng bào lộng lẫy
Khiến tôi nhận ra Chúa


[595]
Like Mighty Foot Lights – burned the Red
At Bases of the Trees
The far Theatricals of Day
Exhibiting – to These –

'Twas Umverse-that did applaud
While Chiefest-of the Crowd
Enabled by his Royal Dress
Myself distinguished God

*


[583]
Con cóc có thể chết vì ánh sáng
Cái chết là bình quyền
Của cóc và người
Của bá tước và chồn
Chẳng phải đặc quyền
Vậy sao lại vênh vang?
Tính ưu việt của con muỗi
Cũng lớn như của bạn

Chính đời sống là điều khác biệt
Như thử rượu ngon
Chẳng cần chai, chẳng cần thùng
Bồ đào Rhine trắng
Vang đỏ Ruby nào của tôi?


[583]
A Toad, may die of Light -
Death is a normal right
Of Toads and Men -
Of Conte and Pulce
The privilege -
Why put on airs, then?
The Midge's record is as great as yours –

Life - is a different Thing -
Measure the Wine like this -
Stripped of the Fiasco - Stripped of the Barrel -
Pure Rhine -
Which Ruby is mine?

*

[632]
Tâm trí rộng hơn bầu trời
Vì khi đặt cạnh nhau
Cái này có thể chứa cái kia
Thật dễ dàng chứa luôn cả bạn

Tâm trí sâu hơn đại dương
Vì khi so sánh, trời xanh với nước biếc
Cái này sẽ hấp thu cái kia
Như miếng bọt biển thấm hút thùng nước

Tâm trí chính là trọng lượng của Chúa
Vì khi nhấc lên, tám lạng với nửa cân
Và nếu chúng có sự sai biệt
Cũng như âm tiết khác với âm thanh

[632]
The Brain — is wider than the Sky —
For — put them side by side —
The one the other will contain
With ease — and You — beside —

The Brain is deeper than the sea —
For — hold them — Blue to Blue —
The one the other will absorb —
As Sponges — Buckets — do —

The Brain is just the weight of God —
For — Heft them — Pound for Pound —
And they will differ — if they do —
As Syllable from Sound —

*



[657]
Tôi sống trong Khả tính
Một ngôi nhà đẹp hơn văn xuôi
Vô số cửa sổ mở ra
Vô vàn cánh cửa ra vào

Những gian phòng tuyết tùng
Mắt phàm không thể thấy
Với mái lợp vĩnh cửu
Vòm mái trời bất tận

Khi những vị khách khả ái tới
Công việc này đây của tôi
Mở rộng đôi bàn tay nhỏ hẹp
Để thu thập thiên đường

[657]
I dwell in Possibility –
A fairer House than Prose –
More numerous of Windows –
Superior – for Doors –

Of Chambers as the Cedars –
Impregnable of eye –
And for an everlasting Roof
The Gambrels of the Sky –

Of Visitors – the fairest –
For Occupation – This –
The spreading wide my narrow Hands
To gather Paradise –

*



[712]
Bởi tôi không thể dừng lại chờ Tử thần
Ngài đã ân cần dừng lại đón tôi
Trên cỗ xe chở chỉ hai chúng tôi
Cùng sự Bất tử

Chúng tôi đi chậm rãi – ngài không vội vàng
Và rồi tôi cất đi
Mọi công việc lẫn sự nghỉ ngơi của mình,
Vì sự nhã nhặn của ngài

Chúng tôi đi ngang qua trường học, vào giờ giải lao
Lũ trẻ tạo một vòng tròn trò chơi
Chúng tôi băng qua cánh đồng lúa chín
Chúng tôi băng qua bóng hoàng hôn

Đúng hơn, bóng hoàng hôn băng qua chúng tôi
Sương đọng run rẩy và ướt lạnh
Vì chiếc áo choàng tôi mặc mỏng như lụa
Chiếc khăn quàng thì mềm như tơ

Chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà
Nó dường như nhô lên từ mặt đất
Hầu như không thể thấy mái
Gờ thì chôn trong lòng đất

Kể từ đó, hàng thế kỉ trôi qua
Nhưng cảm thấy ngắn hơn một ngày
Cũng là dự đoán ban đầu của tôi
Đầu ngựa hướng tới cõi Vĩnh hằng

[712]
Because I could not stop for Death –
He kindly stopped for me –
The Carriage held but just Ourselves –
And Immortality.

We slowly drove – He knew no haste
And I had put away
My labor and my leisure too,
For His Civility –

We passed the School, where Children strove
At Recess – in the Ring –
We passed the Fields of Gazing Grain –
We passed the Setting Sun –

Or rather – He passed Us –
The Dews drew quivering and Chill –
For only Gossamer, my Gown –
My Tippet – only Tulle –

We paused before a House that seemed
A Swelling of the Ground –
The Roof was scarcely visible –
The Cornice – in the Ground –

Since then – 'tis Centuries – and yet
Feels shorter than the Day
I first surmised the Horses' Heads
Were toward Eternity –

*


[737 ]
Trăng vẫn còn là chiếc cằm vàng
Mới một vài đêm trước
Giờ gương mặt nàng tròn vành vạnh
Nhìn xuống dưới trần gian

Vầng trán nàng có mái tóc vàng óng
Gò má là viên ngọc xanh được mài giũa
Ánh mắt nàng giọt sương mùa hạ
Những thứ hình dung nhất mà tôi thấy

Đôi môi hổ phách chẳng bao giờ mở
Nhưng nụ cười phải làm sao
Để nàng trao tặng người bạn nào
Nếu đó là ý chí ánh bạc của nàng

Và thật là một đặc ân
Cho ngôi sao dù ngươi ở xa nhất
Vì nhất định nàng sẽ đi cung đường
Gần bên cửa cung điện của ngươi

Chiếc mũ của nàng là vòm trời
Những thung lũng là đôi hài
Bao ngôi sao ngọc đính trên thắt lưng nàng
Và chiếc áo choàng màu thiên thanh


[737]
The Moon was but a Chin of Gold
A Night or two ago —
And now she turns Her perfect Face
Upon the World below —

Her Forehead is of Amplest Blonde —
Her Cheek — a Beryl hewn —
Her Eye unto the Summer Dew
The likest I have known —

Her Lips of Amber never part —
But what must be the smile
Upon Her Friend she could confer
Were such Her Silver Will —

And what a privilege to be
But the remotest Star —
For Certainty She take Her Way
Beside Your Palace Door —

Her Bonnet is the Firmament —
The Valleys — Her Shoe —
The Stars — the Trinkets at Her Belt —
Her Dimities — of Blue —

*


[754]
Cuộc đời tôi - một khẩu súng đã nạp đạn
Dựng vào góc tường, cho đến một ngày
Chủ nhân đi ngang - nhìn thấy
Rồi mang tôi đi

Giờ chúng tôi lang thang trong rừng có chủ quyền
Giờ chúng tôi săn hươu nai
Mỗi lần tôi lên tiếng thay chủ nhân
Núi non đáp lời ngay

Và tôi nở nụ cười - tia sáng thân ái đó
Trong thung lũng rực sáng
Như khuôn mặt núi Vesuvius
Từng để khoái lạc của nó phun trào

Khi đêm xuống - một ngày đẹp hoàn tất
Tôi bảo vệ chiếc đầu của chủ nhân
Tốt còn hơn ngay cả khi chia sẻ
Chiếc gối lông vịt lún sâu mềm mại

Với kẻ thù của chủ nhân - tôi là kẻ thù chí tử
Không đợi tới khi hắn nhúc nhích
Tôi đã giáng con mắt vàng vào hắn
Hoặc nhấn mạnh ngón cái

Dù so với chủ nhân tôi có thể sống lâu hơn
Nhưng ngài hẳn phải sống lâu hơn tôi
Vì tôi chỉ có quyền giết
Mà không có quyền chết


[754]
My Life had stood - a Loaded Gun –
In Corners – till a Day
The Owner passed – identified –
And carried Me away –

And now We roam in Sovereign Woods –
And now We hunt the Doe –
And every time I speak for Him
The Mountains straight reply –

And do I smile, such cordial light
Upon the Valley glow –
It is as a Vesuvian face
Had let its pleasure through

And when at Night – Our good Day done –
I guard My Master’s Head –
‘Tis better than the Eider Duck’s
Deep Pillow - to have shared –

To foe of His – I’m deadly foe –
None stir the second time –
On whom I lay a Yellow Eye –
Or an emphatic Thumb –

Though I than He – may longer live
He longer must – than I –
For I have but the power to kill,
Without – the power to die -

*


[816]
Đòn Tử cũng là đòn Sinh với một số người
Có người không thật sự sống cho tới khi chết đi
Có người đã sống, đã qua cửa tử, nhưng sau khi
Họ chết đi, sự Sống mới khởi đầu.

*

[816]
A Death blow is a Life blow to Some
Who till they died, did not alive become—
Who had they lived, had died but when
They died, Vitality begun.

*


[822]
Thần thức này nhận biết
Láng giềng và mặt trời
Nó biết về cái chết
Và duy nhất mình nó

Vượt qua được biên giới
Chia cắt giữa kinh nghiệm
Và thực nghiệm sâu thẳm
Định sẵn cho con người

Sao cho tự đủ đầy
Sẽ là những thuộc tính
Trong tự thân nó thôi
Rồi sẽ được tìm ra

Linh hồn mang bản án
Phiêu lưu vào bản ngã
Lẽo đẽo con chó săn
Là bóng hình thân phận

[822]
This Consciousness that is aware
Of Neighbors and the Sun
Will be the one aware of Death
And that itself alone

Is traversing the interval
Experience between
And most profound experiment
Appointed unto Men—

How adequate unto itself
Its properties shall be
Itself unto itself and none
Shall make discovery.

Adventure most unto itself
The Soul condemned to be—
Attended by a single Hound
Its own identity.

*


[883]
Các nhà thơ chỉ thắp đèn
Rồi họ rời đi
Tim bấc được họ khêu
Nếu ánh hoạt quang của thơ
Vốn toả chiếu như mặt trời
Mỗi thời đại một lăng kính
Khuếch tán
Chu vi của chúng

[883]
The Poets light but Lamps—
Themselves—go out—
The Wicks they stimulate—
If vital Light
Inhere as do the Suns—
Each Age a Lens
Disseminating their
Circumference—

*


[887]
Chúng ta không mặc vừa tình yêu
như những thứ khác
Và cất nó vào trong ngăn kéo
Cho tới khi có màn trình diễn thời trang xưa
Như y phục mà ông bà ta đã mặc

[887]
We outgrow love like other things
And put it in the Drawer -
Till it an Antique fashion shows -
Like Costumes Grandsires wore.

*


[853]
Khi một người từ bỏ đời sống của mình
Chia tay với những gì còn lại
Cảm giác thật dễ dàng
Giống như ban ngày buông xả
Hoàn toàn về cõi Tây phương

Những đỉnh núi nán lại sau cùng
Vẫn còn nuối tiếc
Lấp loáng như ánh sáng tím
Đọng trên thác nước

[853]
When One has given up One's life
The parting with the rest
Feels easy, as when Day lets go
Entirely the West

The Peaks, that lingered last
Remain in Her regret
As scarcely as the Iodine
Upon the Cataract.

[903]
Tôi giấu mình trong đoá hoa 
Đoá hoa cài trên ngực người,
Người nào ngờ cũng đã cài tôi
Mà những thiên sứ đều biết.

Tôi giấu mình trong đoá hoa,
Hoa héo dần trong chiếc bình người,
Người nào ngờ, có thấu được tôi
Cơ hồ một nỗi niềm cô tịch.

[903]
I hide myself within my flower,
That wearing on your breast,
You, unsuspecting, wear me too --
And angels know the rest.
I hide myself within my flower,
That, fading from your vase,
You, unsuspecting, feel for me
Almost a loneliness.

*



[917]
Tình yêu – tiền thân của đời sống
Hậu thân – của cái chết
Khởi điểm của sáng tạo, và
Nguyên mẫu của trần gian.


[917]
Love – is anterior to Life –
Posterior – to Death –
Initial of Creation, and
The Exponent of Earth –

*

[919]
Nếu tôi ngăn được một trái tim tan vỡ,
Tôi đã không sống đời vô ích;
Nếu tôi làm vơi được khổ

đau một đời người,
Hoặc làm nguôi ngoai một cơn đau,
Hoặc cứu con chim cổ đỏ ngất tỉnh
Đặt nó trở về tổ ấm,
Tôi đã không sống đời vô ích.


[919]
If I can stop one heart from breaking,
I shall not live in vain;
If I can ease one life the aching,
Or cool one pain,
Or help one fainting robin
Unto his nest again,
I shall not live in vain.

*

[1045]
Thiên nhiên dùng màu vàng
Hiếm hơn những sắc màu khác
Vì màu vàng dành hết cho hoàng hôn
Hào phóng màu xanh lam
Lãng phí đỏ son như đàn bà
Thiên nhiên ban màu vàng
Thật dè sẻn và chọn lọc
Như những lời của người yêu

[1045]
Nature rarer uses Yellow
Than another Hue.
Saves she all of that for Sunsets
Prodigal of Blue
Spending Scarlet, like a Woman
Yellow she affords
Only scantly and selectly
Like a Lover's Words 

*

[1068]
Xa hơn tiếng chim hót mùa hè,
Cảm thương chốn cỏ hương đồng nội,
Một vương quốc nhỏ đang cử hành
Một thánh lễ kín đáo lặng lẽ

Chẳng hề thấy một nghi thức nào
Mà xiết bao ân điển du dương
Đã trở nên một phép chiêm niệm,
Nỗi tịch mịch càng thêm bao la.

Vào giữa trưa rất mực cổ kính
Khi tháng Tám leo lét lụi tàn,
Trỗi lên bài thánh ca chiều u linh,
Biểu hiện cho sự yên nghỉ.

Lời nguyện cầu vẫn chưa tắt lịm
Không một nếp nhăn trên vầng sáng
Thế nhưng một sự biến hoá kì diệu*
Giờ đã thăng hoa vào cõi tự nhiên.


[1068]
Further in Summer than the Birds
Pathetic from the Grass
A minor Nation celebrates
Its unobtrusive Mass.

No Ordinance be seen
So gradual the Grace
A pensive Custom it becomes
Enlarging Loneliness.

Antiquest felt at Noon
When August burning low
Arise this spectral Canticle
Repose to typify

Remit as yet no Grace
No Furrow on the Glow
Yet a Druidic Difference
Enhances Nature now.

*


[1078]
Trong ngôi nhà tất bật
Buổi sáng sau cái chết
Là việc trang trọng nhất
Thực hiện trên trần gian –

Trái tim được cọ rửa
Tình yêu được cất đi
Sẽ không dùng tới nữa
Cho đến ngày vĩnh hằng.


[1078]
The Bustle in a House
The Morning after Death
Is solemnest of industries
Enacted upon Earth –

The Sweeping up the Heart
And putting Love away
We shall not want to use again
Until Eternity.

*

[1129]
Nói hết Sự Thật nhưng nói uyển chuyển
Thành công nằm ở con đường vòng
Quá chói loà với niềm vui yếu đuối
Nếu Sự Thật phi thường đột ngột tới

Như trẻ con giật mình sợ sấm sét
Cần vỗ về lời giải thích ôn hoà
Sự Thật phải dần dần chiếu toả
Nếu không hết thảy ta sẽ mù


[1129]
Tell all the Truth but tell it slant –
Success in Circuit lies
Too bright for our infirm Delight
The Truth’s superb surprise

As Lightening to the Children eased
With explanation kind
The Truth must dazzle gradually
Or every man be blind – 

*


[1147]
Sau một trăm năm,
Còn ai biết nơi này
Chốn xưa tang thương,
Im lìm tựa như bình yên.

Cỏ dại mọc đắc thắng,
Những người lạ dạo quanh
Nhẩm đọc tên mộ chí
Cô độc của tiền nhân.

Gió đồng hoang mùa hè
Hồi tưởng nẻo xưa,
Bản năng nhặt chìa khoá
Mà kí ức đánh rơi.

[1147]
After a hundred years
Nobody knows the place,—
Agony, that enacted there,
Motionless as peace.

Weeds triumphant ranged,
Strangers strolled and spelled
At the lone orthography
Of the elder dead.

Winds of summer fields
Recollect the way,—
Instinct picking up the key
Dropped by memory.

*



[1240]
Ăn xin trước cửa danh vọng
Không khó để được cho
Nhưng bánh mì là thứ thiêng liêng hơn
Được đưa ra rồi bị chối từ


[1240]
The Beggar at the Door for Fame
Were easily supplied
But Bread is that Diviner thing
Disclosed to be denied

*



[1247]
Như sấm sét chồng chất đến tận cùng
Rồi tới lúc sụp đổ ầm tráng lệ
Trong khi mọi thứ được sáng tạo đều ẩn tàng
Đây - có thể là Thơ ca
Hoặc Tình yêu - cả hai đến đồng thời
Mà chúng ta cũng không thể chứng minh
Trải nghiệm một trong hai điều ấy sẽ là tiêu huỷ mình
Bởi không ai nhìn thấy Chúa mà tồn tại


[1247]
To pile like Thunder to its close
Then crumble grand away
While Everything created hid
This - would be Poetry

Or Love - the two coeval come
We both and neither prove
Experience either and consume
For None see God and live

*


[1263]
Không con tàu nào sánh được với cuốn sách
Đem ta tới những xứ sở xa xôi
Cũng không có tuấn mã nào đuổi kịp
Vó câu của một trang thơ

Đây là chuyến du hành
Ngay cả người nghèo nhất cũng khả thi
Mà không chịu phí tổn nào
Một cỗ xe đơn sơ xiết bao
Chở theo tâm hồn người

[1263]
There is no Frigate like a Book
To take us Lands away
Nor any Coursers like a Page
Of prancing Poetry–This
Traverse may the poorest take
Without oppress of Toll –
How frugal is the Chariot
That bears the Human Soul –


*




[1379]

Lầu đài dưới ao

Ếch bỏ lại đó

Nó nhảy lên khúc gỗ

Rồi cất giọng tuyên bố

Khán thính giả hai thế giới

                                                  Trừ tôi ra                                                  

Nhà hùng biện của tháng Tư

Hôm nay khàn giọng

Dưới chân ếch đeo găng

Nó không có tay

Miệng hùng hồn nổi bong bóng

Như bọt danh vọng

Trước tiếng vỗ tay

Khi phát hiện bạn đang rầu rĩ

Desmothenes biến mất

Vào làn nước xanh


[1319]

His mansion in the pool
The Frog forsakes —
He rises on a Log
And statements makes —
 

His Auditors two Worlds
Deducting me —
The Orator of April
Is hoarse Today —

His Mittens at his Feet
No Hand hath he —
His eloquence a Bubble
As Fame should be —

Applaud him to discover
To your chagrin
Demosthenes has vanished
In Waters Green —

*



[1419]
Một ngày tưởng yên bình
Đất trời như vô sự
Cho tới lúc tà dương
Chợt oà vỡ một màu đỏ
Chảy loang thành dòng
Về phía tây thành phố

Nhưng khi đất rung chuyển
Nhà cửa biến mất trong tiếng gầm
Chôn giấu cùng nhân loại
Ta kinh hoàng hiểu ra
Như người xưa đã thấy sự tan biến
Một đoá anh túc trong mây


1419
It was a quiet seeming Day
There was no harm in earth or sky
Till with the closing sun
There strayed an accidental Red
A Strolling Hue, one would have said
To westward of the Town

But when the Earth began to jar
And Houses vanished with a roar
And Human Nature hid
We comprehended by the Awe
As those that Dissolution saw
The Poppy in the Cloud

*





[1448]
Những bước chân mềm mại của sâu bướm
Tôi thấy nó trên bàn tay mình
Từ một thế giới bằng nhung nào nó tới
Mà giữ được sự êm ái đến thế
Hành trình vô thanh của nó thật quyến rủ
Con mắt trần tục chậm chạp của tôi
Dán chặt vào công việc của nó
Nó có ích cho tôi không



[1448]
How soft a Caterpillar steps—
I find one on my Hand
From such a velvet world it comes
Such plushes at command
Its soundless travels just arrest
My slow— terrestrial eye—
Intent upon its own career—
What use has it for me—

*



[1437]
Một giọt sương thôi cũng đủ
Thoả lòng một chiếc lá
Và rồi thầm nhủ:
“Định mệnh ôi bao la”
“Sinh mệnh sao nhỏ nhoi”!

Mặt trời đi làm
Ngày ra ngoài chơi
Đâu còn thấy nữa
Gương mặt giọt sương

Có phải ban ngày bắt cóc
Hay mặt trời làm bay hơi
Đi vào lòng biển khơi
Vĩnh viễn không hay biết

Tới nay đã chứng kiến
Bi kịch thê lương đó
Do bất an biến chuyển
Của số phận thoáng qua



[1437]
A Dew sufficed itself —
And satisfied a Leaf
And felt "how vast a destiny" —
"How trivial is Life!"

The Sun went out to work —
The Day went out to play
And not again that Dew be seen
By Physiognomy

Whether by Day Abducted
Or emptied by the Sun
Into the Sea in passing
Eternally unknown

Attested to this Day
That awful Tragedy
By Transport's instability
And Doom's celerity.


*


[1463]

Con đường mờ dần

Với bánh xe xoay vần

Một hồi thanh bích ngọc

Một dải son yên chi

Mọi đoá hoa trong bụi cây

Cùng ngẩng đầu ngước mặt 

Có lẽ, cánh thư ấy 

từ xứ Tunis

Trong hành trình ung dung 

một sớm mai


A Route of Evanescence,

With a revolving Wheel –

A Resonance of Emerald

A Rush of Cochineal –

And every Blossom on the Bush

Adjusts it’s tumbled Head –

The Mail from Tunis – probably,

An easy Morning’s Ride –

*


[1472]
Ngắm bầu trời mùa hè
Là thấy Thơ, dù chẳng bao giờ nằm trong sách
Những bài thơ đích thực thì trốn biệt



[1472 ]
To see the Summer Sky
Is Poetry, though never in a Book it lie —
True Poems flee —

*


[1506]
Mùa hè ngắn hơn những mùa khác
Cuộc đời còn ngắn hơn mùa hè
Bảy mươi năm tiêu qua vèo
Như đồng đô la duy nhất

Giờ nỗi buồn lịch sự ở lại
Nhìn xem chúng ta hắt hủi nó
Có bằng như ghét bỏ niềm vui
Có bằng như giữ lại nó


[1506]
Summer is shorter than any one-
Life is shorter than Summer-
Seventy Years is spent as quick
As an only Dollar-

Sorrow-now-is polite-and stays-
See how well we spurn him-
Equally to abhor Delight-
Equally retain him-

*



[1544]
Ai không tìm thấy thiên đường dưới trần gian
Cũng sẽ không tìm thấy nơi thượng giới
Bởi các thiên sứ luôn thuê nhà làm xóm giềng chúng ta,
Bất kể chúng ta di chuyển tới đâu


[1544 ]
Who has not found the Heaven- below
Will fail of It above
For Angels rent the House next ours,
Wherever we remove

*


[1551]

Những kẻ lìa trần, bấy giờ

Họ biết phải đi đâu

Họ đến bên cánh tay phải của Chúa

Cánh tay đó giờ đã bị cắt cụt

Và không tìm thấy Chúa đâu


Sự từ bỏ đức tin

Làm cho hành vi trở nên nhỏ nhen

Thà là đốm lửa ma trơi

Còn hơn không có chút ánh sáng nào


[1551] 

Those—are about to die

Know where they went

They have come to the Right Hand of God—

Now the hand has been amputated

And God cannot be found—

 

The abandonment of faith

Make the behavior small—

Better than an ignis fatuus

Better than no light at all—

*



[1587]
Ông đã ăn uống những lời quý giá
Tinh thần của ông trở nên mạnh mẽ
Ông không còn ý thức mình nghèo khổ
Cũng không để ý thân thể là cát bụi

Ông nhảy múa suốt tháng ngày ảm đạm
Và di tặng của đôi cánh này
Chỉ là một cuốn sách
Ôi tự do của tinh thần cất cánh!


[1587]
He ate and drank the precious words,
His spirit grew robust;
He knew no more that he was poor,
Nor that his frame was dust.

He danced along the dingy days,
And this bequest of wings
Was but a book. What liberty
A loosened spirit brings!

*


[1614]
Miễn cưỡng chia tay người
Rằng chúng ta chưa từng gặp nhau
Đôi khi trái tim như kẻ lạ
Nhớ rằng nó bị lãng quên


[1614]
Parting with Thee reluctantly,
That we have never met,
A Heart sometimes a Foreigner,
Remembers it forgot – 

*

[1678]
Nguy hiểm là một tài sản
Thật tốt nếu kham được
Nguy hiểm đánh tan sự thoả mãn
Ở đó có cái cơ bản
Phát sinh sự kinh ngạc
Khi tìm kiếm những góc khuất của bản tính con người
Tinh khiết như lửa



Peril as a Possession
'Tis good to bear
Danger disintegrates satiety
There's Basis there -
Begets an awe
That searches Human Nature's creases
As clean as Fire

*


[1711]
Một khuôn mặt thiếu tình yêu và ân sủng,
Một khuôn mặt hận thù, khắc nghiệt, và đắc thắng
Một khuôn mặt cùng với một hòn đá
Ắt sẽ cảm thấy hợp nhau
Như thể là người quen cũ
Lần đầu tiên cùng nhau ném.


[1711]
A face devoid of love or grace,
A hateful, hard, successful face,
A face with which a stone
Would feel as thoroughly at ease
As were they old acquaintances
First time together thrown.


[1732]
Đời tôi đã khép hai lần trước khi đóng lại
Nhưng vẫn nấn ná chờ xem
Liệu cõi vĩnh cửu có hé lộ
Cho tôi biến cố thứ ba

Ôi lớn lao, vô vọng tư nghì
Như hai lần trước xảy đến.
Chia li là mọi thứ ta biết về thiên đường
Và mọi thứ ta cần từ địa ngục.



[1732]
My life closed twice before its close –
It yet remains to see
If Immortality unveil
A third event to me

So huge, so hopeless to conceive
As these that twice befell.
Parting is all we know of heaven,
And all we need of hell.

*



[1755]

Để tạo nên một thảo nguyên

Cần có cây cỏ ba lá và con ong

Một cây cỏ ba lá và một con ong,

Và sự mơ mộng.

Chỉ cần sư mơ mộng là đủ,

Nếu thiếu ong.


[1755]

To make a prairie

it takes a clover and one bee,

One clover, and a bee,

And revery.

The revery alone will do,

If bees are few.


*

[1774]
Hạnh phúc tự biến tan
Không để lại dấu vết
Khổ đau không có cánh
Quá nặng để bay đi



[1774]
Too happy Time dissolves itself
And leaves no remnant by -
'Tis Anguish not a Feather hath
Or too much weight to fly -

*


[1775]
Trái đất có nhiều cung bậc
Nơi nào không giai điệu
Là bán đảo không tên
Vẻ đẹp là chứng cứ của tự nhiên

Thế nhưng để làm chứng cho đất
Làm chứng cho biển
Là con dế mèn
Bài bi ca tuyệt đích của tự nhiên



[1775 ]
The earth has many keys –
Where melody is not
Is the unknown peninsula –
Beauty is nature's fact

But witness for her land –
And witness for her sea –
The cricket is her utmost
Of elegy to me