Robert L. Brown
Hà Vũ Trọng lược dịch
Sau khi vượt qua mười ngàn thế giới, đấng Chiến Thắng đã tạo ra con đường Kinh hành làm toàn bằng vàng ở bên cạnh con đường Kinh hành làm bằng châu báu.
Trong việc đi kinh hành ấy, vị thông thái, bậc Toàn Giác, đấng Chiến Thắng, rực rỡ với ba mươi hai tướng trạng cao quý, đã đi kinh hành ở con đường Kinh hành.
Tất cả chư thiên đã tụ hội lại rải rắc xuống bông hoa mạn-đà-la, hoa sen, hoa san hô thuộc về cõi trời (tán thán) sự việc đi kinh hành (của đức Phật).
- Tạng kinh Tiểu bộ, “Phật sử” (Buddhavasam)
Cuộc đời và giáo pháp của Đức Phật Sakyamuni được miêu tả trong nghệ thuật liên quan đến một hành vi đặc biệt quan trọng của ngài: việc đi kinh hành, ở đây là sự thể hiện về cơ thể học của Đức Phật trong tư thế bước đi. Nghệ thuật Phật giáo bắt đầu sớm nhất vào khoảng thế kỉ thứ nhất trước CN, sau khi phát minh ra hình tượng Đức Phật nhân hình (anthropomorphic), đôi khi đã mô tả một cách tượng trưng việc đi kinh hành của ngài, tuy vậy lại hiếm khi thể hiện thực sự việc kinh hành và cũng chưa bao giờ cho thấy tư thế này là một hình ảnh chủ yếu trong thánh tượng, và cũng rất hiếm thấy kể cả trong những phù điêu thuật lại cuộc đời ngài.
Sáu năm sau khi Đức Sakyamuni sống đời nhà khổ hạnh lang thang, ngài đạt sự Giác ngộ thành Phật, giảng dạy suốt 45 năm và qua đời ở tuổi 80. Kinh sách nêu ra nhiều chi tiết đời ngài trong thời kì 51 năm này, từ khi quy y cho đến khi nhập diệt, tất cả đều nhấn mạnh đến việc kinh hành qua nhiều phương cách. Ngài đi hết thị trấn này đến thị trấn khác cùng với các đệ tử để giảng dạy giáo lí. Một số những sự kiện quan trọng trong đời ngài thường mang tính phép lạ đã xảy ra trong lúc ngài kinh hành. Chúng ta nhìn thấy nhiều hình tượng trong nghệ thuật, như sự giáng xuống từ cõi trời Đế Thích (Indra), việc chinh phục con voi ở Nalagiri, việc đệ trình của Rahula, và nhiều sự kiện khác. Cuối cùng, không chỉ nhiều giai đoạn cuộc đời xảy ra trong khi Đức Phật kinh hành, mà trong chính những dấu chân của ngài cũng có thể tạo ra những phép lạ. Khi Sakyamuni giác ngộ tại Bodh Gaya, ngài đã có chọn lựa để đi vào Niết bàn tức khắc, hoặc chọn giảng dạy giáo Pháp trên trần gian. Thần Brahma đã khẩn cầu ngài: “Hãy trỗi dậy, hỡi bậc anh hùng… xin hãy bước đi trên thế giới. Hỡi đấng Chí tôn, xin hãy rao giảng giáo Pháp.”(Majjhimankaya)
Như vậy, sự kinh hành có thể xem là một trong những đặc trưng của Đức Phật Sakyamuni và là hành vi trung tâm về nhiều phương diện đối với chính Phật giáo.
Vào thế kỉ 13 khi Phật giáo hầu như bị Ấn Độ bỏ rơi, thì ở Đông Nam Á, đặc biệt tại Thái Lan hình tượng Đức Phật kinh hành đã được phát minh và trở nên phổ biến. Tại sao và bằng cách nào Đức Phật kinh hành đã được phát minh?
Khoảng bốn thế kỉ sau khi Đức Phật nhập diệt, sự hiện diện của ngài trong nghệ thuật được thể hiện qua những biểu tượng. Một trong những biểu tượng là cái bánh xe, biểu thị cho Bài giảng Đầu tiên của ngài trong Vườn Lộc Uyển ở Sanarth. Chính tại đây, lần đầu tiên Đức Phật đã chuyển Pháp Luân (Dharmacakra). Biểu tượng thứ hai thường được miêu tả là cây Bồ đề, tượng trưng sự Giác ngộ của ngài ở Bồ đề Đạo tràng (Bodh Gaya). Sakyamuni đã ngồi nhập định dưới cội bồ đề này cho đến khi ngài hiểu ra tự tánh của thực tại, đã thiết lập giáo pháp, và đạt tới Niết bàn. Trong cả hai giai đoạn quan trọng này từ cuộc đời ngài, có thể hình dung Đức Phật như sẽ cho thấy về sau này qua những biểu hiện nhân hình về ngài với tư thế đang ngồi.
Đức Phật kinh hành, phù điêu ở bảo tháp Sanchi
Con đường Cankrama (Kinh hành), phù điêu ở Bhahrut, đầu thế kỉ 1 TCN, đá
Tuy nhiên, trong một số giai đoạn, tư thế Đức Phật đang bước đi, và để thể hiện hành vi mang tính phi thánh tượng (aniconic) này, người nghệ sĩ đã miêu tả một con đường kinh hành hay thiền định,cankrama. Chính trên con đường như thế, một tu sĩ thực hành việc thiền hành. Đức Phật đã trải qua một tuần tiếp theo sự Giác ngộ của ngài ở Bodh Gaya đang khi thiền hành trong một chuyến kinh hành làm bằng châu báu (natna cankrama). Những di chỉ khảo cổ cho thấy có một thời con đường ở Bodh Gaya có mái che dưới những hàng cột và có một ngôi đền thờ phụng. Cankrama với mái che trên thực tế đã được thể hiện trong một bức phù điêu ở Bhahrut, và như vậy chúng ta thấy rằng việc sùng kính này rõ ràng đã có sớm như bất cứ những biểu tượng phi thánh tượng nào về Đức Phật. VàCankrama thực sự đã được tín đồ thờ phụng và thể hiện trên bức phù điêu khắc những đoá hoa cúng dường (hoa biểu tượng cho bước chân Phật) và những dấu của bàn tay (pancangulika). Khi người nghệ sĩ cần một biểu tượng để thể hiện Đức Phật đang kinh hành trong những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời ngài, lẽ tự nhiên là người ấy sẽ hấp thu hình tượng cankrama. Xem ví dụ trong bức phù điêu ở Sanchi minh hoạ câu chuyện về trận lụt ở Sông Nairanjana, khi ngài làm phép lạ bước đi trên mặt nước. Đức Phật kinh hành được tái hiện bằng một con đường trông như một dải hình chữ nhật ở trung tâm phần dưới của phù điêu.
“Đức Phật bước đi trên Sông Nairanjana”, Sanchi, khoảng năm 25 trước CN, điêu khắc đá. Miêu tả tượng trưng phép lạ Đức Phật đang bước đi trên sông Nairanjana ngập lụt. Lưu ý, thời kì này nghệ thuật vẫn còn chưa miêu tả nhân hình của Đức Phật. Dòng sông được miêu tả bằng những đường nét sóng dập dờn, đàn vịt đang bơi lội, và những nhành hoa sen, và một con cá sấu bên trái. Một con thuyền có ba người. Trong số ba người này là Kasyapa, đệ tử ngài và người lái đò. Bốn người đứng trên bờ sông kinh ngạc và chắp tay tôn kính khi chứng kiến phép lạ.
Nếu chúng ta nhìn vào những mô tả kể chuyện khi sử dụng hình tượng Đức Phật mang nhân hình, chúng ta thấy cùng những biểu tượng mà người nghệ sĩ luôn thể hiện Đức Phật đang kinh hành trong tư thế như đang đứng. Chẳng hạn tư thế của Đức Phật trong phù điêu Gandhara thế kỉ thứ hai sau CN mô tả Đức Phật sắp bị đám côn đồ tấn công, họ ăn mặc như những tay đô vật đang nấp sau một bức tường. Dáng đi lắc hông (déhanchement) của Đức Phật Gandhara, chẳng hạn, gần giống với tư thế mà các hoạ sĩ Ajanta đã miêu tả khoảng 300 năm sau để biểu thị sự kinh hành. Trong phù điêu từ Hang số 9, Đức Phật đang đón nhận bình bát từ một cậu bé. Đây là giai đoạn mô tả Đức Phật đang kinh hành, thì con trai ngài là Rahula đã tới và hỏi xin cha sự thừa kế.
Đám côn đồ sắp tấn công Đức Phật, Takht-i-Bahi, thế kỉ 2-3 sau CN
Rahula đòi Đức Phật quyền thừa kế, Amaravati, thế kỉ 2-3 sau CN, đá.
Nghệ sĩ Ấn Độ có những miêu tả ước lệ khác để gợi ý tới sự kinh hành của Đức Phật mà không dùng đến tư thế bước đi. Tuy vậy những hình tượng Phật kinh hành này rất hiếm thấy trong nghệ thuật Ấn Độ. Hình mẫu có sớm nhất vào thế kỉ thứ 3 sau CN ở Nagarjunakonda, cho thấy Đức Phật đang đi vào vườn nai để chạm trán với các đạo sĩ rishi. Nói chung tất cả những hình tượng này đều có kích thước nhỏ và thứ yếu. Ngoại lệ với những hình mẫu thấy được từ vùng Andhra, tất cả đều hạn chế ở những vùng ngoại biên miền bắc của bán lục địa này. Những địa danh nằm ngoài vùng trung tâm Ấn Độ hẳn cho thấy sự nới lỏng những hạn chế có thể thấy ở ngay chính đất Ấn Độ.
Tóm lại, hình tượng Đức Phật kinh hành rõ ràng có một tầm quan trọng đối với những nghệ sĩ và những nhà bảo trợ. Trong nghệ thuật Phật giáo thời kì đầu ở Bhahrut và Sanchi, Đức Phật kinh hành được thể hiện có tính biểu tượng bằng con đường thiền hành. Con đường này tự thân đã được thờ kính. Tuy nhiên, sau sự phát minh hình tượng nhân hình của Đức Phật, người nghệ sĩ cho dù có sự quan tâm tới những giai đoạn Đức Phật kinh hành song đã dùng một tư thế thế mang tính gợi ý hơn là mô tả tự thân hành vi này. Vào thời điểm này, chúng ta tự hỏi tại sao tư thế kinh hành lại bị tránh né. Câu hỏi này được nhấn mạnh khi chúng ta nhận thấy rằng sự bước đi mang tính trung tâm đối với quan niệm về Đức Phật và Phật giáo. Dưới ánh sáng này chúng ta sẽ thấy sự thiếu vắng hình tượng Đức Phật kinh hành trong nghệ thuật Ấn Độ và điều này đã trở nên có vấn đề. Câu trả lời về lí do của sự thiếu vắng này là bởi ngay từ đầu, về mặt hình tướng, hình ảnh Đức Phật nhân hình được miêu tả đã không như một người phàm mà như một thần linh. Mặc dù Đức Phật đã tự tước bỏ đi thân phận đẳng cấp cao sang, đặc biệt là thân phận hoàng gia và thế tục, nhưng chính biểu tượng hoàng gia đã khiến cho người nghệ sĩ Ấn Độ hấp thu để trình bày Đức Phật như một vị thần linh. Sự miêu tả Đức Phật như một thần linh trong hình tượng nghệ thuật về những cảnh sống nhân sinh thường thường ít thấy có vấn đề, tuy nhiên lại ngoại lệ chính là những giai đoạn kinh hành, bởi sự kinh hành không thích hợp đối với các thần linh và vua chúa. Hơn nữa, chính một trong những hảo tướng của ngài là “dưới lòng bàn chân bằng phẳng”, và “gót chân no tròn”. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói phương diện không kinh hành của Đức Phật có thể xem như là một trong những thuộc tính hoàng gia.
Ở Thái và Miến, hình tượng Đức Phật kinh hành cùng với sự sùng kính dấu chân Phật có một sự liên hệ mật thiết với nhau. Điều đáng ngạc nhiên là những dấu chân không xuất hiện trong nghệ thuật Đông Nam Á cho mãi đến thế kỉ 11. Ở Thái Lan, những dấu chân xuất hiện lần đầu tiên trong nghệ thuật Sukhothai, xấp xỉ thời gian hình tượng Đức Phật kinh hành (thế kỉ 12 và 13), còn ở Campuchia xuất hiện trễ hơn (khoảng thế kỉ 16).
Theo kinh điển, Đức Phật thường để lại đằng sau một dấu chân khi ngài tiếp chạm với mặt đất. Có một sự liên hệ rõ rệt giữa sự kinh hành và những dấu chân, và cả hai hảo tướng (laksana) này khiến có thể nhận dạng Đức Phật như một bậc phi phàm. Điểm thứ hai nằm trong 32 hảo tướng là dấu hiệu hình bánh xe ghi dấu trong lòng bàn chân của Phật. Khi ngài chuyển Pháp luân ở Sarnarth, ngài bắt đầu vần chuyển với cung cách chinh phục thế giới. Theo một nghĩa nào đó, Đức Phật đã chuyển Bánh xe cùng với các đệ tử khi cùng họ thang thang để giáo huấn. Trong bối cảnh này, ta thấy trên một bức phù điêu Gandhara thật thú vị khi thấy Đức Phật, theo nghĩa đen, đang lăn Bánh xe trong lúc ngài kinh hành. Điều này đặc biệt trong khung cảnh Bài giảng Đầu tiên ở Sarnarth, cùng với năm tì kheo tương lai ở phía bên phải đang tôn kính trong khi Đức Phật đang đến gần để đẩy Pháp Luân (Dharmacakra). Đây chính là bài Giảng đầu tiên và Bánh xe giáo Pháp giờ đây chuyển bánh.
Hình tượng Đức Phật kinh hành rất hiếm hoi trong nghệ thuật Nam Á, nhưng khi chúng ta quay sang nghệ thuật Thái Lan, đây lại là nơi rất phong phú về hình tượng Đức Phật kinh hành. Tuy nhiên, nghệ thuật phù điêu ở Pagan của Myanmar rất có thể là nguồn gốc của phong cách Sukhothai trong những phù điêu về Đức Phật kinh hành mặc dù ít thấy có sự tương tự về mô thức giữa những vị Phật kinh hành ở Pagan với ở Sukhothai.
Phù điêu những tăng sĩ kinh hành. Wat Mahathat, Sukhothai, thế kỉ 14
Hình tượng ba chiều về Đức Phật kinh hành được xem là một phát minh của Thái, có lẽ đã được tạo ra ở Sukhothai vào cuối thế kỉ 13 hay đầu thế kỉ 14. Những hình tượng kinh hành này có một tư thế chuẩn mực vốn được duy trì và không có sự thay đổi về cơ bản. Một trong những mẫu mực sớm nhất và đẹp nhất là pho tượng đồng lớn hơn kích thước người thật được đúc vào thế kỉ 14, hiện nay ở Wat Benchamabopit ở Banglok, cho thấy cung cách bước đi, một chân gập về phía sau, gót chân thì nâng lên như một dấu hiệu; nhưng tư thế này không có vẻ tự nhiên. Trên thực tế, sự thiếu phong cách tả thực có thể là do thích hợp hơn đối với tính siêu nhiên và cơ thể mang tính ẩn dụ của Đức Phật hơn là tự thân của tư thế. Hình tượng Đức Phật theo phong cách Sukhothai phối hợp nhiều điểm tương tự, chẳng hạn “đầu như quả trứng” theo một kiểu mẫu hiểu theo nghĩa đen. Với đôi chân ví với chân linh dương, và đùi như thân bắp chuối, sức nặng của đôi chân Phật ép thật chặt lại với nhau tới nỗi hai chân với đầu gối cong vào trong, và tất cả chuyển động từ đầu gối trở xuống. Cánh tay phải “tròn trịa, mượt như thể bằng nến sáp” treo như thân rắn. Vẻ bên ngoài của Đức Phật do vậy trở nên phi tự nhiên. Nhưng tư thế của cơ thể, hơn là về hình dạng, lại rất mang tính tả thực và dễ mô phỏng.
Tượng Đức Phật kinh hành ở Wat Sa Si, Sukhothai, Thái Lan, thế kỉ 13
Chiếc áo choàng có thể gây ấn tượng đầu tiên như là bổ sung vào phong cách phi tự nhiên. Nó bám chặt vào cơ thể theo hình thể của nếp quần áo bị ướt và tạo nên một tấm mạng mỏng nối hai bắp chân với nhau, và khi nhìn đôi chân từ những góc cạnh khác, có thể thấy hiệu quả do tấm áo choàng tạo nên, thay vì là trở ngại, ở đây lại gây cảm giác vể sự chuyển động, thậm chí ở gấu áo nhỏ cuộn lên phía trước như đu đưa của tà áo choàng.
Nhìn chung, những hình tượng Phật kinh hành mang tính cách tân của Thái Lan trong khi hầu như hoàn toàn vắng bóng trong nghệ thuật Ấn Độ, đã đóng góp quan trọng vào ý nghĩa hành trạng kinh hành trong cuộc đời của Đức Phật vốn được nêu bật bằng những trang đẹp đẽ trong kinh điển. Sự kinh hành không hẳn đã bị các nghệ sĩ Ấn Độ bỏ quên, nhưng do họ đã hấp thu tư thế đứng và đôi lúc ước lệ để gợi ý về một một Đức Phật đang kinh hành thay vì là một tư thế bước đi thật sự. Hơn nữa, chính sự tồn tại của những hình tượng Phật kinh hành của Thái Lan tự thân đã lí giải cho sự vắng bóng của chúng trong nghệ thuật Ấn Độ do chống lại lối mô tả Đức Phật trong tư thế kinh hành, bởi như một vị thần, Đức Phật giữ sự cách biệt với thế gian. Do vậy, trong nhiều cảnh miêu tả sự kinh hành, các nghệ sĩ Ấn Độ đã dùng hình tượng đứng của Đứng Phật để duy trì vẻ ngoài bất động, mặc tư thế kinh hành hẳn được họ xem là quá lộ liễu khi ngài tiếp xúc với trần gian theo cung cách hoàn của con người, hay nói cách khác, sự kinh hành sẽ làm giáng cấp Đức Phật và nằm ngoài đặc tính hoàng gia và tính chất thiêng liêng của ngài.
Nguồn: Artibus Asiae, “God on Earth: The Walking Buddha in the Art of South and Southeast Asia”, cùa Robert L. Brown, Vol. 50, No. 1/2 (1990), tr. 73-107
Bài đã đăng trên Văn hoá Phật giáo, số tháng (?)/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét