Vào năm 1935, Fernando Pessoa qua đời tại Lisbon trong hoàn cảnh gần như không ai biết đến, và ngày nay ông được coi là một trong những nhà thơ quan trọng nhất của Bồ Đào Nha trong thế kỉ 20, và cũng là một tác giả then chốt của chủ nghĩa hiện đại. Cuốn sách của sự bất an là một tài liệu vĩ đại mà ông đã dành hơn 20 năm để sáng tác, thể hiện nỗi buồn của chủ nghĩa Hiện sinh. Cuốn sách được tạo thành từ những ghi chép của một kế toán viên hư cấu tên là Bernardo Soares - quan sát, phản ánh, trầm tư - trong đó nhân vật này đặt ra những câu hỏi về thân phận con người một cách triệt để, ý nghĩa đời sống và những bí mật bản thân.
Lời tựaỞ Lisbon có một số địa điểm ăn uống, trong số những quán rượu có vẻ ngoài tươm tất, còn có một phòng ăn bình thường với bầu không khí ấm áp giản dị của một quán ăn ở một thị trấn nhỏ không có đường sắt. Một trong những phòng ăn ở tầng lửng này, khách thưa thớt, trừ ngày Chủ nhật, bạn thường có thể bắt gặp một số con người kì quặc, ngoại hình thì bình thường, là một loạt những con người ngoài lề của cuộc đời,
Đã có một thời gian, do tài chính eo hẹp và cần một chốn yên tĩnh, đã khiến tôi trở thành khách quen của nhà hàng có tầng lửng đó. Mỗi khi tôi ăn tối ở đó vào khoảng bảy giờ, hầu như tôi luôn thấy một người đàn ông mà ban đầu không thu hút tôi, nhưng sau đó lại bắt đầu khiến tôi chú ý.
Anh ta có thân hình khá cao và gầy gò, trạc ba mươi. Khi ngồi, thì lưng anh rất còng, nhưng khi đứng thì không đến nỗi nào, và ăn mặc có vẻ hơi xuề xoà nhưng không thể nói là cẩu thả. Trên gương mặt nhợt nhạt và tẻ nhạt của anh ta có một vẻ đau khổ, điều này không làm nổi bật các đường nét nào của anh, rất khó hiểu được dưới biểu cảm này là nỗi đau gì. Dường như nó gợi ý nhiều loại nỗi đau: gian khổ, lo âu, và đau khổ do sự thờ ơ gây ra sau khi đã phải cam chịu quá nhiều.
Anh thường ăn bữa tối một cách qua loa, sau đó hút thuốc lá tự cuốn. Rõ ràng anh đang quan sát những khách hàng khác, không phải với sự nghi ngờ mà với sự quan tâm vượt xa bình thường. Anh không quan sát họ với thái độ soi mói mà dường như là do hứng thú chứ không có ý đọc tính cách hoặc ghi nhận ngoại hình của họ. Chính điểu này đã khiến tôi thấy hứng thú với anh ta.
Tôi bắt đầu quan sát anh kĩ hơn. Tôi nhận thấy một vẻ thông minh làm sống động những nét mặt của anh dù còn mơ hồ. Nhưng sự mệt mỏi - sự ngưng đọng của một nỗi đau lạnh lẽo - liên tục bao phủ khuôn mặt anh, khiến tôi khó có thể đọc được điều gì sâu xa hơn.
Tình cờ tôi biết được từ một người phục vụ rằng anh ta làm kế toán tại một văn phòng gần đó.
Một ngày nọ, trên con phố bên dưới xảy ra một sự cố - hai người đàn ông lao vào đánh nhau. Mọi người trên tầng lửng chạy đến bên cửa sổ để xem, gồm cả tôi và người mà tôi đang mô tả. Tôi buông một câu xã giao với anh và anh cũng đáp lại tương tự. Giọng của anh ta do dự và không chút cảm xúc, giống như giọng của người đã mất hết hi vọng vì hi vọng là hoàn toàn vô ích. Nhưng có lẽ việc thấy điều này ở người bạn cùng ăn bữa tối là hơi vô lí.
Không biết tại sao, từ ngày đó, chúng tôi đã luôn chào hỏi nhau. Rồi một ngày, có lẽ do sự trùng hợp ngẫu nhiên khi cả hai chúng tôi đều đến ăn tối vào lúc chín giờ rưỡi, chúng tôi đã bắt đầu trò chuyện. Một lúc sau, anh ta hỏi tôi có viết lách không. Tôi trả lời có. Tôi đã đề cập tới tạp chí phê bình văn học Orpheu [1] phát hành gần đây. Anh ta khen ngợi nó, khen ngợi rất nhiều, khiến tôi rất ngạc nhiên. Tôi nói với anh rằng tôi rất bất ngờ, vì thực ra nghệ thuật của những người viết trong Orpheu chỉ dành cho một số ít người. Anh nói rằng có lẽ anh thuộc trong số ít đó. Hơn nữa, anh còn nói thêm, nghệ thuật đó không hẳn là mới lạ đối với anh, và sau đó với chút ngại ngùng, anh nói rằng vì không có nơi nào để đi, không có gì tốt hơn để làm, cũng không có bạn bè để gặp gỡ, và cũng không có hứng thú với việc đọc sách, nên mỗi tối anh thường dành thời gian để viết lách tại phòng trọ.
Hai căn phòng của anh được trang trí với vẻ ngoài sang trọng, chắc hẳn đã phải đánh đổi một số vật dụng cơ bản. Anh đặc biệt chú trọng đến việc lựa chọn những chiếc ghế bành, chúng mềm mại và được lót đệm tốt, cùng với rèm cửa và thảm. Anh giải thích rằng với kiểu nội thất như thế này, anh có thể ‘bảo lưu sự trang nghiêm tẻ nhạt’. Trong căn phòng được trang trí theo phong cách hiện đại, sự tẻ nhạt trở thành một cảm giác khó chịu, một nỗi đau thể xác.
Không có gì thúc đẩy anh phải làm bất cứ điều gì. Anh đã trải qua tuổi thơ trong cô đơn. Anh không bao giờ tham gia vào bất kì nhóm nào, cũng không học qua bất kì môn học nào. Anh không bao giờ thuộc về một đám đông. Hoàn cảnh sống của anh được đánh dấu bằng hiện tượng kì lạ nhưng khá phổ biến – trên thực tế, có lẽ nó đúng với mọi cuộc đời – là được điều chỉnh theo hình ảnh và theo bản năng của anh, thường có xu hướng trì trệ và thu mình.
Anh chưa bao giờ phải đối mặt với những yêu cầu của xã hội hay quốc gia. Anh thậm chí còn lẩn tránh những yêu cầu từ bản năng của mình. Không có gì thúc đẩy anh phải có bạn bè hay người yêu. Theo cách nào đó, tôi là người duy nhất thân thiết với anh. Nhưng dù giả định rằng mình có mối liên hệ nào đó với anh, nhưng anh chưa chắc đã thực sự coi tôi là bạn. Tôi nhận ra ngay từ đầu rằng anh cần tìm ai đó để gửi gắm cuốn sách của mình. Điều này đã làm tôi bối rối lúc đầu, nhưng bây giờ tôi thấy vui rằng tôi đã có thể nhìn nhận vấn đề này từ góc độ của một nhà tâm lí học, và tôi vẫn là bạn của anh, tận tâm cho mục tiêu mà anh đã kết giao với tôi – xuất bản cuốn sách này.
Ngay cả ở khía cạnh ấy, cảnh ngộ cũng kì lạ mà thuận lợi cho anh, vì cơ duyên đã mang một người như tôi đến với anh, và có thể hữu ích cho anh.
Fernando Pessoa
[1] Tạp chí Orpheus được thành lập bởi Fernando Pessoa. Mặc dù chỉ có hai số được phát hành vào năm 1915, tạp chí này đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của văn học Bồ Đào Nha thế kỉ 20.
*
MỘT TỰ TRUYỆN PHI SỰ KIỆN
Trong những ấn tượng ngẫu nhiên này, tôi không có mong muốn nào ngoài sự ngẫu nhiên, tôi thản nhiên kể lại tự truyện không có sự kiện, câu chuyện không có đời sống. Đây là một Tự bạch, và nếu trong đó tôi không nói gì, đó là vì tôi không có gì để nói.
– Phiến bản 12
PHẦN MỘT
1.
Tôi sinh ra vào một thời
đại mà phần lớn người trẻ đã mất niềm tin vào Chúa, cùng một lí do mà tổ tiên họ
đã từng có, mà không biết tại sao. Và
vì tinh thần con người tự nhiên có xu hướng đưa ra phán đoán dựa trên cảm xúc
thay vì lí trí, nên hầu hết những thanh niên này đã chọn Con người thay thế cho
Thượng đế. Tuy nhiên, tôi thuộc về loại người luôn đứng ở rìa của những gì mình
thuộc về, không chỉ nhìn thấy đám đông mà mình là một phần mà còn thấy cả những
không gian rộng lớn xung quanh.
Vì vậy, tôi không hoàn toàn
từ bỏ Thượng đế như họ, và tôi cũng không bao giờ chấp nhận Con người làm sự
thay thế. Tôi đã cho rằng Thượng đế, mặc dù không thể chứng minh, vẫn có thể
tồn tại, và do đó có thể thờ phượng; trong khi Con người, đơn thuần là một khái
niệm sinh học và không có nghĩa gì khác ngoài một
loài sinh vật, không xứng đáng được thờ phượng hơn bất kì loài sinh vật nào
khác. Sự tôn thờ Con người, đi kèm với các nghi lễ như Tự do và Bình
đẳng, luôn khiến tôi cảm thấy như sự phục hồi những tín ngưỡng cổ xưa,
trong đó các vị thần có hình dạng động vật hoặc có đầu động vật.
Vì vậy, không biết cách tin
vào Thượng đế và không thể tin vào một tập hợp các động vật, tôi cùng với những
người khác ở bên lề, giữ khoảng cách với mọi thứ, một khoảng cách mà người ta
gọi là Suy đồi. Suy đồi có nghĩa là mất hoàn toàn sự vô thức, vì sự vô thức là
nền tảng của đời sống. Nếu trái tim có thể suy nghĩ, nó sẽ ngừng đập.
Đối với những người như tôi,
sống mà không biết cách để có được cuộc sống, thì còn lại gì ngoài việc xem việc từ
bỏ như một cách sống và chọn sự chiêm nghiệm như một số phận? Bởi chúng tôi
không biết và cũng không thể biết đời sống tôn giáo là gì, vì đức tin không thể
đạt được bằng lí trí, và không thể có đức tin hay thậm chí không thể phản ứng
với cái khái niệm trừu tượng của con người, chúng tôi chỉ còn lại sự chiêm nghiệm
thẩm mĩ về đời sống như lí do để có một linh hồn. Do đó, chúng tôi, thờ ơ với
tất cả sự trang trọng của thế giới, thờ ơ với cái thần thánh, và khinh thường
những gì là con người, chúng tôi tự giao mình một cách vô nghĩa cho cảm giác không
mục đích, được nuôi dưỡng bằng một chủ nghĩa Khoái lạc (Epicureanism) tinh tế phù
hợp với các dây thần kinh não bộ
Chỉ giữ lại các nguyên tắc cơ bản của khoa học – rằng mọi thứ đều chịu sự chi phối bởi các quy luật túc mệnh, mà chúng ta không thể phản ứng một cách tự do, vì chính những quy luật này quyết định mọi phản ứng – và nhận thấy rằng nguyên lí này phù hợp với nguyên lí cổ xưa hơn về định mệnh thần thánh của mọi sự vật, chúng tôi từ bỏ mọi nỗ lực giống như người yếu đuối từ bỏ các hoạt động thể thao, và cúi mình trước cuốn sách về cảm giác như những học giả tỉ mỉ nghiên cứu về cảm giác,
Không coi điều gì là nghiêm
túc, và xem cảm giác là thực tại duy nhất chắc chắn, chúng tôi trú ẩn trong đó
và khám phá chúng như những vùng đất rộng lớn chưa được biết đến. Và không chỉ
chuyên tâm trong việc chiêm nghiệm thẩm mĩ mà còn trong việc diễn đạt các phương
thức và kết quả của chúng, đó là vì thơ ca hoặc văn xuôi mà chúng tôi viết ra –
không nhằm mục đích thuyết phục hoặc định hình sự hiểu biết của bất kì ai – chỉ
đơn giản như khi một người đọc to lên để khách quan hoá hoàn toàn niềm vui chủ
quan của việc đọc.
Chúng tôi đều biết rằng mọi
tác phẩm đều phải có sự không hoàn hảo và sự chiêm nghiệm thẩm mĩ khó nắm bắt
nhất sẽ là đối tượng của những gì chúng tôi viết ra. Nhưng mọi thứ đều không
hoàn hảo. Không có hoàng hôn nào đẹp đến mức không thể đẹp hơn, không có làn gió
nhẹ nào mang đến giấc ngủ ngon mà không thể mang đến một giấc ngủ ngon hơn nữa.
Và vì vậy, những người chiêm ngắm tượng đài và núi non như nhau, tận hưởng cả
sách vở và những ngày tháng trôi qua, và mơ về mọi thứ để biến chúng thành bản
thể sâu thẵm của mình, chúng tôi cũng sẽ viết ra những mô tả và phân tích mà
một khi đã hoàn thành, chúng sẽ trở thành những đối tượng bên ngoài để chúng
tôi thưởng thức, như thể chúng đột nhiên đến vào một buổi chiều nào đó.
Đây không phải là quan điểm
của những người bi quan như Vigny, người cho rằng cuộc đời là một nhà tù, nơi
ông đan bện rơm để giết thời gian và quên đi bản thân. Một người bi quan là
nhìn mọi thứ một cách bi thảm, một thái độ như vậy vừa cực đoan vừa khó chịu.
Mặc dù chúng tôi thực sự không gán bất kì giá trị nào cho tác phẩm mà mình tạo
ra, và lí do chúng tôi tạo ra tác phẩm là để giữ cho mình bận rộn, nhưng chúng
tôi không giống như người tù bận rộn dệt rơm để quên đi số phận của mình, mà giống
như cô gái thêu thùa chỉ với lí do làm cho mình bận rộn, vậy thôi.
Tôi coi cuộc đời như một
quán trọ bên đường, nơi tôi phải ở lại cho đến khi cỗ xe ngựa từ vực thẳm đi
lên. Tôi không biết nó sẽ đưa tôi đến đâu, vì tôi không biết gì cả. Tôi có thể
coi quán trọ này như một nhà tù, vì tôi bị buộc phải chờ đợi trong đó; hoặc có
thể xem nó như một nơi xã giao, vì ở đó tôi gặp nhiều người khác. Nhưng
tôi không phải loại người thiếu kiên nhẫn hay tầm thường. Tôi để những ai muốn
ở lại trong phòng của họ, nằm dài trên giường chờ đợi mà không ngủ, và tôi để
những ai muốn trò chuyện trong phòng khách, mặc cho tiếng hát và giọng nói của
họ vẳng tới. Tôi ngồi ở cửa, thưởng thức màu sắc và âm thanh của phong cảnh, và
tôi khẽ hát, hát cho mình tôi nghe thôi, những bài hát phiêu diêu mà tôi đã viết
trong khi chờ đợi.
Màn đêm sẽ buông xuống tất
cả chúng ta và cỗ xe ngựa sẽ dừng lại. Tôi đang tận hưởng làn gió thổi đến và
tâm hồn mà tôi được ban cho để tận hưởng làn gió đó, và tôi không còn đặt câu
hỏi hay tìm kiếm nữa. Nếu những gì tôi để lại trong cuốn sách của những người
lữ hành có thể được ai đó đọc vào một ngày nào đó, và mang lại cho họ niềm vui trong
cuộc hành trình, thì thật tốt. Nếu họ không đọc nó, hoặc không thấy hứng thú,
thì cũng tồt.
2.
Tôi buộc phải chọn giữa hai điều mà tôi ghét – mơ
mộng, điều mà trí tuệ tôi ghét, hoặc hành động, điều mà cảm giác của tôi ghê
tởm; tôi không được sinh ra để hành động, hoặc không ai được sinh ra để mơ
mộng.
Ghét cả hai, tôi không chọn cái nào; nhưng vì đôi khi tôi buộc phải mơ mộng hoặc hành động, tôi sẽ trộn lẫn cả hai với nhau.
3.
Lang thang trên những con
phố này cho đến khi màn đêm buông xuống, tôi cảm thấy cuộc đời mình giống cuộc
đời những con phố. Ban ngày chúng đầy ắp những hoạt động vô nghĩa; ban đêm
chúng đầy ắp sự thiếu vắng hoạt động, cũng vô nghĩa. Ban ngày tôi không là gì,
ban đêm tôi là chính tôi. Không có sự khác biệt nào giữa tôi và những con phố
này, ngoại trừ việc chúng là những con phố và tôi là một linh hồn, điều này có
lẽ không quan trọng khi chúng ta xem xét bản chất của sự vật. Con người và sự
vật cũng có một số phận trừu tượng như nhau; cả hai đều có một chỉ số trung
tính trong đại số học bí ẩn của thế giới.
Nhưng còn một điều khác… Trong những giờ phút uể oải và trống rỗng này, một nỗi buồn từ linh hồn sâu thẳm tràn lên tâm trí tôi – một cảm thức cay đắng rằng mọi thứ đều là cảm giác của tôi và đồng thời là điều gì đó bên ngoài, mà tôi không có quyền thay đổi. Ôi, biết bao lần những giấc mơ của tôi đã hiện lên như những vật thể, không phải để thay thế thực tại mà để tự thú nhận với tôi rằng chúng là những bản sao mà tôi không muốn, tách biệt khỏi tôi, như chiếc xe điện giờ đang rẽ ở góc cuối phố, hay tiếng người rao hàng buổi tối, không biết từ đâu trỗi bật lên, một bài hát A Rập, như tia nước phun trào đột ngột giữa sự đơn điệu của hoàng hôn!
Những cặp đôi tương lai đi qua, những cô thợ may tán chuyện đi qua, những chàng trai trẻ vội vã tìm tới cuộc vui đi qua, những người nghỉ hưu đã thoát khỏi mọi thứ, vừa đi dạo vừa hút thuốc như thường lệ, và ở một cửa tiệm, người bán hàng đứng trước cửa như kẻ vô công rỗi nghề và không để ý đến xung quanh. Những tân binh quân đội – một số vạm vỡ, số khác thì mảnh khảnh – từ từ đi qua theo từng nhóm ồn ào và còn ồn ào hơn nữa. Thỉnh thoảng cũng có những người bình thường đi qua. Xe cộ vào lúc này rất thưa thớt, và tiếng ồn của chúng nghe thật dễ chịu. Trong trái tim tôi có một nỗi đau yên bình, và sự trầm lặng được tạo nên từ nỗi cam chịu.
Tất cả những thứ này trôi
qua, và không có gì trong số đó có ý nghĩa với tôi. Tất cả đều xa lạ với số
phận của tôi, và ngay cả với số phận nói chung. Đó chỉ là sự vô thức, những vòng
tròn loang trên bề nước khi tình cờ viên đá bị ném, những dư âm vọng từ những tiếng
nói mơ hồ – một mớ salad hỗn độn của đời sống.
4.
… và rồi từ những đỉnh cao uy nghi của giấc mơ, tôi trở lại làm một trợ
lí kế toán ở thành phố Lisbon.
Nhưng sự tương phản này không nghiền nát tôi, nó giải phóng tôi. Và sự mỉa mai của nó nằm trong huyết quản tôi. Những gì đáng lẽ hạ thấp tôi thì tôi lại giương lên như lá cờ; và tiếng cười đáng lẽ để chế giễu bản thân lại thành tiếng kèn tôi thổi lên để chào đón và tạo ra một bình minh mà tôi trở thành.
Vinh quang của ban đêm tuyệt vời mà không phải là thứ gì cả!
Những vẻ lộng lẫy trang nghiêm u ám mà không ai biết đến… Và tôi bỗng trải nghiệm một cảm giác cao cả của một tu sĩ trong hoang mạc hoặc của một ẩn sĩ, quen thuộc với bản chất của Chúa Kitô trong sa mạc và ẩn dật trong những hang động xa cách với thế gian.
Và tại cái bàn này trong căn phòng vô lí, tôi, một nhân viên văn phòng tầm thường và vô danh, viết những con chữ như thể chúng là sự cứu rỗi cho linh hồn, và tôi tự dát vàng mình bằng ánh hoàng hôn không thể nao có được trên những ngọn núi cao, rộng lớn và xa xôi, cùng với bức tượng mà tôi nhận được để đổi lấy những thú vui cuộc sống, và với chiếc nhẫn xuất li trên ngón tay phúc âm của tôi, viên ngọc cố định nạm bằng sự khinh miệt mê đắm.
*
(Còn tiếp - sẽ được cập nhập thường xuyên)
___
- Nguyên tác tiếng Bồ Đào Nha: Livro do Desassossego: Composto por Bernardo Soares, ajudante de guarda-livros na cidade de Lisboa [Cuốn sách của sự bất an: được viết bởi Bernardo Soares, trợ lí kế toán tại thành phố Lisbon]Tác giả: Fernando Pessoa (1888–1935)Hà Vũ Trọng dịch, dựa trên bản tiếng Anh, The Book of Disquiet, do Richard Zenith dịch (Penguin Classics, 2002) dựa trên bản gốc tiếng Bồ Đào Nha: Livro do desassossego, do Richard Zenith biên tập, ấn bản Assírio & Alvim, 1998
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét