Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

Tại sao cần phải đọc kinh điển Hi-La?


Hà Vũ Trọng


Tại sao cần phải đọc kinh điển Hi-La? Câu trả lời đơn giản: chỉ bằng cách thông qua những kinh điển Hi Lạp-La Mã (Greco-Roman) ta mới  hiểu được tận gốc rễ những gì đã tạo thành giá trị nền tảng cho thế giới văn minh phương Tây ngày nay. Hơn nữa, hiểu nền văn minh Hi-La cũng soi sáng ta nhìn ra sự song hành giữa những nền văn minh cổ đại Đông-Tây như triết gia Karl Jaspers gọi là Thời Trục (Axial Age) về những phương thức tư tưởng và tôn giáo của những nền văn minh như Ba Tư, Ấn Độ, Trung Quốc và Hi-La.

Có thể nói rằng tất cả mọi thứ, từ chính trị, triết học, sử học, pháp luật, giáo dục, khoa học, toán học, nghệ thuật, kiến trúc, văn học, ngôn ngữ, và cả thể thao cũng đều có gốc từ Hi Lạp cổ đại mà ra; chưa kể đa số những thứ tiếng châu Âu mang tính học thuật phần lớn cũng đều có gốc Hi Lạp và Latin, trải qua lịch sử của hai đế chế kéo dài hơn một ngàn năm đều là những nước ‘đồng văn’. Hoặc những lối tu từ ‘điển tích’ tràn đầy khái niệm Hi-La diễn đạt trong sách vở, báo chí  và trên hiện trường chính trị ngày nay mà ta bắt gặp, thường lấy hình mẫu từ sử thi Homer, kịch nghệ và triết học Hi Lạp, văn chương Latin cho tới việc dùng các hình mẫu như Caesar, Cirero, Hocare, Lucian, vv…  mà một người nếu không đọc kinh điển Hi-La sẽ không thể nào hiểu sâu sắc được.

Tuy vậy, vấn đề khó khăn đối với chúng ta hiện nay khi đối diện trước kho kinh điển đồ sộ hàng ngàn năm của thế giới Hi-La như thế, không ai có thời gian ôm đồm tất cả nếu không muốn bị hoang mang. Do vậy, chỉ có thể từ kho kinh điển (classics) này lại ưu tiên chọn ra những chính điển (canons) không thể thiếu được, nhất là trong dự án dịch thuật các tác phẩm này sang tiếng Việt, để dần dần nỗ lực hướng tới một tủ sách kinh điển Hi-La tương đối cơ bản.

Như vậy hẳn nhiên độc giả cần có một bản đồ nhỏ ‘trong lòng bàn tay’ về kinh điển hay chính điển Hi-La cần phải đọc. Dưới đây, để cho tiện, xin mượn cách phân loại sách kinh điển của Trung Hoa và Đông Á thành bốn bộ: Kinh, Sử, Tử, Tập để áp dụng tương tự đối với kinh điển Hi-La:

1. KINH gồm sách triết học, chính trị và đạo đức. 

Những tác phẩm Hi Lạp cổ đại của các triết gia bắt đầu từ thời tiền-Socrates như Heraclitus và Empedocles. Môn đệ của Socrates là Plato (khoảng 427-347) sáng lập Trường Athena, tác phẩm có ảnh hưởng nhất của ông tới tư duy triết học, đạo đức và học thuyết chính trị là Cộng hoà (The Republic) viết vào khoảng 380 TCN. Tác phẩm Đối thoại (Dialogues) của Plato viết theo thể đối thoại kiểu Socrates, cũng là những ghi chép duy nhất những lời dạy của Socrates. Môn đệ của Plato là Aristotle (384-322 TCN), sáng lập Trường Lyceum, thầy dạy của Alexander Đại đế, tác phẩm của ông bao gồm rất nhiều lĩnh vực. Ông đặt nền móng cho luận lí học và là ông tổ của Khoa học chính trị, cuốn  Đạo đức học (Nichomachean Ethics/ hay Đạo đức học đề tặng Nichomachea) bàn về sự theo đuổi cái thiện tối hảo. Tác phẩm Chính trị học (Politics) của ông có đóng góp quan trọng đối với khoa học chính trị, khảo sát những ‘hiến pháp’ của nhiều thành bang khác nhau của Hi Lạp, và liệt kê các loại chính quyền với những ưu điểm và nhược điểm. Thời kì Hi Lạp hoá (Roman-era Greek), Đạo đức luận (Moralia) của học giả Hi Lạp Plutarch vào thế kỉ thứ nhất, gồm 78 luận văn và diễn thuyết, có ảnh hưởng tới nhiều thế hệ châu Âu về sau (như Michel de Montaigne và chủ nghĩa Nhân văn Phục hưng và những triết gia thời Ánh sáng). Triết gia, chính khách và biện giả vĩ đại Cicero của La Mã viết Luận về chính quyền (On Government) đưa ra hình mẫu chính trị gia mẫu mực và chính quyền lí tưởng, Luận về bản tính của chư thần (On the Nature of the Gods) viết về triết-thần học của các triết gia Hi Lạp và La Mã. Cuốn Trầm tư (Meditations) vốn là bút kí tư tưởng về triết học Khắc kỉ của hoàng đế Marcus  Aurelius mà ông xem như một nguồn hướng đạo sống. Triết gia Plotinus (205-270) người sáng lập trường phái Tân-Plato, triết học siêu hình có ảnh hưởng lớn nhất trong thời cổ đại hậu kì chỉ sau Plato và Aristotle, tác phẩm Enneads gồm 9 quyển, do môn đệ Porphyry kết tập và giới thiệu.


2. SỬ gồm sách về lịch sử và địa lí. 

Người Hi Lạp cống hiến những tác phẩm lịch sử đích thực và đầu tiên, ‘Ông tổ sử học’ Herodotus (thế kỉ thứ 5 trước CN) là người đầu tiên dùng thuật ngữ ‘lịch sử’ (historiai). Tác phẩm vĩ đại của ông Lịch sử chiến tranh Hi Lạp-Ba Tư (History of the Persian wars) tác phẩm này vượt xa thể loại những biên niên sử,  ông có nhãn quan rộng khi nhìn về mọi mặt, từ mặt nhân quả của chiến tranh, bài học rút ra từ lịch sử, thái độ khách quan và tôn trọng đối với những nền văn hoá khác biệt của các dân tộc, không chỉ về chiến tranh, ông còn bàn về các mối tương quan, về tôn giáo, gia đình, vv…. Ông cũng được coi là ông tổ của ngành nhân học văn hoá. Chủ đề chính trong sách của Herodotus là giá trị sống trong một xã hội tự do thay cho sống dưới ách chuyên chế bất luận nó là một xã hội được tổ chức tốt và phồn vinh tới đâu đi nữa. Cuốn sách của Herodotus là một trong những nguồn mạch cho sự yêu chuộng tự do của phương Tây. Quan trọng không kém, tác phẩm của một sử gia lớn khác là Thucydides, Lịch sử chiến tranh Peloponnese, tường thuật lại cuộc chiến Peloponnesia  kéo dài 27 năm giữa hai thành bang Athens và Sparta. Thucydides cho thấy có điều không ổn ngay cả những trong những nền dân chủ được thán phục nhất mà trong thời kì những năm chiến tranh, thành bang Athens đã đầu hàng trước cái triết lí ‘mạnh được yếu thua’  như thế nào, khiến cho nhiều giá trị của xã hội này bị phá huỷ.  Kế thừa Thucydides là Xenophon (học trò của Socrates) đã viết tác phẩm Hellennica về 7 năm cuối cùng của cuộc chiến Pelonoponesia, thời mà ông đã trải qua, và cuốn Anabasis kể lại như một nhân chứng về cuộc viễn chinh cùng với quân Sparta tới Ba Tư để giúp Cyrus Đại đế toan tính lấy lại đế quốc Ba Tư. 

Sử học của thời La Mã tất nhiên thừa hưởng những mẫu mực Hi Lạp nhưng chủ yếu theo lối viết sử biên niên. Tacitus được xem là sử gia vĩ đại nhất của đế quốc La Mã, với văn phong Latin bậc thầy. Ông sống vào thế kỉ thứ nhất, thời sơ kì của đế chế La Mã khi nền cộng hoà bị thủ tiêu, câu nói nổi tiếng của Tacitus: ‘Nền cộng hoà càng mục ruỗng, nó càng có nhiều luật lệ’.  Hai tác phẩm của ông về lịch sử La Mã, Biên niên sử (Annales) chép lại những biến cố xảy ra trong 54  năm, và Sử kí (Histories) từ năm 68-96, các sự kiện được ông ghi chép hết sức chân thật, kể cả những bất công và những tội ác của những nhân vật chính trị đương thời. Sử gia Titus Livius, từ 27-9 TCN, ông viết bộ Lịch sử thành Rome (History of Rome) gồm 142 quyển nhưng chỉ còn tồn tại 35 quyển, về sự hình thành Rome cho tới thời Augustus mà ông đang sống. 


3. TỬ (bách gia chư tử) gồm các loại sách do các triết gia viết về thiên văn, toán học, khoa học.

Vật lí học (Physics) của Aristotle là cuốn sách nền tảng của khoa học và triết học phương Tây. Luận về các tầng trời (On the Heavens) về lí thuyết thiên văn và vũ trụ luận của Aristotle. Những nguyên lí cơ bản (Elements) của Euclid, ‘Ông tổ của hình học’, bộ sách về toán học và hình học của ông (viết vào tk 3 TCN) không những xây dựng hệ tiên đề cho hình học mà còn đặt nền móng cho sự phát triển tư duy luận lí và khoa học hiện đại. Triết gia Lucretius (khoảng 55 TCN) viết Luận về bản chất vạn vật (On the Nature of Things) về lí thuyết nguyên tử vận hành vũ trụ.  Trong thế kỉ thứ nhất, triết gia và nhà khoa học tự nhiên Pliny Già (Pliny the Elder) viết cuốn bách khoa Lịch sử tự nhiên (Naturalis Historia) trở thành mẫu mực cho các loại bách khoa toàn thư.

4. TẬP gồm tác phẩm văn học thuộc nhiều thể loại, như thơ ca, văn xuôi, kịch, luận khảo.

Khởi đầu với hai sử thi lớn thời Hi Lạp cổ đại: Iliad Odyssey của Homer vào thế kỉ 8 TCN.  Thần phổ (Theogony) và Công tác và thời nhật (Works and Days) của Hesiod. Các vở bi kịch của Aeschylus như Prometheus; Oedipus của Sophocles; Medea của Euripides; Hài kịch của Aristophanes.  Thế kỉ thứ 4-3 TCN, ra đời thể Tân Hài kịch của Menander, như Cô gái Samos. Truyện ngụ ngôn (Fables) của Aesop.  Thi học (Poetics) của Aristotle.  Tụng ca (Odes) của Pindar, nhà thơ trữ tình vĩ đại nhất thời Hi Lạp cổ đại.

Thời kì Hi Lạp hoá, Cassius Longinus với Luận về cái trác tuyệt (On the Sublime) viết vào đầu thế kỉ thứ nhất, là tác phẩm kinh điển về mĩ học và phê bình văn học. Tụng ca và cách ngôn (Hymns and Epigrams) của Callimachus. Những cuộc đời sóng đôi (Paralell Lives) của Plutarch. Các tác phẩm Trào phúng (Satires) nổi tiếng của Lucian vào thế kỉ thứ 2,  ông cũng viết đủ mọi thể loại từ đối thoại hài hước, luận văn tu từ, cho tới những thể văn xuôi hư cấu. Tác phẩm của Lucian ảnh hưởng thâm sâu tới rất nhiều tác phẩm của các nhà văn lớn về sau, như Utopia của More, Cuộc phiêu lưu của Gulliver của Switf,vv… cũng dự báo cho thể loại tiểu thuyết khoa học viễn tưởng hiện đại. Văn học Latin trong Thời đại Augustus (27 TCN-14 CN): nhà thơ Virgil với Mục ca (Ecologues), Thơ đồng áng (Georgics) và Aeneid.  Sau Virgil,  nhà thơ đứng đầu thành Rome là Horace, viết Tụng thi (Odes), và Nghệ thuật thơ ca (Art of Poetry) ảnh hưởng lớn tới những lí thuyết thơ sau này. Tác phẩm truyện thơ thần thoại Hoá thân (Metamorphoses), Nghệ thuật ái tình (The Art of Love) dạy về nghệ thuật yêu đương của nhà thơ Ovid có ảnh hưởng lớn tới tới thời Trung Cổ và Phục hưng. Hai cuốn tiểu thuyết Latin đầu tiên là Satyricon (khoảng năm 60) của Petronius, và Con lừa vàng (The Golden Ass) của Apuleius viết vào thế kỉ thứ 2. Trong thời hoàng đế Nero thống trị, nhà viết kịch và triết gia Khắc kỉ Seneca viết nhiều đối thoại và thư từ về đạo đức sống, và những vở bi kịch của ông, như  Medea Hercules Furens, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển nghệ thuật bi kịch của châu Âu. Trong thời suy tàn của đế quốc La Mã vào thế kỉ thứ 5, tác phẩm Tự bạch (Confessions) của Thánh Augustine thành Hippo là cuốn tự truyện đầu tiên của phương Tây và luôn được liệt vào trong số kiệt tác văn học. 

*

Di sản của hai nền văn minh cổ điển Hi-La trở thành mẫu mực về sau, mà kinh điển và nghệ thuật đã liên tục tái sinh, như trong thời Phục Hưng, là khuôn mẫu cho các đế quốc châu Âu về sau như Byzantine , Tây Ban Nha, Anh, rồi lại hồi sinh trong nghệ thuật và văn học  Tân Cổ Điển của kỉ nguyên Ánh sáng vào thế kỉ 18, và cho tới ngày nay đều luôn để lại những dấu ấn sâu sắc, chẳng hạn như trong tác phẩm văn học ảnh hưởng nhất thế kỉ 20 là Ulysses của James Joyce. Đây chính là điều mà nhà văn Edgar Allan Poe từng tán dương: "Vinh quang thay Hi Lạp, và hùng vĩ thay La Mã!” (“The glory that was Greece and the grandeur that was Rome”).


*Bài đã đăng trên Tia sáng, 8.2017

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét