Hà Vũ Trọng
Có thể nói rằng tất cả mọi thứ, từ chính trị, triết học, sử học, pháp
luật, giáo dục, khoa học, toán học, nghệ thuật, kiến trúc, văn học, ngôn ngữ, và
cả thể thao cũng đều có gốc từ Hi Lạp cổ đại mà ra; chưa kể đa số những thứ tiếng
châu Âu mang tính học thuật phần lớn cũng đều có gốc Hi Lạp và Latin, trải qua
lịch sử của hai đế chế kéo dài hơn một ngàn năm đều là những nước ‘đồng văn’. Hoặc
những lối tu từ ‘điển tích’ tràn đầy khái niệm Hi-La diễn đạt trong sách vở,
báo chí và trên hiện trường chính trị
ngày nay mà ta bắt gặp, thường lấy hình mẫu từ sử thi Homer, kịch nghệ và triết
học Hi Lạp, văn chương Latin cho tới việc dùng các hình mẫu như Caesar, Cirero,
Hocare, Lucian, vv… mà một người nếu
không đọc kinh điển Hi-La sẽ không thể nào hiểu sâu sắc được.
Tuy vậy, vấn
đề khó khăn đối với chúng ta hiện nay khi đối diện trước kho kinh điển đồ sộ
hàng ngàn năm của thế giới Hi-La như thế, không ai có thời gian ôm đồm tất cả nếu
không muốn bị hoang mang. Do vậy, chỉ có thể từ kho kinh điển (classics) này lại
ưu tiên chọn ra những chính điển (canons) không thể thiếu được, nhất là trong dự
án dịch thuật các tác phẩm này sang tiếng Việt, để dần dần nỗ lực hướng tới một
tủ sách kinh điển Hi-La tương đối cơ bản.
Như vậy hẳn nhiên độc giả cần có một bản đồ nhỏ ‘trong lòng bàn tay’ về
kinh điển hay chính điển Hi-La cần phải đọc. Dưới đây, để cho tiện, xin mượn cách phân loại sách kinh điển của Trung
Hoa và Đông Á thành bốn bộ: Kinh, Sử, Tử, Tập để áp dụng tương tự đối với kinh
điển Hi-La:
1. KINH gồm sách triết học, chính
trị và đạo đức.
Những tác phẩm Hi Lạp cổ đại của các triết gia bắt đầu từ thời tiền-Socrates
như Heraclitus và Empedocles. Môn đệ của Socrates là Plato (khoảng 427-347) sáng
lập Trường Athena, tác phẩm có ảnh hưởng nhất của ông tới tư duy triết học, đạo
đức và học thuyết chính trị là Cộng hoà (The Republic) viết vào khoảng
380 TCN. Tác phẩm Đối thoại (Dialogues) của Plato viết theo thể đối thoại kiểu
Socrates, cũng là những ghi chép duy nhất những lời dạy của Socrates. Môn đệ của
Plato là Aristotle (384-322 TCN), sáng lập Trường Lyceum, thầy dạy của
Alexander Đại đế, tác phẩm của ông bao gồm rất nhiều lĩnh vực. Ông đặt nền móng
cho luận lí học và là ông tổ của Khoa học chính trị, cuốn Đạo đức học (Nichomachean Ethics/ hay Đạo đức học đề tặng Nichomachea) bàn về sự
theo đuổi cái thiện tối hảo. Tác phẩm Chính trị học (Politics) của ông có đóng
góp quan trọng đối với khoa học chính trị, khảo sát những ‘hiến pháp’ của nhiều
thành bang khác nhau của Hi Lạp, và liệt kê các loại chính quyền với những ưu
điểm và nhược điểm. Thời kì Hi Lạp hoá (Roman-era Greek), Đạo đức luận (Moralia) của
học giả Hi Lạp Plutarch vào thế kỉ thứ nhất, gồm 78 luận văn và diễn thuyết, có
ảnh hưởng tới nhiều thế hệ châu Âu về sau (như Michel de Montaigne và chủ nghĩa
Nhân văn Phục hưng và những triết gia thời Ánh sáng). Triết gia, chính khách và
biện giả vĩ đại Cicero của La Mã viết Luận về chính quyền (On Government) đưa ra hình mẫu chính
trị gia mẫu mực và chính quyền lí tưởng, và
Luận
về bản tính của chư thần (On the
Nature of the Gods) viết về triết-thần học của các triết gia Hi Lạp và La
Mã. Cuốn Trầm tư (Meditations) vốn là bút kí tư tưởng về triết học Khắc
kỉ của hoàng đế Marcus Aurelius mà ông xem
như một nguồn hướng đạo sống. Triết gia Plotinus (205-270) người sáng lập trường
phái Tân-Plato, triết học siêu hình có ảnh hưởng lớn nhất trong thời cổ đại hậu
kì chỉ sau Plato và Aristotle, tác phẩm Enneads gồm 9 quyển, do môn đệ
Porphyry kết tập và giới thiệu.
2. SỬ gồm sách về lịch sử và
địa lí.
Người Hi Lạp cống hiến những tác phẩm lịch sử đích thực và đầu tiên,
‘Ông tổ sử học’ Herodotus (thế kỉ thứ 5 trước CN) là người đầu tiên dùng thuật
ngữ ‘lịch sử’ (historiai). Tác phẩm
vĩ đại của ông là Lịch sử chiến tranh Hi Lạp-Ba Tư (History of the Persian wars) tác phẩm này vượt xa thể loại những
biên niên sử, ông có nhãn quan rộng
khi nhìn về mọi mặt, từ mặt nhân quả của chiến tranh, bài học rút ra từ lịch sử,
thái độ khách quan và tôn trọng đối với những nền văn hoá khác biệt của các dân
tộc, không chỉ về chiến tranh, ông còn bàn về các mối tương quan, về tôn giáo,
gia đình, vv…. Ông cũng được coi là ông tổ của ngành nhân học văn hoá. Chủ đề
chính trong sách của Herodotus là giá trị sống trong một xã hội tự do thay cho
sống dưới ách chuyên chế bất luận nó là một xã hội được tổ chức tốt và phồn
vinh tới đâu đi nữa. Cuốn sách của Herodotus là một trong những nguồn mạch cho
sự yêu chuộng tự do của phương Tây. Quan trọng không kém, tác phẩm của một sử
gia lớn khác là Thucydides, Lịch sử chiến tranh Peloponnese, tường thuật lại cuộc chiến Peloponnesia kéo dài 27 năm giữa hai thành bang Athens và
Sparta. Thucydides cho thấy có điều không ổn ngay cả những trong những nền dân
chủ được thán phục nhất mà trong thời kì những năm chiến tranh, thành bang
Athens đã đầu hàng trước cái triết lí ‘mạnh được yếu thua’ như thế nào, khiến cho nhiều giá trị của xã hội
này bị phá huỷ. Kế thừa Thucydides là
Xenophon (học trò của Socrates) đã viết tác phẩm Hellennica về 7 năm cuối cùng của cuộc chiến
Pelonoponesia, thời mà ông đã trải qua, và cuốn Anabasis kể lại như một
nhân chứng về cuộc viễn chinh cùng với quân Sparta tới Ba Tư để giúp Cyrus Đại
đế toan tính lấy lại đế quốc Ba Tư.
Sử học của thời La Mã tất nhiên thừa hưởng những mẫu mực Hi Lạp nhưng
chủ yếu theo lối viết sử biên niên. Tacitus
được xem là sử gia vĩ đại nhất của đế quốc La Mã, với văn phong Latin bậc
thầy. Ông sống vào thế kỉ thứ nhất, thời sơ kì của đế chế La Mã khi nền cộng
hoà bị thủ tiêu, câu nói nổi tiếng của Tacitus: ‘Nền cộng hoà càng mục ruỗng,
nó càng có nhiều luật lệ’. Hai tác phẩm của
ông về lịch sử La Mã, Biên niên sử (Annales) chép lại những biến cố xảy ra trong 54 năm, và Sử kí (Histories) từ năm 68-96, các sự kiện được ông ghi chép hết sức chân
thật, kể cả những bất công và những tội ác của những nhân vật chính trị đương
thời. Sử gia Titus Livius, từ 27-9 TCN, ông viết bộ Lịch sử thành Rome (History of Rome) gồm 142 quyển nhưng chỉ
còn tồn tại 35 quyển, về sự hình thành Rome cho tới thời Augustus mà ông đang sống.
3. TỬ (bách gia chư tử) gồm
các loại sách do các triết gia viết về thiên văn, toán học, khoa học.
Vật lí học (Physics)
của Aristotle là cuốn sách nền tảng của khoa học và triết học phương Tây. Luận
về các tầng trời (On the Heavens) về lí thuyết thiên văn và vũ trụ luận
của Aristotle. Những nguyên lí cơ bản (Elements)
của Euclid, ‘Ông tổ của hình học’, bộ sách về toán học và hình học của ông (viết
vào tk 3 TCN) không những xây dựng hệ tiên đề cho hình học mà còn đặt nền móng
cho sự phát triển tư duy luận lí và khoa học hiện đại. Triết gia Lucretius (khoảng
55 TCN) viết Luận về bản chất vạn vật (On the Nature of Things) về lí thuyết nguyên tử vận hành
vũ trụ. Trong thế kỉ thứ nhất, triết gia và nhà khoa học tự nhiên Pliny Già (Pliny
the Elder) viết cuốn bách khoa Lịch sử
tự nhiên (Naturalis Historia) trở thành mẫu mực cho các loại bách khoa
toàn thư.
4. TẬP gồm tác phẩm văn học thuộc
nhiều thể loại, như thơ ca, văn xuôi, kịch, luận khảo.
Khởi đầu với hai sử thi lớn thời Hi Lạp cổ đại: Iliad và Odyssey của Homer vào thế kỉ 8 TCN. Thần phổ (Theogony) và Công tác và thời nhật (Works and Days) của Hesiod. Các vở bi kịch
của Aeschylus như Prometheus; Oedipus của Sophocles; Medea của Euripides; Hài kịch của
Aristophanes. Thế kỉ thứ 4-3 TCN, ra đời
thể Tân Hài kịch của Menander, như Cô gái Samos. Truyện ngụ ngôn (Fables) của Aesop. Thi học (Poetics) của Aristotle. Tụng ca (Odes) của Pindar, nhà thơ
trữ tình vĩ đại nhất thời Hi Lạp cổ đại.
Thời kì Hi Lạp hoá, Cassius Longinus với Luận về cái trác tuyệt (On the Sublime) viết vào đầu thế kỉ thứ
nhất, là tác phẩm kinh điển về mĩ học và phê bình văn học. Tụng ca và
cách ngôn (Hymns and Epigrams) của Callimachus. Những
cuộc đời sóng đôi (Paralell
Lives) của Plutarch. Các tác phẩm Trào phúng (Satires) nổi tiếng của Lucian
vào thế kỉ thứ 2, ông cũng viết đủ mọi
thể loại từ đối thoại hài hước, luận văn tu từ, cho tới những thể văn xuôi hư cấu.
Tác phẩm của Lucian ảnh hưởng thâm sâu tới rất nhiều tác phẩm của các nhà văn lớn
về sau, như Utopia của More, Cuộc phiêu lưu của Gulliver của Switf,vv…
cũng dự báo cho thể loại tiểu thuyết khoa học viễn tưởng hiện đại. Văn học
Latin trong Thời đại Augustus (27 TCN-14 CN): nhà thơ Virgil với Mục ca (Ecologues), Thơ đồng áng (Georgics) và Aeneid. Sau Virgil,
nhà thơ đứng đầu thành Rome là Horace, viết Tụng thi (Odes), và Nghệ thuật thơ ca (Art
of Poetry) ảnh hưởng lớn tới những lí thuyết thơ sau này. Tác phẩm truyện
thơ thần thoại Hoá thân (Metamorphoses),
và Nghệ thuật ái tình (The Art of Love) dạy về nghệ thuật yêu đương
của nhà thơ Ovid có ảnh hưởng lớn tới
tới thời Trung Cổ và Phục hưng. Hai cuốn tiểu thuyết Latin đầu tiên là Satyricon (khoảng năm 60) của Petronius, và Con lừa
vàng (The Golden Ass) của
Apuleius viết vào thế kỉ thứ 2. Trong thời hoàng đế Nero thống trị, nhà viết kịch
và triết gia Khắc kỉ Seneca viết nhiều đối thoại và thư từ về đạo đức sống, và những
vở bi kịch của ông, như Medea và Hercules Furens, ảnh hưởng lớn tới sự
phát triển nghệ thuật bi kịch của châu Âu. Trong thời suy tàn của đế quốc La Mã
vào thế kỉ thứ 5, tác phẩm Tự bạch (Confessions) của Thánh Augustine thành Hippo là cuốn tự truyện đầu
tiên của phương Tây và luôn được liệt vào trong số kiệt tác văn học.
*
Di sản của hai nền văn minh cổ điển Hi-La trở thành mẫu mực về sau, mà
kinh điển và nghệ thuật đã liên tục tái sinh, như trong thời Phục Hưng, là
khuôn mẫu cho các đế quốc châu Âu về sau như Byzantine , Tây Ban Nha, Anh, rồi
lại hồi sinh trong nghệ thuật và văn học Tân Cổ Điển của kỉ nguyên Ánh sáng vào thế kỉ
18, và cho tới ngày nay đều luôn để lại những dấu ấn sâu sắc, chẳng hạn như
trong tác phẩm văn học ảnh hưởng nhất thế kỉ 20 là Ulysses của James Joyce. Đây chính là điều mà nhà văn Edgar Allan
Poe từng tán dương: "Vinh quang thay Hi Lạp, và hùng vĩ thay La Mã!” (“The glory that was Greece and the
grandeur that was Rome”).
*Bài đã đăng trên Tia sáng, 8.2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét