Thứ Tư, 23 tháng 1, 2019

Mã Kiến LỄ QUÁN ĐỈNH

Hà Vũ Trọng dịch

Mã Kiến (Ma Jian) 馬建 sinh năm 1953 tại Thanh Đảo, Trung Quốc. Ông từng làm các nghề như sửa đồng hồ, vẽ bảng tuyên truyền, và phóng viên ảnh. Tuổi 30, ông bỏ việc, như kẻ phiêu bạt suốt ba năm liền, từ 1983-86, đi khắp những vùng xa xôi của Trung Quốc, và viết tác phẩm đầu tay là cuốn du kí Hồng trần 红尘 (Red Dust: A Path Through China; Nxb Anchor 2001), đem lại giải thưởng cho sách viết về du lịch Thomas Cook Travel Book Award năm 2002. Năm 1987, khi tập truyện Thè lưỡi ra hoặc trống hoác 亮出你的舌苔或空空荡荡 (Stick Out Your Tongue; Vintage 2006) xuất bản trên tạp chí Nhân dân văn học, lập tức bị chính quyền tịch thu, tiêu huỷ và cấm mọi tác phẩm của ông kể từ đó đến nay. Mã Kiến bỏ Bắc Kinh sang Hồng Kông năm 1987 như một người li khai, nhưng ông vẫn tiếp tục quay lại đại lục, và ủng hộ những nhà hoạt động dân chủ Thiên an môn 1989. Ở Hồng Kông, ông viết tập truyện châm biếm chính trị chua chát, Thợ làm mì 拉面者 (The Noodle Maker; Nxb Farrar, Straus and Giroux 2005). Sau khi Hồng Kông được trao trả, vào năm 1997, Mã Kiến sang Đức, và từ 1999, sống ở London với người bạn đời và là dịch giả Flora Dew, và xuất bản cuốn tiểu thuyết Đất thịt 肉之土 hay Bắc Kinh hôn mê (Beijing Coma; Farrar, Straus and Giroux 2008), một giảo nghiệm về sự kiện Thiên an môn và phê phán chứng mất trí của xã hội Trung Quốc hiện thời; câu chuyện chìm trong cơn hôn mê dài suốt mười năm của nhân vật chính sau vụ thảm sát, trong thời gian ấy Trung Quốc đã qua nhiều thay đổi, và sau khi hồi tỉnh, 'Thật vậy, lẽ nào tôi tỉnh dậy sau một giấc ngủ triền miên để lại hoà mình vào với đám đông bên ngoài cũng bị hôn mê?' 

 

Truyện ngắn ‘Lễ quán đỉnh’ (The Final Innitiation) được dịch dưới đây là truyện cuối trong tập Thè lưỡi ra, gồm năm câu chuyện về một Tây Tạng tàn bạo và bần cùng hoá. Một Tây Tạng mà Mã Kiến tiết lộ khác hẳn với cõi Thiên thai Shangrila của những người lãng mạn và chính quyền Trung Quốc tô vẽ; vì thế, tập truyện có thể vượt quá sức chịu đựng của một số độc giả. Ông phê bình người phương Tây có cái nhìn lí tưởng hoá về Tây Tạng như là những con người hiền lành, sùng đạo, chưa bị hư hỏng bởi những tham dục ti tiện. Theo kinh nghiệm của ông, người Tây Tạng cũng có thể đồi bại và tàn bạo như phần còn lại của chúng ta. Lí tưởng hoá họ là khước từ nhân tính của họ. Ông khiển trách lối nhìn của người Trung Quốc xem phần đất này như một tiền đồn cằn cỗi của Đại Hán, và họ ăn phải bả tuyên truyền của Đảng Cộng sản về cuộc 'giải phóng' xứ sở này. Họ không biết gì về sự huỷ diệt mà người Trung Quốc đã trút xuống Tây Tạng, hoặc về sự kiện xâm lăng kể từ 1949, đã có khoảng 1.2 triệu người Tây Tạng chết vì bị bách hại chính trị, tù đày, tra tấn và chết đói. Trong Lời bạt tập truyện, Mã Kiến kể lại, năm 1985, sau ba năm chạy trốn nhà cầm quyền, cuối cùng ông hướng tới Tây Tạng, hi vọng rút cục tìm thấy ở đó một nơi ‘quy y’ xa khỏi một xã hội Trung Quốc đã trở nên vô hồn. 'Tôi muốn trốn thoát vào một quang cảnh và văn hoá dị biệt, và mong đạt được tuệ giác thâm sâu hơn trong niềm tin Phật giáo của mình.' Thế nhưng hi vọng đạt được sự mạc khải tín ngưỡng của ông đã trở nên tiêu tan. Tây Tạng giờ là một xứ sở với quả tim tâm linh bị xé nát. Hàng ngàn đền chùa đã trở thành phế tích. Trước các cổng chùa đều có công an vũ trang đứng canh, và trên những bức tường viết lem nhem những khẩu hiệu dạy các nhà sư phải: 'Yêu nước, yêu Đảng, và học tập theo gương Mác-Lê'. ‘Ở xứ sở linh thiêng này, dường như Phật còn không tự cứu được bản thân, làm sao tôi có thể kì vọng ngài cứu độ tôi? Khi đức tin của tôi sụp đổ, một khoảng trống mở ra trong tôi. Tôi cảm thấy trống rỗng và bất lực, thảm thiết như một con bệnh thè lưỡi ra và cầu xin bác sĩ chẩn đoán xem có gì không ổn với mình.’ Khi trở về Bắc Kinh, Mã Kiến ở trong một trạng thái kiệt quệ đầy bất an. 'Tôi nhốt mình trong cái chòi và bắt đầu viết như lên cơn sốt, tôi muốn thể hiện sự hoang mang và bối rối của mình, nỗi đồng cảm với những con người bị thiệt thòi và bị truất hữu, nỗi tức giận với niềm tin mù quáng, và nỗi đau trước những tổn thất mà chúng ta chuốc lấy trên cuộc hành trình tới cái gọi là 'văn minh'. Tôi muốn viết về Tây Tạng như tôi đã kinh nghiệm nó, vừa là thực tế vừa là trạng thái của tâm trí.’

 *


Dãy núi nhấp nhô trải dài hàng trăm dặm, trần trụi và lặng im dưới ánh mặt trời. Khi hoàng hôn buông xuống, ánh tà dương thấm đẫm những sườn dốc bằng thứ ánh sáng đỏ máu. Vào lúc mặt trời chìm xuống dưới những đỉnh lởm chởm và những dải ánh sáng cuối cùng lơ lửng giữa trời và đất, tôi bắt đầu đứng dậy, mò mẫm leo lên. Nơi những quả núi mọc lên như những phế tích một cổ thành ấy, tôi đã tìm kiếm hoài công một mạch sống. Rặng núi kéo tôi lên, nhận tôi xuống, rồi biến tôi thành một cái xác rỗng. Khi không còn có thể đi xa hơn được, tôi ngã sụp xuống đất, vọc bàn tay vào trong đá và khóc nức như đứa bé. Rồi tôi đứng dậy, mỉm cười, đi trở xuống con đường.

Đó là cái ngày sau khi tôi rời khỏi Raga. Trong túi đeo lưng của tôi có một cái chén tế lễ làm bằng sọ người mà tôi mua được ở một khu phố chợ. Sự hiện diện của cái sọ làm tôi xáo trộn và bồn chồn. Tôi quyết định leo lên những quả núi trọc kia cố làm cho đầu óc mình thư thái một chút và tính xem nên làm gì với đời mình. Ở cao nguyên Tây Tạng, tông giáo thấm vào mỗi tấc đất. Ở đây Con người và Thần linh bất phân, truyền thuyết và thần thoại đan bện vào nhau. Con người ở đó chịu những thống khổ vượt ngoài sự nhận thức của thế giới hiện đại. Giờ tôi viết câu chuyện này xuống với hi vọng bắt đầu quên nó đi. 

Bé gái được tìm thấy chín ngày sau khi vị Phật Sống Tenzin Wangdu qua đời. Mới chín ngày tuổi, nhưng đôi mắt của cô bé mở lớn và chăm chú nhìn người và mọi vật xung quanh. Cái lán làm bằng gạch bùn và rơm. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu bơ chiếu lên manh vải đã sờn từ cái yếm của người mẹ. Đây là một gia đình nghèo. Khi người mẹ nghe thấy tiếng động từ bên ngoài, bà nhét đứa bé lại vào trong cái áo khoác da cừu của mình. Đám khách đứng chật lối ra vào, họ đứng đó như một bầy cừu đen. Bà mẹ đứng dậy mời họ vào. Họ là những tăng sĩ bậc cao của Tu viện Tenpa do Lạt ma Tsungma dẫn đầu.

Lạt ma Tsungma nói, 'Chúng tôi nghe nói đứa con bà ra đời chín ngày trước.' Bà mẹ đáp: ‘Vâng’. Đám tăng sĩ tức thì chắp tay niệm kinh. Lạt ma Tsungma phái người trở về bẩm báo cho các vị bề trên rằng đã tìm thấy hoá thân mới của vị Phật Sống. Rồi ông quay sang người mẹ và hỏi, 'Con trai hay con gái? Tên nó là gì? Sangsang Dolma à? Từ nay trở đi nó sẽ được gọi là Sangsang Tashi[1]

Sau đó một nghi lễ long trọng mừng sự chuyển sanh của Phật sống Tenzin Wangdu, và toàn gia đình của Sangsang Tashi cũng rời cái lán của họ để chuyển đến Tu viện Tenpa.

Lên 15 tuổi, Sangsang Tashi đã học xong Ngũ Bộ Đại Luận và bắt đầu tu học y khoa ở Trường Manrinba. Trường cách Tu viện một giờ đi bộ. Ban đầu, nàng được chở đến trường bằng ngựa hoặc xe. Nhưng sau vài tháng, nàng đòi được tự mình đi bộ tới trường. Nàng cho rằng những cuộc dạo hành một mình giúp cho đầu óc của mình được thanh tịnh. Những cảm xúc khó tả nổi đã bắt đầu quấy rối nàng. Tới giờ, tất cả việc nàng đã làm trong mười lăm năm đời mình là học kinh sách và tu tập du già công. Con đường dẫn tới trường cho nàng khoái cảm tuyệt vời, vì nàng thường mơ thấy nó trong giấc ngủ. Kì thực, nàng đã bước đi một nửa phần đầu của con đường này cả ngàn lần trước đây.

Khi nàng mở cửa thiền thất, từ đó có một con đường đá nhỏ uốn quanh dưới sườn núi ở giữa những học viện khác nhau. Tại khúc quanh đầu tiên là một bức tường đỏ bao bọc trung tâm tu viện: một ngôi đền thờ phụng Đức Thích Ca Mâu Ni và Thập Lục Đại Bồ Tát. Quanh bức tường này là lối đi dành cho khách hành hương, có một bà lão đã đi vòng quanh suốt hai mươi năm thủ trì quay bánh xe cầu nguyện, bà khẩn cầu cho kiếp sau được tái sinh thành nam nhân. Hễ mỗi khi nhìn thấy Sangsang Tashi thì bà lão toàn thân phủ phục và dập đầu lạy.

Đối diện bức tường đỏ là một cánh cổng chính ngôi nhà vị sư trưởng. Lũ chó hoang tụ tập trước sân ngoài đuổi theo nhau và giao cấu. Xa hơn nữa rẽ bên phải, người ta sẽ thấy con đường dẫn tới đại môn của tu viện. Trong ngày Lễ Vén Tấm Thảm Đức Phật, con đường tràn ngập những đoàn người hành hương. Vào những lúc khác, đám thương nhân cắm lều dọc theo vệ đường và trao đổi hàng hoá. Giữa những cái lều và khu nhà gạch nhỏ, đám hành khất và đám thợ nề lưu động xây những căn lều tạm thời từ những viên đá xốp. Sangsang Tashi thường đi xuống con đường này để mua vòng xuyến và bông tai từ những thương nhân Ấn độ.

Khi đi bộ tới trường y khoa, Sangsang Tashi sẽ rẽ trái ngay cổng tu viện, rồi bỏ lại con đường và băng ngang qua những cánh đồng kiều mạch và đậu. Những cây liễu lùn xếp hàng bên đường mòn um tùm đám rau tần bò leo. Buổi sáng không khí đầy mùi hương hoa dại. Sangsang Tashi thường dừng lại trên những cánh đồng này và ngoái đầu nhìn cảnh Tu viện Tenpa. Ở phần chóp của quần thể tu viện, lưng chừng núi, là Phật đài bằng đá, trên đó trong ngày lễ hội, tấm thảm Đức Phật được phô bày. Phật đài cao lớn và khiết tịnh. Khi gió thổi, Sangsang Tashi có thể nghe tiếng cờ nguyện cầu bay phất phới trên mái tu viện. Thanh âm như thể tiếng vải xé. Hàng trăm ngôi đền nhỏ ôm sát theo sườn núi. Xa hơn dọc theo những cánh đồng, con đường băng qua một con suối từ trên núi đổ xuống rồi chảy hòa vào Sông Nyangchu từ xa lấp lánh.

Mỗi lần Sangsang Tashi đi trên con đường này, nàng lại quên mất mình là một vị Phật Sống, hoá thân của Tenzin Wangdu. Hương đồng nội làm nàng say sưa. Nàng thích đứng trên cái cầu gỗ bắc qua Sông Nyangchu ngắm nhìn đám tảo lay động trong dòng nước. Qua Nyangchu là trường y khoa, và đằng sau là quả núi hoang sơ.

Ngày mai, Sangsang Tashi sẽ được nhận nghi thức Kim Cương quán đỉnh long trọng. Trong nghi lễ truyền pháp quán đỉnh[2] này, Phật A-di-đà sẽ điều phục mọi tham tính và sân tính của nàng, và cuối cùng cho phép hiển lộ Như Lại Tạng. Đó là vào ngày đầu thu, những khách hành hương đều đã đổ xô từ trên núi xuống để chào đón nàng sau lễ quán đỉnh, tham dự lễ khai thị Phật sống và lễ bố thí. Sangsang Tashi không hề có hứng thú với những hoạt động này, nàng chỉ muốn được ở một mình với những suy nghĩ riêng.

Hôm nay, như thường lệ nàng tới lớp học của vị thượng sư nằm ở phòng chính của trường y. Một thi thể đặt nằm ở chính giữa sảnh đường rộng thênh. Hôm nay thượng sư giảng về vị trí của các điểm khí mạch trên người. Đây chính là điều mà Sangsang Tashi háo hức muốn biết. Khi đã đặt thi thể lên tế đàn, thượng sư cầm con dao lên. Ngài xẻ lồng ngực thi thể, moi ngũ tạng và lục phủ ra ngoài, lôi quả tim ra và chỉ vào vị trí của tâm nhãn. Mùi hôi thối khiến Sangsang Tashi buồn nôn.

Mặc dù nàng cũng cạo đầu như những người khác, nhưng nàng là phụ nữ duy nhất trong phòng. Đứng cạnh nàng là Geleg Paljor, giống như hàng chục đệ tử khác, anh đang nhìn chăm chú vào vị thượng sư. Geleg đã thụ giáo mật điển Thời luân kim cương [Kalachakra, tức lễ về vòng thời gian] ở Tu viện Panam, và được gửi tới trường tiếp tục học thêm. Sangsang Tashi bao giờ cũng thích đứng gần anh ta trong lớp học.

Thượng sư bảo các đệ tử nhắm mắt lại, tập trung tâm trí để xem ngài đang nghĩ gì. Sau một hồi, bốn tăng sĩ nói rằng họ có thể đọc được những ý nghĩ của thượng sư. Thượng sư hỏi Sangsang Tashi đã thấy gì. Nàng là đệ tử trẻ tuổi nhất trong lớp, lại là vị Phật Sống. Nàng lập tức nhập định, nhưng vì nàng chỉ tu tập du già công có sáu năm, nên tâm nhãn của nàng vẫn còn mơ hồ. Nàng tụng chân ngôn để trấn tĩnh vị thẩn bổn tôn của mình và để điều hoà kinh mạch tim, nhưng cũng không thể nào quán tưởng được bốn minh điểm của thân thể vi tế. Nàng có cảm giác nóng rát nơi những ngón chân. Dần dần, khí nóng tụ thành một quả cầu lửa từ chân bốc lên tới tâm nhãn. Nàng vội tụng chân ngôn Om Svabhava để làm thanh tịnh thân và ổn trụ thần thức, từ từ nàng nhìn thấy hình ảnh một dòng sông đóng băng hiện ra trong tâm của vị thượng sư. Vừa khi sự nhập định sắp chuyển nàng sang Cõi Quang minh, thì nàng thấy mình đứng trần truồng trong dòng sông đóng băng này. Nàng vội thu tâm, kể cho thượng sư những gì mình thấy.

Thượng sư nói, 'Hình ảnh con thấy trong tâm ta là hình ảnh mà ta thấy trong tâm con. Con mắt nhìn thấy vị lai không phải là tâm nhãn.' Vị thượng sư lại cầm con dao lên rồi lèn vào trong hộp sọ của thi thể.

Sangsang Tashi trong lòng bối rối. Vị thượng sư đã không giải thích tại sao nàng lại đứng trong dòng băng hà, và tự hỏi, phải chăng đó là tương lai của mình? Cảnh tượng thấy mình loã thể khiến nàng ngạc nhiên. Trông nàng giống như một Dakini,[3] vị không-hành-nữ này được miêu tả trong tranh tượng Phật giáo mà nàng nhìn thấy hàng ngày. Vào lúc này, vị thượng sư cạy ra một mảnh sụn nhỏ từ dưới tuyến yên rồi nói, ‘Đây là con mắt của vị lai. Sau những năm tu luyện, các con có thể dùng con mắt này để nhìn thấy các loại bệnh tật và ma quỷ tiềm tàng bên trong thân thể con người. Cách đây vài phút, ta đã nhìn thấy Sangsang Tashi trong dòng sông băng. Đấy là một trong lục hành tam khổ mà cô ta phải chịu trong hai ngày tới. Nghe đây, Sangsang Tashi, du già công của con khả dĩ đủ cho con giữ được mạng sống suốt ba ngày trong dòng băng hà mà không bị tổn thương.’

Sangsang Tashi cảm thấy lo lắng. Dòng băng hà thì ở xa tít; nàng chỉ có thể thấy nó từ chóp một quả núi. Tuy nàng có thể ngồi trong tuyết một vài ngày mà không cảm thấy lạnh, nhưng lại không có ý niệm về cảm giác ra sao khi đứng trong một dòng băng hà. Nàng nghĩ tới hơi nóng cảm thấy trong những ngón chân cách đây vài phút, mà không phải từ thân thể phát ra. Nàng liếc nhìn quanh và thấy một vầng hào quang lơ lửng trên đầu Geleg Paljor. Nàng mỉm cười với anh ta. Nàng biết rằng du già công của Geleg đã vượt qua vị thượng sư, nhưng anh đã chọn không tiết lộ điều này với ai.

Vị thượng sư cầm miếng sụn lên từ thi thể rồi nói, 'Người đàn ông này vô minh và mê lầm. Y sống một cuộc đời bê bối và bấn loạn. Vì vậy mà khối sụn này có màu vàng. Nếu các con đạt được tịnh ngộ qua thiền định, khối sụn này sẽ trở nên trong suốt. Những lối tu tập Thiền, Hiển và Mật, tất cả đều phụ thuộc vào việc sử dụng con mắt này. Chỉ có nó cho phép các con nhìn vào Phật giới, làm sáng tỏ nhãn kiến và biện biệt ra tinh linh của vạn vật.'

Vị thượng sư dùng dao nạy con mắt ra khỏi rồi xuyên thủng nó. Quan sát thứ chất lỏng màu đục trào ra, ông nói, 'Người thường nhìn sự vật bằng con mắt này. Bởi vì nó vốn dĩ vẩn đục, bời  vậy họ bị đồi bại do ngũ độc nên không thể tịnh ngộ.' Sangsang Tashi nhìn đăm đăm vào thi thể đã bị phanh thây một nửa. Đó là một người đàn ông trung niên, với hàm răng to và trắng hếu. Một đàn nhặng bu trên đống lục phủ ngũ tạng.

Buổi chiều, Sangsang Tashi tĩnh toạ một mình trong phòng. Nàng vừa thăm người mẹ bệnh nặng. Suốt mấy tháng qua, Sangsang Tashi cố gắng trị bệnh cho mẹ bằng kiến thức học được từ trường y khoa, nhưng không kết quả. Cách đây vài tuần, nàng đã từng chuyển một số ma bệnh sang thân một con chó, nó chết tức khắc. Nhưng vị thượng sư đã khiển trách nàng về việc này. Ông nói rằng vạn vật đều có linh hồn, vậy nên suy nghĩ cẩn thận trước khi truyền ma bệnh sang những sinh vật khác. Nhìn mẹ mình đang dần dần héo mòn, tâm trí nàng lại xáo động.

Ngày mai là ngày nàng được truyền quán đỉnh, đây là nghi thức long trọng nhất mà tu viện tổ chức dành cho nàng kể từ buổi lễ công nhận nàng là Phật Sống. Tuy vậy, tâm trí nàng lại ở nơi khác. Suốt mấy ngày qua, nàng thấy các trường tu viện treo cờ cầu nguyện trong hành lang. Những chiếc tù và dài bằng đồng cất trong kho mấy năm nay lại được đem ra tu sửa, và các tăng sĩ bắt đầu tập luyện. Mỗi sảnh đường đều đổ đầy dầu bơ vào đèn để cháy sáng cả ngày lẫn đêm. Sangsang Tashi tiếp tục đăm đăm nhìn vào cây đèn trước mặt, nhưng không thể nào cho tâm ý khỏi hoảng loạn.

Một mạn-đà-la lớn đã được đặt tại trung tâm Thiền đường của tu viện. Các Phật tượng và các loại tế phẩm, gồm cả nội tạng của thi thể đã mà nàng đã thấy mổ xẻ cách đây vài giờ được đặt ở tế đàn chính, sau khi đã được rửa sạch và sắp xếp trên một chiếc bát vàng. Các lò hương được đặt ở bốn góc mạn-đà-la. Phía trước mạn-đà-la là những tấm đệm cứng, trên đó Sangsang Tashi sẽ cử hành nghi lễ Hợp tu Lưỡng thân.[4] Bên dưới bốn vách bích hoạ là hàng trăm ngọn đèn dầu bơ đặt trên những tấm vải đỏ.

Lần này lễ Kim cương Quán đỉnh như thường lệ được Labrang Chantso ban truyền. Cứ nghĩ tới việc ngày mai phải cùng ông thực hành nghi lễ Hợp tu Lưỡng thân, nàng thấy nghẹt thở. Nàng cảm thấy Labrang Chantso oán giận nàng, vì ông không thích việc anh mình là Tenzin Wangdu đã chuyển sinh vào thân thể nàng. Thế nhưng Labrang Chantso lại tinh thông mật pháp. Chính ông là người dạy nàng học Ngũ bộ đại luận và lĩnh hội  Tịnh bình quán đỉnh.[5] Rồi Sangsang Tashi nghĩ đến khuôn mặt của Labrang Chantso, vầng trán nhăn nheo vặn vẹo sang một bên khi ngước nhìn mọi người. Đôi đồng tử đen to trám đầy đôi mắt nhỏ của ông, và thân hình ông thì cao lớn và nặng nề.

Sangsang Tashi nghĩ tới bức bích hoạ trong thiền đường vẽ Kim cương Hỉ Bồ tát thiền toạ đang cùng với vợ ngài khoá chặt trong vòng ôm ấp giao hợp. Ngày mai, Sangsang Tangshi sẽ phải hấp thụ tư thế người vợ và ngồi trong lòng Bồ tát, hai chân quấn quanh eo của ngài. Một cảm giác nóng bỏng ươn ướt đột nhiên kích động trong nàng. Gương mặt của Labrang Chantso thoáng hiện, vẻ mặt lạnh lùng và nghiêm khắc. Nàng vội xua những ý niệm này khỏi tâm trí và trở lại nhập thiền, tụng thần chú Thích Ca Mâu Ni Như lai.

Khi tâm dần tĩnh lặng, nàng thấy ba vị Dakini tiến đến, báo rằng ngày mai đích thân Kim Cương Hỉ Bồ Tát sẽ ban thân cho nàng. Trong khi họ biến mất, vị Dakini áo choàng đỏ quay đầu lại và mỉm cười với cô. Sau đó vị bổn tôn của nàng là Văn Thù Bồ Tát cũng xuất hiện và ngồi trên mạn-đà-la đối diện. Nàng cảm thấy khí nóng lan khắp thân thể, những mạch điểm sinh khí chạy qua tim nàng như chuỗi hạt ánh sáng. Phần hông, đùi, đầu gối và gót chân của nàng đột nhiên trở nên nhẹ như lông hồng. Rồi gương mặt của Geleg Paljor loé lên. Nàng cảm thấy trần trụi và hổ thẹn, vội bỏ nhập định. Tâm niệm nàng rối loạn. Nàng cố gắng hình dung bản thân là vị thần bổn tôn và thu hút các vị Bồ Tát từ bốn phương lại, nhưng nàng không thấy được mình trong hình tượng vị bổn tôn. Đầu óc nàng bắt đầu ong ong, ngay cả tiếng ồn từ ngoài phòng cũng đang xâm nhập vào tâm thức nàng. Một lần nữa nàng bỏ nhập định, và suy ngẫm về những lời của ba vị Dakini.

Ngoài cửa sổ, mùi bánh mì chiên thoang thoảng. Cảm thấy đói, nàng bèn gõ vào mõ, kêu người hầu đem tới một tách trà bơ, rồi đóng cửa lại. Giờ đã khuya, trời tối đen. Sangsang Tashi nhìn trừng vào cái bấc đèn bơ cháy đen và cố hình dung ngày mai trông nàng sẽ như thế nào. Ý nghĩ khi phải nằm đó trần truồng trong Thiền đường, nàng cảm thấy một làn sóng sợ hãi. Nàng cố gắng gạt bỏ bức tranh bất kính này ra khỏi tâm trí để trở lại thiền định, nhưng không thể nào tập trung được. Nàng bồn chồn với nỗi bất an. Đây là lần đầu tiên sau nhiều năm, tâm trí nàng không thể tập trung được. Ý nghĩ rằng mình đang vi phạm luật tì kheo khiến nàng hoảng sợ. Nàng thắp lại ngọn đèn vừa thổi tắt, và niệm thần chú Ngũ Vị Bồ Tát, và cuối cùng tâm trí cô dần trấn tĩnh.

Sáng sớm hôm sau, nàng thức giấc, vẫn còn mơ màng, cảm giác toàn thân rạng rỡ nữ tính trong mỗi tế bào của mình. Bình minh còn chưa hé rạng, một lớp sương mù nhẹ còn lơ lửng trên trời. Nàng cảm thấy máu êm ả chảy đều khắp huyết quản, đôi vú cọ sát vào áo ngủ. Nàng cảm thấy đùi, xương chậu, vùng bụng mềm mại và mịn màng. Khi đứng dậy, nàng cảm thấy càng thức tỉnh hơn về nữ tính của mình. Rồi đột nhiên nhớ rằng trong vài giờ nữa nàng sẽ phải nằm trần truồng trước hàng trăm người, khiến nàng lo lắng đưa tay ôm chặt lấy vai, hàm răng va lập cập. Nàng đăm đăm nhìn ra bên ngoài, nhìn bầu trời chuyển từ tím sang lam rồi càng lúc càng sáng hơn.

Đám đông gồm mấy trăm tăng sĩ ngồi chật Thiền viện. Tất cả đèn dầu bơ được thắp sáng. Các loại chuông, tù và, trống và chũm choẹ vang lên. Khoác chiếc áo cà sa, cổ đeo chuỗi hạt châu đỏ, Sangsang Tashi đi vào đạo tràng, bước tới giữa tấm thảm rồi ngồi xuống đối diện Labrang Chantso. Nàng xếp chân tư thế kiết già, đặt hai tay lên đầu gối, lòng bàn tay hướng lên, rồi tụng đại chú Ngũ Mật Bồ Tát. Tâm nàng còn dao động, hai bàn tay run run. Cảm thấy ngại ngùng, để dịu bớt căng thẳng, chân khép chặt vào sau đầu gối. Khi tiếng tù và lại vang lên, nàng nhận ra mình còn chưa nhập định. Nàng vội thầm đọc thần chú Đà La Mật để triệu nhập bổn tôn của mình, nhưng ngữ pháp bị lộn xộn.

Bây giờ đã quá muộn. Nàng mở mắt ra và thấy Labrang Chantso cởi áo cà sa và bước về phía mình. Nàng ngước nhìn vào mắt ông như cầu xin, run sợ, và để cho ông đẩy mình xuống thảm. Chẳng mấy chốc, nàng thấy đau nhói giữa cặp đùi cùng với sức nặng đến nghẹt thở của một cơ thể đang đè lên người mình. Nàng cảm giác như thể người phụ nữ đã thức giấc trong mình sáng hôm nay giờ đang dần bị xé thành từng mảnh.

Nàng bắt đầu cảm thấy mồ hôi trên lưng và cổ. Cơn đau ở phần thân dưới đã biến mất, nàng để mặc cho thân thể mình lắc lư trong khi Labrang Chantso chuyển động tới lui phía trên. Nàng cảm thấy như thể đang trôi xuống một cái hố đen, thỉnh thoảng một cảm giác ngứa lan từ đùi lên trên. Trong cái hố đen ấy, chỉ có một mình nàng, điều này mang lại cho nàng một khoảnh khắc bình yên.

Thế rồi nàng chợt nhận ra rằng mình đang cử hành phép tu Nam Nữ Song Thân, nên nàng phải dựa vào năng lượng kinh mạch và đánh thức các luân xa của mình nếu nàng và Labrang Chantso đều muốn đạt tới sự hợp nhất của trí tuệ và từ bi. Nhưng vừa khi năng lượng tâm linh của cô sắp lên tới luân xa trí tuệ thì Labrang Chantso đã kéo hai bàn chân cô lên, gập cẳng chân phải cô vào eo của ông, và lắc mạnh tới nỗi tâm trí cô trở nên trống rỗng, quên mất các luân xa.

Nàng cảm thấy cơ thể mình đang héo mòn vì Labrang Chantso bám vào cô như một thỏi nam châm không ngừng hút cạn tuỷ sống và sinh lực  của nàng. Cuối cùng, nàng ngã quỵ, không thể kiểm soát bản thân, để Labrang Chantso tùy ý điều khiển nàng. Khi ông ngồi xuống lại tư thế kiết già, kéo nàng éo sát vào người mình, nàng ngồi xổm vào trong lòng ông và, như những Dakini trên những bích hoạ, ngoặc hai chân cô quanh lưng ông. Cặp vú nhú lên trên ngực cô lúc bình minh giờ đây khô quắt lại như ngực của bà già. Cơn đau ở bụng dưới và cảm giác khó thở khiến nàng phải thở gấp bắt đầu lan từ xương mu lên xương chậu, rồi lên dọc theo xương cụt và cột sống.

Khi nàng mở mắt ra, ánh nằng chiếu rọi khắp đạo tràng. Khói hương lam lung linh lượn quanh. Nàng chỉ thấy gương mặt Thích Ca Như Lai, mỉm cười vàng rực trong làn khói. Nàng quay mặt tránh cái miệng hôi hám của Labrang Chantso và, giữa một rừng đầu trọc, nàng bắt gặp Geleg Paljor. Nàng vội nhắm mắt lại, vùi mặt vào ngực Labrang Chantso và nghiến răng.

Đó là vào giữa ngọ, lúc buổi lễ quán đỉnh kết thúc.

Khi Sangsang Tashi tỉnh dậy, nàng thấy mình trên thảm, tay chân co quắp như chó, người vẫn còn run rẩy và đẫm mồ hôi. Bỗng nhiên nàng nhớ tới người mẹ đang hấp hối. Hai ni cô tới đỡ nàng đứng dậy, dùng nước trong chiếc bát vàng lau chùi thân thể nàng khỏi những vết máu và mồ hôi. Nàng tê liệt, hai chân hoàn toàn mất cảm giác.

Cuối cùng nàng đứng dậy được, tiếng tù và đồng thanh vang lên, không trung tràn ngập hương khói cùng tiếng tụng kinh hòa quyện. Cái bát vàng sau đó được đặt lên mạn-đà-la làm tế phẩm. Labrang Chantso khoác cà sa vào lại rồi trở lại bồ đoàn, mặt ông ánh sắc hồng hào. Đôi chân của Sangsang Tashi run run trong chờ buổi lễ trọng đại này kết thúc. Nàng ngạc nhiên rằng chỉ trong một vài giờ, nàng đã mất hết tất cả công phu tu hành du già nhiều năm. Thế nhưng khi nàng xem mình là đàn bà, đàn bà trong từng tế bào thân thể, nên nàng không còn ngạc nhiên.

Vào cái đêm thứ hai, Sangsang Tashi đã qua đời sau khi được đặt vào dòng băng. Theo nghi thức quy định nàng phải toạ thiền trong sông băng ba ngày liền trước khi Như Lai Tạng của nàng thị hiện. Ba vị lạt ma thay phiên hộ vệ nàng, phá vỡ lớp băng đóng quanh cổ nàng. Nàng đã gắng niệm chú để tụ hoả khí nhập vào thân, vốn rất hiệu quả trước đây, nhưng nó đã không bảo hộ được nàng  khỏi nhiệt độ băng giá.

Vào ngày thứ ba, vừa trước lúc rạng đông, Lạt ma Tsungma, một tế sư, rời lửa trại đạp tuyết đi tới bờ sông, ông nhìn thấy thi thể của Sangsang Tashi đang chìm dần. Khi kéo nàng lên, ông phát hiện nàng đã trở nên trong suốt như băng. Những chỗ ở đầu gối bị cá rỉa tuyệt không có vết máu nào. Đôi mắt nàng khép hờ, như thể thường thiền định trước ánh lửa.

Lúc tảng sáng, một nhóm lạt ma tới để nghênh tiếp vị Phật Sống thị hiện. Họ mặc lễ phục trang trọng và cưỡi ngựa có phủ lụa nhiều màu. Đối với họ, vị Phật Sống dù còn sống hay chết không quan trọng. Tuy nhiên, khi họ vây quanh nhìn thấy thân thể của Sangsang Tashi, họ không khỏi sững sờ. Nàng được đặt nằm ngửa, đã hóa thành băng. Những tia nắng ấm áp tắm nàng bằng thứ ánh sáng dịu chiếu xuyên qua, cho phép mọi người nhìn thấy mọi nội tạng trong thân thể băng giá trong suốt của nàng. Một con cá không biết bằng cách nào đã lọt vào, đang bơi trong ruột của nàng.

Cái chén lễ được tạc từ hộp sọ của Sangsang Tashi giờ đang ở bên tôi. Người đàn ông bán nó cho tôi nói rằng nó là di sản từ tổ phụ của mình, người từng học vu thuật tại trường y khoa Manrinba. Cái chén sọ này ở Tu viện Tenpa dung làm món pháp khí linh thiêng, luôn được cất giữ và chỉ dùng vào những dịp cử hành lễ quán đỉnh trọng đại. Giờ cái chén sọ này đã ngả màu thời gian sang màu nâu vàng. Chắc hẳn nó từng bị rớt xuống trong quá khứ vì có một kẽ nứt bên trái bị cáu bụi. Đường lằn nhỏ đó chạy xuống từ vòm sọ ngoằn ngoèo như bức điện tâm đồ. Theo người bạn tôi là y sĩ, nói nó là dấu hiệu cho cái sọ thuộc về một thiếu nữ tuổi dậy thì. Vành bát sọ được khảm hoa văn bằng đồng, còn bên trong có đường viền khảm vàng. Người bán nó đòi giá 500 nhân dân tệ, nhưng tôi đã trả giá xuống còn 100. Ai muốn mua, xin liên hệ tôi. Tôi chịu bán với bất cứ giá nào đủ để tôi trang trải lộ phí cho chuyến đi về vùng Đông Bắc.

_________

Chú thích:

[1]Tashi, tiếng Tây Tạng nghĩa là điềm tốt, điềm lành. (Mọi chú thích đều của người dịch)

[2]Lễ quán đỉnh hay lễ điểm đạo trong Phật giáo Kim cương thừa, là nghi thức trao truyền quyền năng được thực hiện khi bắt đầu vào tiến trình tu tập, bởi mật giáo rất đặt nặng vấn đề truyền thừa. Người thọ lễ được trao cho quyền tu tập pháp môn này với tư cách như của vị pháp vương, cùng nghĩa như lễ quán đỉnh trong vương triều Ấn Độ xưa khi truyền ngôi báu qua nghi thức gội nước lên đầu, hay xức dầu.

[3]Dakini (Phạn ngữ: người đi trong không gian) có nghĩa là 'kẻ mang linh hồn người chết đến cõi Thiên.' Không-hành-nữ Dakini được xem như tiên nữ, thiên thần, hay đại diện cho lực lượng siêu nhiên trong thiên giới, và là hộ thần trong tu tập Mật tông Phật giáo.

[4]Tư thế giao hợp toạ Yab-Um của một số vị hoan hỉ Phật thấy trên một số tranh tượng mật tông, biểu tượng cho kết quả mong muốn trong thiền định mật tông, niềm hoan lạc có được từ việc hợp nhất từ hai thành phần của giải thoát: nam/dương (từ bi) và nữ/âm (trí tuệ).

[5]Pháp đầu tiên trong bốn pháp quán đỉnh (của Yoga tối thượng), bao gồm sự khai giảng về năm khía cạnh của năm bộ Phật.


Nguồn: Ma Jian, Stick Out Your Tongue, bản dịch ra tiếng Anh của Flora Drew, Vintage Books 2006.




 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét