Thứ Hai, 13 tháng 1, 2020

GIÁO TRÌNH HỌC TẬP CỦA HOẠ SĨ

Leonardo da Vinci
Hà Vũ Trọng dịch



GIÁO TRÌNH HỌC TẬP CỦA HOẠ SĨ

“Hội hoạ luận” trong Bút kí của Leonardo có thể sắp xếp dưới những đề mục sau: học viên phải biết con mắt vận hành ra sao; phải biết cách phối trí những hình dạng, kích thước, và độ thoái lui (recession) của những vật thể, và chúng phô bày dưới tác động của ánh sáng trên bề mặt ra sao; học viên cũng phải nghiên cứu sự cấu tạo và đời sống của chúng, và phải biết những cơ bản này để sáng tạo bằng một phương thức và tinh thần phù hợp.


                                 I.   CON MẮT VÀ NGOẠI HÌNH CỦA SỰ VẬT

Chúng ta quan sát tự nhiên ra sao, và lối phân tích đúng cách trong việc quan sát là gì? Đây là những câu hỏi đầu tiên dành cho cả hoạ sĩ và nhà khoa học 
Tự nhiên được nhận thức qua các giác quan, chủ yếu qua thị giác. Nghệ thuật hội hoạ gắn chặt với tiến trình thị giác. Những trường nhãn quan (fields of views) được truyền qua những tia thị giác vào trong mắt. Hoạ sĩ phải phân tích được kinh nghiệm này để tái hiện hình tượng thị giác lên mặt bằng của bức tranh. Việc vẽ của người ấy nên đưa ra ấn tượng về một cánh cửa sổ qua đó chúng ta nhìn ra ngoài vào một phần của thế giới hữu hình.
Hoạ sĩ có khả năng đạt được điều này bằng khoa học về phối cảnh, vốn đưa ra một phương pháp toán học để dựng một không gian ba chiều bao gồm bất kể số lượng đồ vật cá thể nào nằm trên một bề mặt hai chiều, một phương pháp hội đủ không chỉ đòi hỏi về vẻ thật (verisimilitude), mà cũng còn đòi hỏi về sự thống nhất và hài hoà.   


(a)  Năm giác quan

Các nhà tư biện cổ đại đã kết luận rằng năng lực phán đoán vốn ban cho con người được kích thích bởi một công cụ nhờ đó mà năm giác quan được nối kết bằng phương tiện của cơ quan tri giác (imprensiva); và công cụ đó được họ đặt tên là “giác quan chung” (sensus communis).[1] Và danh xưng này được sử dụng đơn thuần vì nó là vị phán quan chung cho năm giác quan khác, là thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác, và khứu giác. “Giác quan chung” được vận hành bằng cơ quan tri giác định vị trung gian giữa nó và những giác quan. Cơ quan tri giác hoạt động bằng những phương tiện hình ảnh của sự vật truyền đạt qua nó bằng năm giác quan, đặt trên bề mặt trung gian giữa sự vật bên ngoài và cơ quan tri giác...
Hình ảnh ngoại giới được truyền sang các giác quan, và các giác quan này chuyển chúng sang cơ quan tri giác, cơ quan tri giác chuyển chúng sang “giác quan chung”, và nhờ nó, chúng in vào kí ức, và được lưu lại rõ rệt nhiều hay ít tuỳ theo tầm mức quan trọng của sự vật đưa ra. Giác quan nào ở gần nhất với cơ quan tri giác thì nó vận hành nhanh nhất; và đây là con mắt, thủ lĩnh và lãnh đạo của mọi giác quan khác; riêng điều này thôi, chúng ta sẽ bàn bạc và gác lại những giác quan khác để không bị quá dài dòng.
Kinh nghiệm bảo chúng ta, con mắt nhận thức được mười phẩm chất khác nhau của vật thể;[2] đó là, sáng và tối—sáng để phơi bày chín phẩm chất khác—tối để che giấu chúng—màu sắc và chất thể, hình thể và vị trí, xa và gần, động và tĩnh     
 

Năm giác quan làm tổng quản của linh hồn như thế nào

Linh hồn hiển nhiên trú ngụ nơi trụ sở của phán đoán, và phán đoán hiển nhiên trú ngụ ở chỗ gọi là “giác quan chung” là nơi mọi giác quan hội tụ; và chính tại đây chứ không phải ở khắp thân thể như nhiều người tin; vì nếu thế, hẳn không còn cần thiết cho những công cụ giác quan hội tụ ở một điểm đặc thù; và hẳn là đủ cho mắt ghi lại tri giác của nó lên bề mặt của nó thay vì truyền những hình ảnh sự vật nhìn thấy đi tới “giác quan chung” qua những dây thần kinh thị giác; vì linh hồn hẳn là đã lĩnh hội hình ảnh trên bề mặt của mắt.
Tương tự với thính giác, đủ chỉ cho âm thanh vang trong những hốc xương giống như hốc đá trong tai, bên ngoài có một lối khác từ hốc xương này đi tới “giác quan chung”, nhờ đó mà tiếng nói phải hướng tới sự phán đoán chung.
Khứu giác cũng buộc phải nhờ vào cùng sự phán đoán này.
Xúc giác thông qua lưới gân và được truyền tới cùng vị trí ấy; những sợi gân này toả ra vô số nhánh ở trong da... chuyên chở xung lực cùng cảm giác tới chi thể; và chạy qua giữa những cơ bắp và gân rồi ra lệnh cho chúng vận động; chúng tuân lệnh và trong hành vi tuân lệnh, chúng co lại bằng cách gồng cơ bắp lên để làm giảm độ dài của chúng khi kéo theo những dây thần kinh. Những dây thần kinh này đan vào nhau giữa chi thể và lan tới cực điểm những ngón tay và truyền tới “giác quan chung” cái ấn tượng mà chúng chạm vào.       
Dây thần kinh cùng với cơ bắp phục vụ gân như binh sĩ phục vụ thủ lãnh; và gân phục vụ “giác quan chung” như thủ lãnh phục vụ trưởng quản, và “giác quan chung” này phục vụ linh hồn như trưởng quản phục vụ quân vương.    
Do đó, khớp xương tuân theo hệ thần kinh, hệ thần kinh tuân theo cơ bắp, cơ bắp tuân theo gân, gân tuân theo “giác quan chung” và “giác quan chung” là trụ sở của tâm hồn, còn kí ức là kẻ điều động của nó với công năng đón nhận những ấn tượng được dùng như những tiêu chuẩn để giám định.
Giác quan phục vụ linh hồn ra sao, mà không phải linh hồn phục vụ giác quan, và ở đâu giác quan thiếu săn sóc cho linh hồn, thì linh hồn ở trong một đời sống như thế thiếu đi khái niệm về chức năng của giác quan này, như ta thấy trong trường hợp của người câm hoặc người mù bẩm sinh.

 
Về mười chức năng của mắt mà hoạ sĩ phải quan tâm

Hội hoạ mở rộng cả mười chức năng của mắt; đó là, bóng tối, ánh sáng, thể chất, màu sắc, hình dạng, vị trí, xa, gần, động, và tĩnh. Tác phẩm nhỏ của tôi sẽ đan bện các chức năng này vào với nhau, nhắc nhở người hoạ sĩ dựa theo những quy luật nào và theo phương thức nào mà người ấy nên mô phỏng vào nghệ thuật của mình mọi thứ này, miêu tả tác phẩm của tự nhiên và trang sức của thế giới.


(b)  Mắt

Con mắt là cửa sổ của linh hồn, là khí quan chính, nhờ đó sự hiểu biết có được cái nhìn toàn diện và sâu sắc nhất về những công trình vô hạn của tự nhiên.

Giờ bạn có thấy rằng con mắt ôm lấy vẻ đẹp của toàn thế giới?... Con mắt bình thẩm và điều chỉnh mọi ngành nghệ thuật của nhân loại... Nó là vương tử của toán học, và những khoa học đặt nền móng trên nó đều tuyệt đối chắc chắn. Nó đã đo lường cự li và kích thước của các tinh tú; nó khám phá ra các nguyên tố và vị trí của chúng... nó sản sinh ra kiến trúc, phép phối cảnh và nghệ thuật thần diệu của hội hoạ.
      Hỡi con mắt trác tuyệt, ngươi siêu việt hơn mọi thứ khác do Thượng đế sáng tạo! Phải tán tụng thế nào mới công bình đối với tính cao quý của ngươi? Dân tộc nào, ngôn ngữ nào có khả năng miêu tả đầy đủ được công năng của ngươi? Con mắt là cửa sổ của nhân thể qua đó nó cảm được theo cách của nó, và hân thưởng vẻ đẹp của thế giới. Nhờ con mắt, linh hồn thoả mãn ở lại trong ngục tù thân thể, vì thiếu nó ngục tù thân thể là sự nhục hình.

Ôi tuyệt diệu, Ôi tính tất yếu lạ kì, với lí tính tối cao, ngươi thúc bách mọi hiệu quả trở thành kết quả trực tiếp từ nguyên nhân của chúng; và bằng một quy luật tối cao và bất khả thu hồi, mọi hành động tự nhiên đều phục tùng ngươi bằng tiến trình khả dĩ ngắn nhất. Ai tin một không gian nhỏ đến thế lại có thể chứa đựng những hình ảnh của cả vũ trụ? Ôi tiến trình phi thường! Tài năng nào có thể giúp thâm nhập một tự tính của những thứ như thế? Miệng lưỡi nào có tài mở phơi về một kì quan vĩ đại đến thế? Quả thực không có! Chính là kì quan này dẫn cuộc thuyết ngôn của con người tới sự công nhận về những sự vật phi phàm. Những hình dạng ở đây, những màu sắc ở đây, tất cả mọi hình ảnh ở đây về mọi phần của vũ trụ đều thu vào một điểm. Điểm rất tuyệt diệu ấy là gì? Ôi kì diệu, ôi tính tất yếu lạ kì—bằng quy luật, ngươi thúc ép mọi hiệu quả thành kết quả trực tiếp từ nguyên nhân của nó qua đường ngắn nhất. Đây là những phép lạ... những hình thể đã đánh mất, hỗn hợp với nhau trong một không gian rất nhỏ, nó có thể tái tạo và tái kết hợp bằng sự khuếch trương. Hãy mô tả về cơ thể học của bạn xem coi tỉ lệ giữa những đường kính của các thấu kính (spetie) trong con mắt và cự li từ những thứ này cho đến những thấu kính thuỷ tinh. 

Nhờ con mắt mà vẻ đẹp thế giới được ánh hiện và tính đặc sắc đó hễ ai chấp nhận mất nó là tự tước đi việc tái hiện mọi tác phẩm của tự nhiên. Linh hồn hài lòng chịu bị giam trong thân thể con người, nhờ đôi mắt, ta có thể nhìn thấy những sự vật này; qua đôi mắt, mọi vật đa dạng trong tự nhiên được trình hiện với linh hồn. Ai mất đi đôi mắt, kẻ ấy để lại linh hồn của mình trong một ngục tù tăm tối không hi vọng còn thấy lại mặt trời và sự quang minh của cả thế giới; Với bao nhiêu người, màn đêm thật đáng ghét tuy chỉ là ngắn hạn; họ sẽ ra sao nếu bóng đêm ấy là đồng bạn suốt đời của họ? 

Trong không trung tràn ngập vô số hình ảnh vật thể được phân bố cùng khắp, và tất cả vật thể này tái hiện trong tất cả, tất cả trong một, và tất cả trong mỗi. Vì thế, nếu hai tấm gương được đặt đối diện nhau một cách chính xác, thì tấm thứ nhất sẽ phản chiếu trong tấm thứ hai và tấm thứ hai phản chiếu trong tấm thứ nhất. Giờ thì tấm thứ nhất được phản chiếu trong tấm thứ hai mang theo hình ảnh của nó cùng tất cả những hình ảnh phản chiếu trong nó, trong đó có hình ảnh của tấm gương thứ hai; và cứ như thế nó tiếp tục từ hình ảnh tới hình ảnh cho tới vô tận, như vậy, mỗi tấm gương có vô số những tấm gương trong nó, mỗi tấm này nhỏ hơn tấm trước, và tấm này ở bên trong tấm khác. Qua ví dụ này, rõ ràng chứng minh rằng mỗi vật thể truyền đạt hình ảnh của nó tới tất cả nơi nào nó có thể thấy được, và ngược lại, vật thể này có khả năng tiếp nhận vào bản thân nó tất cả những hình ảnh của những vật thể đối diện với nó.
      Bởi vậy, con mắt truyền đạt hình ảnh của nó qua không trung tới mọi vật thể đối diện với nó, và cũng đón nhận chúng trên bề mặt của nó, từ đó, cái “giác quan chung” tiếp nhận chúng và xem xét, rồi tiếp nạp những gì vừa ý vào kí ức.  
      Vì thế, tôi cho rằng những năng lực vô hình của ảnh tượng trong mắt có thể phóng chiếu bản thân chúng tới đối tượng giống như phóng chiếu những hình ảnh của đối tượng tới đôi mắt.
      Một ví dụ về cách những hình ảnh của vạn vật lan truyền qua không trung có thể thấy được nếu một số tấm gương được đặt theo vòng tròn, và như vậy chúng phản ánh lẫn nhau vô số lần. Vì khi hình ảnh của một tấm gương đạt tới tấm gương khác thì nó dội lại về nguồn và rồi trở nên nhỏ hơn rồi dội lại tới vật thể và rồi quay trở lại, và cứ như thế với số lần vô hạn.
      Nếu ban đêm, bạn đặt một ngọn đèn giữa hai tấm gương phẳng cách nhau một cubit [độ dài khoảng một cánh tay], bạn sẽ thấy trong mỗi tấm gương này có vô số những ngọn đèn, lần lượt cái này nhỏ hơn cái kia.
      Nếu ban đêm, bạn đặt một ngọn đèn giữa những bức tường của một căn phòng, mỗi phần của tường sẽ nhuốm những hình ảnh từ ngọn đèn này, và tất cả những phần nào trực tiếp lộ ra sẽ được nó thắp sáng... ví dụ này thậm chí còn hiển nhiên hơn khi những tia nắng mặt trời truyền đi qua tất cả những vật thể và đi vào phần nhỏ nhất của mỗi vật thể, và mỗi tia chuyển tới đối tượng hình ảnh về nguồn của nó.
      Mỗi vật thể đơn độc tự làm đầy hết thảy không trung bao quanh bằng những hình ảnh của nó, và cùng không trung này đồng thời có thể đón nhận vào bản thân nó những hình ảnh của vô kể những vật thể khác bên trong nó, được chứng minh qua những ví dụ này; và mỗi vật thể có thể thấy trong toàn bộ của nó khắp toàn thể khí quyển này, và trong mỗi phần nhỏ nhất của nó, và khắp toàn thể và trong mỗi phần nhỏ nhất; mỗi phần trong tất cả, và tất cả trong mỗi phần.                  

Nếu vật thể ở đằng trước con mắt gửi hình ảnh của nó tới con mắt, thì con mắt cũng gửi hình ảnh của nó tới vật thể; cho nên không một phần nào của vật thể bị mất đi trong những hình ảnh phát sinh từ đó với bất kì lí do nào dù trong mắt và trong vật thể. Do đó, chúng ta có thể tin rằng, chính tính chất và năng lực của không gian phát quang đã thu hút và tiếp nhận hình ảnh của vật thể ở bên trong nó hơn là tính chất của vật thể gửi hình ảnh của chúng qua không gian. Nếu vật thể đối diện với con mắt phát xạ hình ảnh của nó tới con mắt, thì con mắt cũng phải làm y như thế với vật thể; từ đó, có vẻ như những hình ảnh này là những năng lực phi vật thể. Nếu phi vật thể như thế, hẳn thiết yếu là mỗi vật thể nhanh chóng trở nên nhỏ hơn; bởi vì mỗi vật thể xuất hiện bằng hình ảnh của nó trong khí quyển ở phía trước nó; cũng chính là toàn bộ vật thể trong toàn thể khí quyển và tất cả trong từng phần; có thể nói, khí quyển đó vốn có khả năng tiếp nạp vào bản thân nó những tuyến thẳng và tuyến phát xạ của hình ảnh do những vật thể truyền tới. Vì thế, phải thừa nhận rằng chính tính chất của khí quyển này tự nó tìm ra cách để những vật thể thu hút tới bản thân nó như một thỏi nam châm với những hình ảnh của vật thể mà nó định vị trong đó. 
      Hãy chứng minh bằng cách nào tất cả vật thể, đặt ở một vị trí, tất cả đều ở mọi nơi và tất cả đều ở từng phần.
      Tôi cho rằng, nếu phía trước của một toà nhà hoặc một quảng trường nào đó hoặc cánh đồng được mặt trời chiếu sáng có một căn nhà đối diện với nó, và nếu ở phía trước không đối diện với mặt trời, bạn khoét một lỗ tròn nhỏ, tất cả những vật thể được chiếu sáng sẽ truyền hình ảnh của chúng xuyên qua cái lỗ này và sẽ hiển hiện bên trong căn nhà lên trên bức tường đối diện phải nên có màu trắng, và những hình ảnh sẽ có ở đó chuẩn xác nhưng lộn ngược; và nếu ở vài nơi trên cùng bức tường bạn khoét những lỗ tương tự, bạn sẽ có cùng kết quả từ mỗi cái lỗ.    
      Vì thế, những hình ảnh của những vật được chiếu sáng đều ở tất cả mọi nơi trên bức tường này và tất cả trong từng phần nhỏ nhất của nó. Lí do là—chúng ta biết rõ cái lỗ này phải cho phép một lượng ánh sáng đi vào căn nhà nói trên và ánh sáng được nó cho phép bắt nguồn từ một hoặc nhiều vật thể phát quang. Nếu những vật thể này có nhiều màu sắc và hình dạng khác nhau thì những tia tạo nên hình ảnh có những màu sắc và hình dạng khác nhau và sự trình hiện trên bức tường sẽ có những màu sắc và hình dạng khác nhau.         

Vòng ánh sáng nằm trong trung tâm của lòng trắng con mắt vốn thích ứng để nắm bắt vật thể. Cũng vòng tròn này bao gồm một điểm đen. Đây là dây thần kinh chi phối bị xuyên thấu, và xâm nhập vào vị trí của những năng lực bên trong nơi mà những ấn tượng được tiếp nhận và phán đoán được hình thành do “giác quan chung”.
      Những vật thể nào đối lập với mắt thì gửi những tia hình ảnh theo cách thức nhiều xạ thủ đang nhắm bắn qua nòng khẩu súng. Kẻ nào trong số họ ở tuyến thẳng với hướng nòng súng thì có cơ bắn trúng mục tiêu hơn bằng mũi tên. Cũng vậy với những vật thể đối điện với mắt, chúng sẽ truyền trực tiếp hơn tới giác quan vốn cùng tuyến với dây thần kinh bị xuyên thấu.
      Dịch thể nằm trong ánh sáng và bao quanh trung tâm màu đen của mắt tác dụng giống như đoàn chó săn truy đuổi và làm giật mình con mồi để cho kẻ đi săn bắt được. Cũng vậy, dịch thể (humour) bắt nguồn từ năng lực của cơ quan tri giác (imprensiva) và nhìn thấy nhiều thứ mà không nắm giữ chúng, bất ngờ quay hướng tới tín hiệu trung tâm và tiếp tục đi theo tuyến này tới giác quan và từ đây nắm bắt những hình ảnh và giam giữ tuỳ ý trong nhà tù kí ức của nó.    

Mọi vật thể cùng chung, và mỗi vật thể tự thân, phát tán ra không trung bao quanh vô số những hình ảnh với tất cả trong tất cả và tất cả trong mỗi phần, mỗi hình ảnh truyền đạt tính chất, màu sắc, và hình thể của vật thể sản sinh ra nó. Có thể thấy rõ ràng rằng tất cả vật thể tràn khắp mọi khí quyển bao quanh bằng những hình ảnh của chúng tất cả trong mỗi phần như chất thể, hình thể, và màu sắc; điều này cho thấy bằng những hình ảnh đa dạng của nhiều vật thể được tái tạo bằng việc truyền qua một sự xuyên thấu (perforation) đơn độc, từ đó các tuyến được tạo ra để giao nhau tạo nên những hình kim tự tháp đảo ngược từ những vật thể, vì vậy, những hình ảnh của chúng phản chiếu lộn ngược trên mặt bằng tối đen (đối diện với chỗ xuyên thấu).     

    
Một thí nghiệm, cho thấy cách những vật thể truyền đi hình ảnh hay hình tượng của chúng, bằng sự giao nhau ở trong mắt bên trong thuỷ tinh thể.
      Điều này cho thấy khi hình ảnh của vật thể được chiếu sáng xâm nhập vào căn buồng rất tối bởi lỗ tròn nhỏ nào đó. Tiếp theo, bạn sẽ tiếp nhận những hình ảnh này trên một tấm giấy trắng đặt bên trong căn buồng tối này khá gần với cái lỗ; và bạn sẽ thấy tất cả vật thể trên mặt giấy trong những hình thể và màu sắc của chính chúng, nhưng nhỏ hơn; và chúng sẽ bị lộn ngược do chính sự giao nhau. Những hình ảnh này, được truyền đi từ một nơi được mặt trời chiếu sáng, như thể thực sự được vẽ trên tấm giấy này, và nó phải cực kì mỏng và nhìn từ phía sau. Và hãy để một sự xuyên thấu nhẹ tạo ra trên tấm thiếc thật mỏng.
      Cho abcde là những vật thể được mặt trời chiếu sáng và hoặc phía trước của căn buồng tối trong đó cái lỗ là nm. Cho st là tấm giấy chắn những tia hình ảnh của những vật thể này và lật chúng lộn ngược bởi vì những tia chiếu thẳng của a bên phải trở thành k bên trái, và e bên trái trở thành f bên phải; và cũng xảy ra y như vậy bên trong đồng tử.



Tính tất nhiên đã quy định rằng mọi hình ảnh của những vật thể ở phía trước con mắt sẽ giao nhau trên hai bình diện. Một trong những sự giao nhau này ở trong đồng tử, còn cái kia giao nhau ở trong lăng kính thuỷ tinh thể; và nếu trường hợp không phải như thế, thì con mắt không thể nào thấy con số vật thể rất nhiều đến như vậy... không hình ảnh nào, thậm chí của vật thể nhỏ hơn, đi vào con mắt mà không bị lộn ngược; nhưng khi nó xâm nhập vào thuỷ tinh thể thì nó một lần nữa đảo ngược và như vậy hình ảnh được phục hồi tới cùng vị trí bên trong mắt như cùng vật thể bên ngoài mắt.[3]    

Con mắt không có khả năng phóng chiếu tự thân bằng những thị tuyến, thị lực, vì vừa khi nó mở mắt ra, thì bộ phận phía trước (của mắt) sinh ra sự lưu xuất tới vật thể, và điều này cần có thời gian. Và như thế, thị tuyến không thể truyền đi thật cao như mặt trời trong thời gian của một tháng khi con mắt muốn nhìn thấy nó. Và nếu thị tuyến có thể đạt tới mặt trời, như thế nó thiết yếu phải thường xuyên duy trì theo một tuyến liên tục từ mắt tới mặt trời và sẽ luôn phân tuyến ra sao cho giữa mặt trời và mắt tạo nên chân và đỉnh của một kim tự tháp. Trong trường hợp này, nếu con mắt bao gồm một triệu thế giới, sẽ không ngăn cản việc bị tiêu hao trong việc phóng chiếu năng lực của nó; và nếu năng lực này phải đi qua không gian như mùi hương, thì gió sẽ hoà nó và đưa nó tới một nơi khác. Nhưng chúng ta (thực sự) nhìn thấy toàn khối mặt trời với cùng tính mau lẹ giống như (một vật thể) ở cự li một thước Ý, và thị lực không bị nhiễu bởi luồng gió cũng không bởi bất kì ngẫu nhiên nào khác.     

Tôi cho rằng thị lực mở rộng qua những thị tuyến tới bề mặt của những vật thể không trong suốt, trong khi năng lực của những vật thể này mở rộng tới thị lực. Cũng vậy, mỗi vật thể tản ra không gian bao quanh với hình ảnh của nó; mỗi vật thể vừa đơn độc vừa đồng thời như nhau; và không chỉ chúng tản ra không gian đó bằng ngoại hình giống nhau của vật thể, mà cũng còn giống nhau về năng lực.


Ví dụ

Bạn sẽ thấy khi mặt trời ở bên trên trung tâm bán cầu hễ khi nào nó tự hiển thị những ngoại hình; và bạn cũng thấy phản chiếu từ những phát xạ cũng như hào quang do nhiệt của nó; và tất cả những năng lực này phát ra từ cùng một nguồn nhờ những tuyến phát xạ thoát ra từ vật thể của nó và chúng kết thúc nơi những vật thể mờ đục mà không khiến suy giảm nào ở nguồn.     


Phản bác

Một số nhà toán học lập luận rằng không có năng lực tinh thần nào có thể phát tán ra từ mắt, bởi vì điều này không thể nào xảy ra mà không làm suy kém thị lực một cách đáng kể, và vì vậy họ cho rằng con mắt tiếp nhận chứ không phóng xuất bất cứ gì từ bản thân nó.

Ví dụ

Họ sẽ nói sao về xạ hương vốn luôn giữ một lượng lớn mùi đượm trong khí quyển bao quanh, và khi xạ hương chuyển đi xa nhiều dặm sẽ lan toả khắp thiên lí với mùi thơm đó mà bản thân không giảm bớt?
      Hoặc họ sẽ nói rằng tiếng chuông ngân nga do quả lắc, hằng ngày đổ đầy hết cả vùng quê bằng âm thanh của nó, tất yếu phải làm hao tổn cái chuông hao tổn?
      Gần như chắc chắn rằng, có những con người như thế—nhưng đủ rồi! Chẳng phải rằng có loại rắn gọi là lamia, hàng ngày người dân quê bị nó thu hút bởi ánh nhìn trừng trừng như thanh nam châm thu hút sắt thép, chim sơn ca vội đi tới cái chết bằng bài ca tang tóc?...  Người ta cho rằng những thiếu nữ có uy lực trong đôi mắt hấp dẫn ái tình của đàn ông. 


(c)   Luật phối cảnh

Luật phối cảnh là cái cương và bánh lái của hội hoạ.

Hội hoạ đặt cơ sở trên phối cảnh, chính là một tri thức toàn diện về chức năng của mắt. Và chức năng này đơn thuần bao gồm việc tiếp nhận theo hình kim tự tháp những hình thể và màu sắc của mọi vật thể đặt phía trước nó. Tôi cho rằng, trong một kim tự tháp, bởi vì không có vật thể nào thật nhỏ tới mức nó không lớn hơn cái điểm mà những kim tự tháp này được tiếp nhận vào trong mắt. Do đó, nếu bạn mở rộng những tuyến từ diềm mép của mỗi vật thể khi chúng hội tụ, bạn sẽ mang chúng tới một điểm đơn độc, và những tuyến nói trên nhất thiết phải tạo thành một kim tự tháp.     

Có ba nhánh về luật phối cảnh; nhánh thứ nhất xử lí với nguyên nhân giảm thiểu (biểu kiến) của vật thể khi chúng lùi xa khỏi con mắt, và được gọi là phối cảnh suy giảm; nhánh thứ hai bao gồm cách biến đổi màu sắc khi chúng lùi xa khỏi mắt; nhánh thứ ba và cuối cùng, giải thích vật thể nên xuất hiện ra sao để ít rõ rệt về tỉ lệ khi chúng ở xa hơn. Những tên gọi như sau: phối cảnh hình tuyến (linear), phối cảnh màu sắc, và phối cảnh tiêu biến (disappearance)[4].

Khoa học về hội hoạ xử lí với tất cả màu sắc của bề mặt vật thể và gồm cả hình dạng vật thể; và sự gần và xa tương đối của chúng; với những mức độ suy giảm được đòi hỏi khi khoảng cách dần gia tăng; và khoa học này là mẹ của phép phối cảnh, đó là khoa học về thị tuyến (visual rays). Phối cảnh chia thành ba bộ phận, bộ phận thứ nhất xử lí việc dựng hình của vật thể; bộ phận thứ nhì xử lí việc giảm sắc độ của màu sắc khi chúng lùi xa; bộ phận thứ ba xử lí việc đánh mất độ rõ ràng tuỳ vào những khoảng cách khác nhau. Bộ phận thứ nhất chỉ xử lí với đường nét và ranh giới của vật thể được gọi là hình hoạ (drawing), nghĩa là hình tượng của bất kì vật thể nào. Từ nó, nảy sinh một khoa học khác xử lí với bóng tối và ánh sáng, cũng gọi là cách phối hợp sáng tối (chiaroscuro), và việc này cần nhiều giải thích.



Luật phối cảnh không gì khác ngoài việc nhìn một địa điểm từ phía sau tấm kính, nhẵn và thật trong suốt, trên bề mặt ấy mọi vật có thể được đánh dấu từ sau tấm kính. Những vật tiếp cận với điểm của mắt trong hình kim tự tháp, và những kim tự tháp này giao nhau trên bề mặt tấm kính.


Phương pháp vẽ một vật thể nổi bật vào ban đêm

Hãy đặt một tấm giấy đừng quá trong suốt ở giữa vật thể và ngọn đèn, bạn có thể vẽ nó rất tuyệt.

Mỗi dạng hình thể, trong mức độ nó tác động hiệu quả tới con mắt, gồm ba thuộc tính; là khối, hình, và màu; và khối có thể nhận ra ở khoảng cách lớn hơn từ nguồn của nó hơn là cả màu sắc lẫn hình dạng. Màu cũng lại dễ nhận thấy ở khoảng cách xa hơn là hình dạng, nhưng quy luật này không áp dụng cho những vật phát quang. 




Phối cảnh

Trong số những vật thể có kích thước bằng nhau, những vật xa nhất với mắt sẽ thấy nhỏ nhất.

Trong một số vật thể có kích thước và sắc độ bằng nhau, những vật xa nhất sẽ hiện ra nhạt nhất và nhỏ nhất.

Trong một số vật thể, tất cả có độ lớn bằng nhau và xa bằng nhau, thì vật được thắp sáng nhất sẽ hiện ra với mắt như gần nhất và lớn nhất.

Trong những bóng có độ sâu bằng nhau thì những bóng nào gần nhất với mắt sẽ có vẻ ít sâu nhất.

Một vật màu đen sẽ hiện vẻ xanh lam hơn về tỉ lệ khi có khí quyển sáng hơn giữa nó và mắt, như có thể thấy trong màu của bầu trời.

Tôi yêu cầu xem điều này được thừa nhận (như là định đề)— để phát biểu rằng rằng mọi tia băng qua không khí với mật độ bằng nhau đi theo đường thẳng từ nguồn sáng tới vật thể hoặc địa điểm mà nó dội vào.

Trong không trung tràn đầy vô hạn những đường thẳng giao thoa và đan bện lẫn nhau, và tuyến này không chiếm cứ vị trí của tuyến khác. Chúng thay mặt cho bất kì vật thể nào về cái hình dạng chân thực sản sinh ra chúng.  

Thực thể của khí quyển tràn đầy vô số những hình kim tự tháp phát xạ được sản sinh bởi những vật thể tồn tại trong nó. Những hình kim tự tháp này giao thoa và băng qua nhau với sự hội tụ độc lập mà không gây trở ngại cho nhau và thông qua tất cả khí quyển bao quanh.


Mặt phẳng thẳng đứng biểu thị bằng đường thẳng góc và được hình dung như thể được đặt ở phía trước của điểm chung, là nơi tập hợp của những hội tụ hình kim tự tháp. Và mặt phẳng này  cho thấy có cùng quan hệ với điểm chung này giống như ở mặt phẳng thuỷ tinh, trên đó bạn vẽ những vật thể khác nhau mà bạn thấy xuyên qua nó. Vậy, những vật thể được vẽ ra sẽ nhỏ hơn nhiều so với vật thể gốc, giống như không gian giữa tấm kính và con mắt thì nhỏ hơn so với không gian giữa tấm kính và những vật thể.  

Nếu con mắt hướng vào trung điểm của một đường đua với hai con ngựa đang chạy tới đích dọc theo những tuyến song song của đường đua, sẽ trông như thể chúng đang chạy để gặp được nhau. Điều này, như đã nói, xảy ra bởi vì hình ảnh những con ngựa đang chuyển động in lên con mắt hướng về trung tâm bề mặt của đồng tử.

Về cái điểm trong mắt, có thể hiểu thật dễ hơn nếu bạn nhìn vào con mắt của ai đó, bạn sẽ thấy hình ảnh của bạn trong đó. Vậy, hãy hình dung hai tuyến bắt đầu từ hai cái tai của bạn và tới thẳng hình ảnh hai cái tai mà bạn thấy trong mắt người khác. Bạn sẽ nhận ra rõ rệt rằng những tuyến này hội tụ theo cách chúng sẽ gặp ở một điểm không quá xa với hình ảnh của bạn soi gương trong mắt.


Và nếu bạn muốn đo lường sự giảm thiểu của hình kim tự tháp trong không trung vốn chiếm cứ không gian thấy được ở giữa vật thể nhìn thấy và con mắt, bạn phải đo nó dựa theo biểu đồ ở trên. Hãy cho mn là một ngọn tháp, và ef là một cây gậy mà bạn phải di chuyển tới và lui cho đến khi hai điểm mút cùng của nó tương ứng với hai điểm mút cùng của tháp; tiếp theo, mang nó lại gần hơn tới mắt, ở cd và bạn sẽ thấy hình ảnh của tháp dường như nhỏ hơn như ở tại to. Tiếp theo, mang nó lại gần hơn tới mắt, và bạn sẽ thấy cây gậy phóng chiếu xa bên ngoài hình cái tháp,... và như thế bạn sẽ nhận thấy rằng, khi di chuyển xa hơn một chút ở bên trong những tuyến sẽ phải hội tụ ở một điểm.   

Chỉ một tuyến không giao nhau trong số tất cả những tuyến đạt tới thị lực, và tuyến này không có chiều kích cảm nhận được, bởi vì nó là một tuyến toán học xuất phát từ một điểm toán học không có chiều kích.


Ta có ab là mặt phẳng [bức hình] thẳng đứng, và r là điểm của những hình kim tự tháp kết thúc trong mắt và n là điểm giảm thiểu luôn luôn theo một tuyến thẳng đối lập với con mắt và luôn di động khi con mắt di động—hệt như khi một cây gậy di động thì cái bóng của nó cũng di động, đúng như khi chiếc bóng di động cùng với vật thể. Và một trong hai điểm là đỉnh của những hình kim tự tháp có những đáy chung ở những mặt bằng thẳng góc chen nhau. Nhưng, mặc dù những đáy của chúng đều bằng nhau, các góc của chúng lại không bằng nhau bởi vì điểm giảm thiểu là tận cùng của một góc nhỏ hơn với góc của mắt. Nếu bạn hỏi tôi: “Dùng kinh nghiệm thực tiễn nào bạn có thể cho tôi thấy những điểm này? Giải đáp của tôi—bằng sự liên hệ đến điểm suy giảm di động cùng với bạn—khi bạn bước đi bên một cánh đồng đã cày bừa, hãy nhìn vào những luống cày thẳng tắp đi xuống cùng với những điểm mút cùng của chúng tới con đường nơi bạn đang bước đi, và bạn sẽ thấy rằng mỗi cặp luống cày trông như thể chúng cố gắng tới gần hơn và gặp ở điểm mút cùng [xa hơn]...



2. BỀ MẶT CỦA VẬT THỂ VÀ ÁNH SÁNG

Nghệ thuật hội hoạ quan tâm đến việc miêu tả bề mặt của vật thể, nó gắn liền với hình học không gian. Những bề mặt được nhận thức là không có thực chất giống như những mặt phẳng hình học; và những định đề về những Nguyên tố của Euclid định nghĩa điểm, tuyến, mặt phẳng áp dụng với chúng.
      Hơn nữa, những địa điểm và màu sắc của vật thể được phơi mở do những tia sáng vốn phát xạ từ nguồn sáng của chúng trong việc tạo thành hình kim tự tháp. Ở những đáy của những hình kim tự tháp này là những vật thể mà những tia sáng dội vào những góc khác nhau khi chúng xua đuổi bóng tối; và qua sự tương tác của ánh sáng và bóng, những vật thể hiện ra trong tầm nhìn.
      Leonardo xuất sắc trong việc dựng hình bằng những cấp độ sáng và tối, và là người phát triển cách tương phản sáng tối chiaroscuro, và sfumato (hiệu quả “xông khói” làm nhoà nét), có thể coi ông như người báo trước cho hội hoạ Ấn tượng, mặc dù lí thuyết về những màu sắc nguyên của quang phổ mặt trời, mà ảnh hưởng rất lớn, chưa được biết đến ở thời của ông.
     Hoạ luận của ông thấm nhuần quan niệm hình thành của tự nhiên. Bốn màu sắc đơn thuần, đỏ, lam, lục, và vàng liên hệ đến bốn nguyên tố lửa, không khí, nước, và đất, cung cách mà những vật thể bao bọc trong không gian tương tự với cung cách những nguyên tố tiếp xúc với nhau.


(a)   Cơ sở hình học

Ai không phải nhà toán học xin chớ đọc những nguyên tố trong tác phẩm của tôi.

Khoa học về hội hoạ bắt đầu bằng điểm (point), thứ đến là tuyến (line), thứ ba là mặt phẳng (plane), và thứ tư là hình thể bao bọc bằng những mặt phẳng. Đây cũng là luận về cách miêu tả vật thể. Thực sự, hội hoạ không mở rộng ra ngoài bề mặt; và chính bằng bề mặt mà vật thể của một vật hữu hình được miêu tả. 

Một điểm vốn không có trung tâm. Nó cũng không có độ rộng, độ dài, hoặc độ sâu. Một tuyến được sản sinh do vận động của một điểm, và những biên cực (extremity) của nó là những điểm. Nó cũng không có độ rộng hoặc độ sâu. Một bề mặt là sự mở rộng tạo thành do vận động ngang (transverse) của một tuyến, và những biên cực của nó là tuyến (một bề mặt không đó độ sâu). Một vật thể là một số lượng được hình thành bởi sự vận động trắc diện (lateral) của một bề mặt và những biên giới của nó là những bề mặt. Một vật thể là một độ dài, và nó có độ rộng cùng độ sâu được tạo thành do vận động trắc diện từ bề mặt của nó.

1.     Bề mặt là giới hạn của vật thể. 2. Giới hạn của vật thể không phải là phần này của vật thể đó. 3. Cái không phải là phần của vật thể này thì là một vật của hư vô. 4. Một vật của hư vô là một vật không chiếm bề mặt không gian nào cả. Giới hạn của một vật thể là bắt đầu một vật thể khác.    

Bề mặt giới hạn là khởi đầu của một bề mặt khác. Những giới hạn của hai vật thể cùng phạm vi (coterminous) có thể hoán chuyển bề mặt của cái này và cái kia, như nước với không khí. Không có bề mặt nào của những vật thể là những phần của những vật thể này.

Ranh giới của vật thể là ranh giới những mặt phẳng của chúng, và ranh giới những mặt phẳng là những tuyến. Tuyến nào không tạo thành bộ phận kích thước bề mặt, thì cũng không tạo thành khí quyển bao quanh những mặt phẳng này; vì thế, những thứ không phải là phần của bất cứ vật gì thì vô hình như đã chứng minh trong hình học.

Ranh giới của một vật với một vật khác thì mang tính chất của tuyến trong toán học, mà không phải là một tuyến vẽ, bởi kết thúc của một màu sắc là khởi đầu một màu sắc khác—ranh giới là một thứ vô hình.  

Không gian trống không khởi đầu ở chỗ vật thể kết thúc. Ở đâu không gian trống không kết thúc thì vật thể khởi đầu và ở đâu vật thể kết thúc thì trống không khởi đầu.

Điểm không có trung tâm, nhưng bản thân nó là một trung tâm và không có gì có thể nhỏ hơn. Điểm là tối thiểu. Điểm thì bất khả phân bằng trí óc. Điểm không có các phần. Điểm kết thúc mà hư vô và tuyến có chung. Điểm chẳng phải là hư vô cũng chẳng phải tuyến, cũng không chiếm không gian giữa chúng. Vì thế, tận cùng của hư vô và khởi đầu của tuyến tiếp xúc với nhau, nhưng chúng không liên kết với nhau, vì ở giữa chúng, chia cắt chúng, là điểm...
      Và suy ra rằng nhiều điểm hình dung có sự tiếp xúc liên tục không tạo thành tuyến và vì thế nhiều tuyến tiếp xúc liên tục dọc theo những cạnh bên không tạo nên một mặt phẳng, nhiều mặt phẳng tiếp xúc liên tục cũng không tạo nên một vật thể, bởi vì giữa chúng ta, những vật thể đều không được hình thành từ những thứ phi vật thể...
      Sự tiếp xúc của chất lỏng với chất rắn là một bề mặt chung cho cả chất lỏng và chất rắn. Tương tự, tiếp xúc giữa một chất lỏng nặng hơn và nhẹ hơn là một bề mặt chung cho cả hai. Mặt phẳng cũng không hình thành phần của cả hai thứ đó—nó chỉ thuần là ranh giới chung.
      Như vậy, bề mặt của nước không hình thành phần của nước cũng không hình thành phần của không khí... Vậy điều gì chia không khí ra khỏi nước? Tất phải có một ranh giới chung không phải không khí cũng không phải nước, nhưng không phải là chất thể. Một vật thể thứ ba xen vào giữa hai vật thể sẽ ngăn sự tiếp xúc của chúng và ở đây nước và không khí tiếp xúc mà không có gì chen vào giữa chúng. Do đó, chúng liên kết với nhau và không khí không thể vận động mà thiếu nước, và nước bốc lên mà không kéo nó qua không khí. Vì thế, bề mặt là ranh giới chung của cả hai vật thể, và nó cũng không hình thành phần của vật thể này; vì nếu nó hình thành phần của vật thể hẳn là nó đã có một khối lượng lớn có thể chia ra được. Nhưng vì bề mặt thì bất khả phân, cho nên hư vô tách riêng những vật thể này ra với nhau.     

Hình trụ của một vật thể là dạng hình ống và hai đầu đối lập của nó là hai hình tròn bao gồm giữa những tuyến song song, và thông qua tâm của hình trụ là một tuyến thẳng thông qua giữa độ dầy của hình trụ, kết thúc ở những tâm của những vòng tròn này, mà người xưa gọi là trục.


Mệnh đề

Mọi vật thể được bao quanh bởi một bề mặt biên cực.
      Mỗi bề mặt có vô số điểm.  
      Mỗi điểm tạo ra một tia.
      Tia được tạo nên từ vô số tuyến riêng biệt.
      Trong mỗi điểm trên bất cứ tuyến nào, những tuyến giao thoa phát sinh từ những điềm trên bề mặt vật thể, và chúng tạo thành những hình kim tự tháp. Ở đỉnh điểm của mỗi hinh kim tự tháp có những tuyến giao nhau phát sinh từ toàn bộ và từ những phần của vật thể, vì thế từ đỉnh điểm này người ta có thể thấy toàn bộ và những phần.
      Không khí giữa những vật thể tràn đầy những giao nhau do những hình ảnh phát xạ hình thành từ những vật thể này.
      Những hình tượng và màu sắc của chúng được thuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác bằng một hình kim tự tháp.
      Mỗi vật thể làm đầy không khí bao quanh bằng vô hạn những hình ảnh của nó nhờ những tia này.
      Hình ảnh của mỗi điểm nằm trong toàn bộ và trong mỗi phần của tuyến do điểm này tạo nên.  
      Mỗi điểm của một vật thể tương tự có khả năng kết hợp toàn bộ đáy của điểm khác.   
      Mỗi vật thể trở thành đáy của vô số và vô hạn những hình kim tự tháp. Cũng đáy này dùng như tác nhân cho vô số và vô hạn hình kim tự tháp xoay theo những hướng khác nhau và theo những độ dài khác nhau.
      Điểm của mỗi hình kim tự tháp bản thân nó có toàn bộ hình ảnh ở phần đáy.
      Tuyến trung tâm của mỗi kim tự  tháp thì tràn đầy vô số những điểm của những hình kim tự tháp khác.
      Một hình kim tự tháp xuyên qua một hình kim tự tháp khác mà không lẫn lộn...

Khi nhà hình học giảm trừ mọi diện tích bao quanh bởi những tuyến thành hình vuông và mỗi vật thể thành hình lập phương; và nhà số học cũng tiến hành y như thế với những căn bậc lập phương và bình phương, hai môn khoa học này không mở rộng vượt ra ngoài nghiên cứu về những lượng liên tục và bất liên tục; mà chúng không xử lí với phẩm chất của sự vật vốn kiến tạo nên vẻ đẹp của những tác phẩm tự nhiên và vẻ huy hoàng của thế giới.


(b)   Ánh sáng, bóng râm và màu sắc

Trong nghiên cứu khác nhau về những tiến trình tự nhiên, thì ánh sáng ban lạc thú nhiều nhất cho những ai chiêm ngắm nó. Và thuộc trong những đặc điểm chính của toán học là tính xác định từ những chứng minh nâng cao trí năng của những nhà khảo sát một cách hiệu năng nhất. Luật phối cảnh, vì thế, được yêu chuộng hơn mọi thuyết ngôn và những hệ thống nghiên cứu của giới kinh viện. Trong địa hạt của phối cảnh, ánh sáng chiếu xạ được giải thích bằng những phương pháp chứng minh, ở khía cạnh ấy có thể thấy vẻ rực rỡ không chỉ của toán học mà cũng còn của khoa học vật lí, cả hai như thể được tô điểm bằng những đoá hoa. Bởi vì, những mệnh đề đã được quy định quá dài, cho nên tôi sẽ trích yếu chúng lại cho ngắn gọn, với những chứng minh được rút ra từ tự nhiên hoặc toán học căn cứ theo tính chất của đề tài; đôi khi diễn dịch ra từ những hiệu quả từ những nguyên nhân, và những lúc khác thì từ nguyên nhân tới hiệu quả: cũng bổ sung cho những kết luận của tôi một số thứ không bao gồm trong những mệnh đề này mặc dù từ chúng có thể suy đoán kết luận. Huống hồ, vị Chúa tể là Ánh sáng của vạn vật, ngài sẽ soi sáng tôi. Tôi sẽ luận bàn về ánh sáng.

Hãy nhìn vào ánh sáng và xem xét vẻ đẹp của nó. Bạn chợp mắt lại và lại nhìn vào nó: những gì bạn thấy thoạt đầu bây giờ thì không có ở đó, còn những gì đã có ở đó thì không còn nữa.
      Ai là kẻ tái sáng tạo nó nếu vị sáng tạo chết đi thường xuyên?

Ánh sáng là kẻ xua đuổi bóng tối. Bóng là sự cản trở ánh sáng.

Những nguyên tắc khoa học và chân chính về hội hoạ đầu tiên xác định một vật thể có bóng là gì, một cái bóng trực tiếp là gì, một cái bóng đổ là gì, và ánh sáng là gì, có nghĩa là, bóng tối, ánh sáng, màu sắc, thể, hình, vị trí, xa, gần, động, và tĩnh. Những thứ này được hiểu bằng trí óc mà không cần đến việc thao tác thể lực; và chúng hình thành nên khoa học hội hoạ vốn duy trì trong đầu óc của những người chiêm ngắm; và từ đó phát sinh ra sự sáng tạo thực tại vốn ưu tú hơn sự chiêm ngắm hoặc khoa học đi trước nó.

Trong thực hành phối cảnh, cùng những quy tắc áp dụng với ánh sáng và với mắt.

Bóng là sự cản trở của ánh sáng. Những bóng, dường như với tôi, mang tầm quan trọng cực kì trong phối cảnh, bởi thiếu chúng thì những vật thể mờ đục và rắn đặc sẽ không rõ ràng; những gì bao gồm trong những giới tuyến (outline) của nó và bản thân những giới tuyến sẽ không được nhận biết rõ trừ khi nó cho thấy trên một hậu cảnh có một sắc độ khác biệt. Vì thế, tôi phát biểu như mệnh đề đầu tiên của tôi về những bóng rằng mọi vật thể mờ đục được bao quanh và toàn bộ bề mặt của nó được bao bọc trong bóng và ánh sáng. Với mệh đề này, tôi sẽ dành cho cuốn sách thứ nhất.
      Hơn nữa, những bóng này có những mức độ tối khác nhau, bởi chúng đã bị bỏ rơi bởi một khối lượng khác nhau về quang tuyến; và những thứ này tôi gọi là bóng sơ đẳng, bởi vì chúng là bóng đầu tiên hình thành nên tấm phủ lên những vật thể liên hệ. Với mệnh đề này, tôi dành cho cuốn thứ hai.
      Từ những bóng sơ đẳng này, phát sinh ra những quang tuyến tối thẫm được khuếch tán quanh không trung và khác biệt về cường độ  dựa theo mật độ của những bóng sơ đẳng mà từ đó chúng phái sinh; và do đó, tôi sẽ gọi những bóng này là bóng phái sinh, bởi vì chúng có nguồn gốc từ những bóng khác. Về điểm này này tôi sẽ  nói trong cuốn thứ ba.
      Hơn nữa, những bóng phái sinh này khi dội lên trên bất cứ vật thể nào thì tạo nên thật nhiều hiệu quả tuỳ theo những địa điểm khác nhau mà chúng dội vào; điều này tôi sẽ bàn trong cuốn thứ tư.
      Và bởi ở nơi bóng phái sinh dội vào, nên nó luôn bị bao quanh bởi sự dội vào của những quang tuyến, nó nhảy lùi bằng những quang tuyến này theo một luồng phản xạ hướng tới nguồn của nó rồi hỗn hợp biến thành nó và ở mức nào đó biến cải tính chất của nó; với việc này tôi sẽ dành cho cuốn thứ năm.
      Để bổ sung cho điều này, tôi sẽ thảo luận trong cuốn thứ sáu bao gồm việc khảo sát đủ mọi loại khác nhau về sự dội lại (rebound) của những quang tuyến phản chiếu làm thay đổi bóng sơ đẳng bằng nhiều màu sắc khác nhau tuỳ theo những điểm khác nhau mà những quang tuyến phản chiếu này phát ra.
      Thêm nữa, tôi sẽ thực hiện cuốn thứ bảy nghiên cứu về những cự li khác nhau có thể tồn tại giữa điểm là nơi mỗi quang tuyến phản chiếu dội vào và điểm từ đó nó phát ra, và nghiên cứu về những sắc thái khác nhau của màu sắc mà nó hấp thu khi dội vào lên những vật thể mờ đục.


Về tất cả những vật thể thấy được, có ba thứ phải xem xét. Đây là vị trí của mắt nhìn, của vật được nhìn, và vị trí của ánh sáng chiếu sáng vật thể. b là con mắt, a là vật thấy được, c là ánh sáng. a là con mắt, b là vật chiếu sáng, c là vật thể được chiếu sáng.    


Về tính chất của bóng

Bóng (shadow) tham dự vào tính chất của vật chất phổ quát. Tất cả sự vật lúc khởi đầu mạnh mẽ hơn và yếu dần khi gần tới cuối; tôi cho rằng lúc khởi đầu, bất kể hình dạng hay điều kiện nào, có thể thấy hoặc không thể thấy được. Không phải từ những khởi đầu nhỏ rồi dần tăng trưởng sang kích thước lớn hơn, như cây sồi lớn trưởng thành từ hạt sồi nhỏ. Mà trái lại, như cây sồi mạnh mẽ nhất lúc khởi đầu ở phần thân cuống, là nơi nó vọt lên từ lòng đất và to lớn nhất. Vậy, tối tăm là mức độ mạnh nhất của bóng, còn ánh sáng là mức độ nhỏ nhất. Vì thế, hỡi người Hoạ sĩ, hãy tạo cho những bóng được tối hơn gần với vật thể mà nó hắt bóng, và làm cho phần tận cùng của nó nhạt nhoà vào ánh sáng, gần như không có tận cùng.


 Bóng là sự giảm thiểu của cả ánh sáng và tối, và đứng ở giữa sáng và tối.
      Một cái bóng có thể tối vô hạn, và cũng có khi thiếu những mức độ tối vô hạn.
      Khởi đầu và kết thúc của bóng nằm giữa sáng và tối và có thể giảm vô hạn và tăng vô hạn.

Bóng là sự giảm thiểu ánh sáng qua sự can thiệp của một vật thể mờ đục, bóng là sự tương ứng của những quang tuyến bị cắt đứt bởi một vật thể mờ đục.

Đâu là dị biệt giữa ánh sáng và quang huy (lustre) xuất hiện trên những bề mặt trơn nhẵn của những vật thể mờ đục? Những tia sáng trên bề mặt trơn nhẵn của những vật thể mờ đục sẽ tĩnh tại ngay cả nếu mắt nhìn thấy chúng chuyển động. Nhưng ánh sáng phản chiếu lên cùng những vật thể ấy sẽ xuất hiện ở nhiều địa điểm khác nhau trên bề mặt khi con mắt ở những vị trí khác nhau.      

 

Cường quang hoặc quang huy trên một vật thể thì không nhất thiết định vị ở giữa phần được thắp sáng, mà di động khi con mắt nhìn nó di động.      


Giả định vật thể là hình tròn ở đây và để cho ánh sáng chiếu từ điểm a, và phía được chiếu sáng của vật thể là bc và con mắt ở điểm d: tiếp đến, tôi cho rằng khi mà độ quang huy ở mọi nơi và trong mỗi phần, nếu bạn đứng ở điểm d, thì độ quang huy sẽ ở c, và khi con mắt di động từ d tới a, độ quang huy sẽ di động từ c tới n.


Dị biệt giữa quang huy và ánh sáng

Quang huy không mang màu sắc mà là cảm giác về màu nhũ bạch giống như được phái sinh từ bề mặt của những vật thể ướt; ánh sáng mang những màu sắc của vật thể phản chiếu nó.

Một vật thể riêng biệt phát quang tạo nên tính phù điêu (relief) mạnh hơn trên vật thể hơn là ánh sáng khuếch tán; như có thể thấy bằng cách so sánh một bên phong cảnh do mặt trời chiếu sáng, và một bên bị những đám mây che khuất, và chỉ được chiếu sáng bằng ánh sáng khuếch tán trong khí quyển.

Trong một vật thể có sáng và bóng tối, phía đối diện với ánh sáng truyền đi những hình ảnh mang chi tiết rõ rệt hơn và trực tiếp tới mắt hơn là phía trong bóng.      


Ánh sáng của vật thể càng chói sáng thì những bóng đổ xuống của vật thể được chiếu sáng càng đậm hơn.

Nếu những quang tuyến phát ra, như kinh nghiệm cho thấy, từ một điểm đơn độc, và điểm này được khuếch tán trong một khối cầu quanh điểm này, phát xạ và phân tán trong không trung, chúng càng lan rộng xa hơn; và một vật thể đặt giữa ánh sáng và bức tường thì luôn có hình lớn hơn trong cái bóng của nó, bởi những quang tuyến dội vào nó sẽ lan rộng khi chúng chạm tới bức tường.    


Cách thức những vật thể hắt bóng xuống sẽ được xác định. Ở đây, nếu vật thể là hình quả núi và ánh sáng ở điểm a, tôi cho rằng từ bd và từ cf sẽ không có ánh sáng mà từ những quang tuyến phản chiếu. Đây là do những quang tuyến có thể chỉ tác động bằng những tuyến thẳng; và cũng như thế trong trường hợp với những quang tuyến thứ cấp hoặc phản chiếu.    


Cái bóng ở đâu trên khuôn mặt?

Vẻ mê hoặc cực kì của bóng và ánh sáng có thể thấy trên khuôn mặt của những người ngồi bên cửa trong những căn nhà tối. Mắt của khán giả thấy phần khuôn mặt chìm trong cái tối của căn nhà, còn phần khuôn mặt được rọi sáng thì rút sự sáng bừng của nó từ vẻ huy hoàng của bầu trời. Từ sự gia tăng cường độ này của sáng và bóng, gương mặt có được tính phù điêu và vẻ đẹp qua việc cho thấy những cái bóng tế nhị nhất trong phần sáng và những ánh sáng tế nhị nhất trong phần tối.    

Những ánh sáng chiếu những vật thể mờ đục có bốn loại, gọi là, phổ biến, như loại ánh sáng trong khí quyển bên trong chân trời của chúng ta; và loại đặc thù, như ánh sáng của mặt trời hoặc qua một cửa sổ hoặc cửa ra vào hoặc không gian khác; loại thứ ba là ánh sáng phản chiếu; và cũng có loại thứ tư xuyên qua những chất thể bán trong suốt tới một mức độ nhất định như vải gai, giấy, hoặc những thứ tương tự; mà không phải những thứ trong suốt như kính hoặc pha lê hoặc những vật thể rất mỏng mà hiệu quả tương tự như thể không có gì chen vào giữa vật thể và ánh sáng.


Về ba loại ánh sáng chiếu rọi những vật thể mờ đục

Loại thứ nhất trong ba loại ánh sáng chiếu xạ vào những vật thể mờ đục được gọi là loại đặc thù, và nó là mặt trời hay ánh sáng từ một cửa sổ hay một ngọn lửa. Loại thứ hai gọi là phổ biến và thấy trong thời tiết u ám hoặc sương mù hoặc đại loại như thế. Loại thứ ba là ánh sáng dịu khi mặt trời về chiều hoặc buổi sáng khi mặt trời hoàn toàn ở bên dưới đường chân trời.

Khí quyển rất thích nghi như khi tập hợp và hiển thị tức thời mỗi hình tượng và sự tương tự của bất kì vật thể nào mà nó thấy. Khi mặt trời xuất hiện ở chân trời phía đông thì nó lập tức toả ra toàn bộ bán cầu của chúng ta và làm đầy bằng hình tượng toả sáng của nó.
      Tất cả bể mặt của vật thể rắn quay hướng tới mặt trời hoặc hướng tới khí quyển được mặt trời chiếu sáng, trở nên được che phủ và được nhuộm bởi ánh mặt trời hoặc ánh sáng trong khí quyển.
      Mọi vật thể rắn được bao bọc và được khoác lên bằng ánh sáng hoặc tối. Bạn sẽ chỉ có sự nhận thức kém về chi tiết vật thể khi cái phần mà bạn thấy nằm trong bóng, hoặc trọn vẹn được chiếu sáng.
      Khoảng cách giữa mắt và vật thể quyết định độ tăng giảm của bộ phận được soi sáng và bộ phận nằm trong bóng.      


      Hình dạng của vật thể không thể nhận thức một cách chính xác khi nó phủ quanh bởi một màu sắc tương tự với chính nó, và con mắt ở giữa phần trong sáng và phần trong bóng.
           
Bộ phận nào của bề mặt có màu, theo lí, phải là có cường độ mạnh nhất? Nếu a là ánh sáng và b được chiếu sáng bằng một tuyến thẳng, thì c ở chỗ mà sáng không thể dội vào là loại ánh sáng chỉ qua sự phản chiếu từ b, mà chúng ta gọi là màu đỏ. Vậy ánh sáng phản chiếu từ bề mặt màu đỏ này sẽ nhuốm bề mặt tại c với màu đỏ. Và nếu c là đỏ, nó cũng sẽ xuất hiện mạnh hơn b; và nếu nó màu vàng bạn sẽ thấy có một màu giữa đỏ và vàng.

Bề mặt của một vật thể san sẻ cái màu của ánh sáng chiếu rọi nó, và màu của không trung chen vào giữa con mắt và vật thể ấy, cũng có thể nói, màu của môi trường trong suốt chen vào giữa vật thể và con mắt.

Những màu nhìn thấy trong bóng sẽ phơi mở ít nhiều vẻ đẹp tự nhiên của chúng tỉ lệ tuỳ chúng nằm trong bóng nhạt hơn hoặc đậm hơn. Nhưng những màu nhìn thấy trong một không gian được chiếu sáng sẽ phơi mở vẻ đẹp nhiều hơn theo tỉ lệ với cường độ của ánh sáng.
      Những màu sắc nhìn thấy trong bóng sẽ hiển thị kém đa dạng tỉ lệ tuỳ những bóng có độ đậm hơn. Chứng minh cho điểm này là việc nhìn từ một khoảng không gian mở qua những lối ra vào của những giáo đường âm u, nơi mà những bức tranh được vẽ bằng những màu sắc khác nhau, tất cả đều có vẻ bao phủ bằng bóng tối. Vì thế, ở một khoảng cách đáng kể, tất cả những bóng có màu khác nhau sẽ xuất hiện cùng tối. Khi một vật thể nằm trong sáng và bóng, thì phía sáng cho thấy màu chân thực của nó.  


Về tính chất tương phản

Những trang phục đen làm cho da thịt người ta hiện vẻ trắng hơn thực tế, còn trang phục trắng làm cho da thịt sẫm lại, còn trang phục màu vàng làm cho da thịt nhuốm màu, trong khi trang phục đỏ cho thấy sắc da thịt nhợt nhạt.     


Về việc sắp cạnh màu này cạnh màu khác để làm trội bật lẫn nhau

Nếu bạn muốn tiếp cận một màu để làm ra một màu khác thu hút ở bên cạnh, hãy quan sát quy luật thấy trong quang tuyến mặt trời khi tạo thành cầu vồng, còn gọi tên khác là Mống/Iris. Màu sắc của cầu vồng tạo nên bởi vận động của mưa, bởi mỗi giọt nước nhỏ thay đổi trong dòng rơi của nó thành từng màu của cầu vồng, như sẽ vạch ra ở nơi thích hợp.


Về những màu thứ cấp sản sinh do sự hỗn hợp những màu khác
                                                        
Những màu đơn có sáu loại, trong đó đầu tiên là màu trắng, mặc dù một số triết gia không chấp nhận trắng hoặc đen trong số màu sắc, bởi trắng là nguyên nhân của các màu khác, còn đen là sự vắng mặt của các màu. Thế nhưng, bởi hoạ sĩ không thể làm việc mà thiếu đen và trắng, cho nên chúng ta bao gộp chúng trong số màu, và cho rằng trong trật tự này, trắng đứng đầu tiên trong số màu đơn, và vàng đứng thứ hai, lục thứ ba, lam thứ tư, đỏ thứ năm, và đen thứ sáu.
      Chúng ta sẽ lấy trắng thay màu của ánh sáng, thiếu nó, không màu sắc nào có thể nhìn thấy, vàng thay màu Đất, lục thay màu Nước, lam thay màu Không khí, đỏ thay màu Lửa, và đen thay màu bóng tối vốn ở bên trên nguyên tố Lửa; vì ở đó không có vật chất ở bất kì mật độ nào, và những quang tuyến mặt trời phải xuyên qua, vì vậy mà chiếu sáng. Nếu bạn muốn vắn tắt nhìn thấy tất cả sự đa dạng của những màu kết hợp, hãy lấy những tấm kính màu và nhìn xuyên qua chúng vào tất cả những màu của đồng quê được nhìn qua bên kia những tấm kính. Khi đó, bạn sẽ thấy những màu của sự vật nhìn thấy ở bên kia những tấm kính đều hỗn hợp với màu của kính và bạn sẽ thấy màu nào được tăng cường hoặc bị yếu đi do sự hỗn hợp này. Ví dụ, nếu tấm kính màu vàng, tôi cho rằng những hình ảnh thị giác của vật thể xuyên qua màu đó tới mắt có thể hoặc vừa suy yếu hoặc nâng cao, và sự xuống cấp sẽ xảy ra với màu lam, đen, và trắng hơn hẳn mọi màu khác; và sự nâng cao sẽ xảy ra với màu vàng và lục hơn là với những màu khác. Như vậy, bạn sẽ khảo sát bằng mắt sự hỗn hợp màu sắc vốn nhiều vô hạn; rồi bạn có thể chọn lựa các màu sắc cho những kết hợp mới từ việc hỗn hợp và xắp xếp. Bạn cũng có thể làm tương tự như vậy với hai tấm kính khác màu giơ lên trước mắt rồi tiếp tục tự mình thực nghiệm.       

Hãy viết về cầu vồng trong cuốn sách cuối luận về Hội hoạ, nhưng trước tiên hãy viết cuốn sách về màu sắc sinh ra do sự hỗn hợp với những màu sắc khác, như thế, bạn có thể chứng minh những màu sắc của những hoạ sĩ khác về nguyên uỷ của những màu cầu vồng.  

Mọi vật thể bản thân không có màu thì bị nhuốm hoặc vừa toàn thể hoặc một phần do màu sắc đối chọi với nó. Điều này có thể cho thấy với mọi vật dùng như tấm gương bị nhuốm màu sắc của vật phản chiếu trong nó. Và nếu vật màu trắng, thì bộ phận của nó được chiếu sáng bởi màu đỏ sẽ xuất hiện màu đỏ; và cũng thế với mỗi màu khác dù nó là sáng hay tối.
      Mọi vật thể mờ đục hoặc không màu san sẻ với màu của những gì đối chọi với nó: như xảy ra với bức tường trắng.

Bất kì bề mặt màu trắng và mờ đục nào cũng nhuốm màu từng phần do phản chiếu từ những vật thể bao quanh.  

Bởi trắng không phải màu nhưng lại có khả năng tiếp thu mọi màu sắc khác khi một vật thể trắng có thể nhìn thấy ở ngoài trời mà hết thảy bóng của nó là màu lam... còn bộ phận được phơi bày ra mặt trời và khí quyển thì khoác lấy màu sắc của mặt trời và khí quyển, còn bộ phận không thấy được mặt trời thì duy trì trong bóng và chỉ san sẻ màu sắc của khí quyển. Và nếu vật thể trắng này đã không phản chiếu những cánh đồng lục trải tận tới chân trời cũng không đối diện với độ sáng ngời của chân trời, thì nó chắc chắn sẽ xuất hiện đơn thuần tương đồng với sắc điệu của khí quyển.    

Trong số màu có độ trắng bằng nhau thì gần như sẽ loá nhất khi ở trên nền tối nhất, và màu đen gần như sẽ đậm nhất khi nó nằm trên nền có độ sáng hơn. Màu đỏ cũng vậy gần như chói nhất khi đặt trên nền màu vàng, và cũng thế với tất cả những màu khi đặt trên những nền đó sẽ tạo ra những sự tương phản sắc nét nhất.


Cách miêu tả những vật thể màu trắng

Nếu bạn miêu tả một vật, hãy cho nó bao quanh bằng không gian rộng, bởi màu trắng không có màu riêng của nó cho nên nó nhuốm màu và thay đổi theo cấp độ nào đó bởi màu của những vật bao quanh. Nếu bạn thấy một phụ nữ trang phục màu trắng giữa phong cảnh thì phía hướng tới mặt trời có màu chói lọi, tới nỗi trong một số phần nó sẽ làm loá mắt như chính mặt trời; còn phía hướng tới khí quyển,—toả sáng qua sự đan bện với những tia mặt trời và được chúng thâm nhập—vì bản thân khí quyển là màu lam, nên phía hình tượng người phụ nữ sẽ xuất hiện tràn ngập trong màu lam. Nếu bề mặt của mặt đất quanh nàng là đồng cỏ và nếu nàng đứng giữa một cánh đồng được mặt trời thắp sáng và do chính mặt trời, bạn sẽ thấy từng phần của những nếp gấp y phục hướng tới đồng cỏ đều nhuốm màu bởi những tia phản chiếu với màu của đồng cỏ đó. Như vậy, màu trắng được chuyển hoá thành những màu của vật phát quang và màu của những vật không phát quang gần nó.      

Mọi vật di động nhanh gần như nhuốm vào các phần của nó những ấn tượng về màu sắc. Mệnh đề này được chứng minh từ kinh nghiệm; vậy, khi ánh chớp di động giữa các đám mây đen, thì toàn bộ quá trình của nó qua tốc độ của đường bay ngoằn ngoèo tương tự một con rắn phát quang. Giống như nếu bạn di động một khúc củi đang cháy thì toàn bộ quá trình của nó sẽ như một vòng tròn lửa. Điều này là do cơ quan tri giác hoạt động nhanh hơn sự phán đoán.

Nghệ thuật hội hoạ chứng minh nhờ khoa học của nó, những phong cảnh rộng với những chân trời xa trên một mặt phẳng.

Người hoạ sĩ có thể gợi ý với bạn những cự li khác nhau bằng việc thay đổi bằng màu sắc do khí quyển sản sinh chen vào giữa vật thể và mắt. Y có thể miêu tả sương mù qua đó hình dạng sự vật khó lắm mới nhận ra được; mưa với những đỉnh núi và thung lũng phủ mây được phô bày suốt khắp;  những đám mây bụi cuồn cuộn quanh những chiến binh; những sông suối có độ trong suốt khác nhau, và đàn cá tung tăng giữa mặt nước và đáy; và những viên sỏi nhẵn nhiều màu sắc đọng lại trên bãi cát sạch của lòng sông bao quanh bởi những thảo mộc xanh biếc nhìn thấy ở dưới mặt nước. Y sẽ miêu tả tinh tú ở những độ cao khác nhau bên trên đầu chúng ta.


Phối cảnh không trung


Có một loại phối cảnh khác mà tôi gọi là không trung, bởi vì bằng sự dị biệt trong khí quyển, người ta mới có thể phân biệt được những cự li khác nhau của những toà nhà khác nhau xuất hiện trên một đường đơn độc; ví dụ như khi chúng ta nhìn thấy một số toà nhà vượt xa hẳn bức tường, tất cả được nhìn từ trên nóc tường, trông có vẻ có cùng kích thước; và nếu trong bức tranh, bạn muốn miêu tả một thứ xa hơn cái kia, bạn phải làm cho khí quyển sao cho đậm đặc lại. Bạn biết rằng trong một khí quyển có mật độ bằng nhau thì những vật xa nhất nhìn thấy qua nó, như núi non, vì thế có một khối lượng lớn khí quyển giữa mắt bạn và chúng, sẽ hiện màu lam và hầu như có cùng sắc điệu như bản thân khí quyển khi mặt trời ở phía Đông. Do đó, bạn nên tạo cho toà nhà gần nhất bên trên bức tường có màu sắc tự nhiên, nhưng làm cho những toà nhà ở xa hơn ít rõ nét và màu lam đậm hơn...

Mật độ của khói tính từ đường chân trời trở xuống thì trắng và từ chân trời trở lên thì tối sẫm; và mặc dù khói này bản thân có màu đồng dạng, nhưng sự đồng dạng này tỏ ra khác nhau, vì sự dị biệt của không gian mà trong đó nó xuất hiện.      


Về cây cối và ánh sáng chiếu trên chúng

Phương pháp thực hành tốt nhất trong việc miêu tả cảnh sắc đồng quê, hoặc phong cảnh với cây cối, là chọn lúc mặt trời trên bầu trời lúc khuất trong mây; vì thế những cánh đồng đón nhận một ánh sáng khuếch tán chứ không phải là ánh sáng trực tiếp của mặt trời vốn làm cho những bóng rõ nét, và rất khác biệt với ánh sáng.    


Về những màu sắc ngẫu nhiên của cây cối

Những màu sắc ngẫu nhiên của lá cây có bốn loại, đó là bóng, ánh sáng, quang huy, và trong suốt.
      Những bộ phận ngẫu nhiên của lá thực vật ở một cự li thật xa sẽ trở nên hỗn hợp, trong đó màu của phần nào trải rộng nhất sẽ ưu thắng.

Những phong cảnh có màu thiên thanh (azure) đẹp hơn trong thời tiết tốt khi mặt trời giữa trưa, và hơn bất cứ thời điểm nào khác trong ngày, bởi không khí không bị ẩm ướt; và khi quan sát chúng dưới những điều kiện ấy, bạn thấy cây cối có một màu lục đẹp ở hướng mút điểm của chúng và những bóng sẫm lại ở hướng trung tâm; và trong cự li xa hơn nữa, khí quyển chen vào giữa bạn và chúng, trông đẹp hơn khi có cái gì tối hơn ở đằng xa hơn, và như thế màu thiên thanh là đẹp nhất.  
      Những vật nhìn từ phía mặt trời chiếu sáng sẽ không cho bạn thấy những bóng của chúng. Nhưng nếu bạn ở thấp hơn mặt trời bạn có thể thấy những gì mà mặt trời không thấy, và tất cả sẽ ở trong bóng.    
      Lá cây ở giữa bạn và mặt trời có ba màu chính, đó là, một màu lục sáng loáng đẹp nhất và dùng như tấm gương cho khí quyển thắp sáng những vật thể nào mà mặt trời không thể với tới, và những bộ phận trong bóng đối diện với mặt đất, và những bộ phận tối nhất được bao quanh bởi những thứ khác ngoài bóng tối. 
      Cây cối trong phong cảnh giữa bạn và chúng thì đẹp hơn nhiều so với cây cối giữa mặt trời và bản thân chúng; đó là vì cây cối ở cùng hướng khi mặt trời cho thấy lá cây trong suốt tới mút điểm của chúng và những bộ phận không trong suốt, ở đầu lá thì sáng loáng, và những bóng thì sẫm lại bởi vì chúng không bị cái gì bao phủ.  Cây cối, khi bạn đặt mình ở giữa chúng và mặt trời, sẽ chỉ phơi bày ánh sáng và màu sắc tự nhiên và tự nó không mạnh lắm, và ngoài điều này ra, một số những ánh sáng phản chiếu nhất định, và nhờ ánh sáng của chúng trên nền tạo ra một sự tương phản mạnh đối với độ sáng của chúng, nhưng lại ít rõ ràng. Và nếu bạn ở vị trí thấp hơn chúng thì những phần của chúng có thể thấy được vì không phơi ra mặt trời, và chúng sẽ tối.
      Trong gió.
      Còn nếu bạn ở từ phía gió thuận đang thổi, bạn sẽ thấy cây cối có vẻ sáng nhiều hơn là khi bạn thấy chúng từ những phía khác; đó là bởi gió lật phần ngược của lá làm cho mọi cây cối trắng hơn; và, đặc biệt hơn, chúng sẽ rất sáng nếu gió thổi từ hướng mặt trời, và nếu bạn quay lưng lại với mặt trời.

Hãy miêu tả phong cảnh với gió, nước và lúc mặt trời lặn và mọc.
      Tất cả lá cây rủ xuống mặt đất khi những nhánh nhỏ oằn xuống với những cành chúc lên, và tự làm cho thẳng theo những luồng gió; và ở đây, phối cảnh của chúng đảo nghịch, vì nếu cây ở giữa bạn và là hướng gió thổi tới, những chóp lá chỉ tới bạn trong tư thế tự nhiên, trong khi lá ở phía đối diện sẽ có chóp lá trái với hướng, bằng sự lật lại, những chóp của chúng hướng tới bạn.       
      Cây cối trong phong cảnh không nổi bật riêng rẽ với nhau; bởi những bộ phận được chiếu sáng tiếp giáp với những bộ phận được chiếu sáng của những gì bên ngoài chúng và vì thế có ít sự dị biệt về ánh sáng và bóng râm (shade).
      Khi những đám mây ở khoảng giữa mặt trời và mắt, tất cả diềm từ những khối tròn của chúng thì sáng và chúng sẫm về phía trung tâm và điều này xảy ra bởi ở phần chóp của những diềm mép này được mặt trời chiếu cố từ bên trên trong khi bạn đang nhìn chúng từ phía dưới, và cũng điều này xảy ra với vị trí của những cành cây; và những đám mây cũng vậy, như cây cối, trong suốt ở mức nào đó, một phần nào sáng rực và ở diềm cho thấy mỏng hơn.   
      Nhưng khi mắt ở giữa mây và mặt trời, thì sự xuất hiện của mây trái lại với ở trên, vì diềm từ khối tròn của nó thì sẫm và ánh sáng hướng tới trung tâm. Và điều này xảy ra vì bạn thấy cùng một phía đối diện với mặt trời và bởi những diềm có một số độ trong suốt và tiết lộ với mắt phần che giấu ở phía xa bên ngoài chúng; và vì nó không bắt được ánh nắng như bộ phận quay hướng về nó, cho nên một cách nào đó nó tất yếu sẫm hơn. Lại nữa, có thể bạn nhìn thấy những chi tiết của những khối tròn ấy từ mặt dưới, trong khi mặt trời thấy chúng từ trên cao, và vì chúng không được định vị sao cho có phản chiếu ánh sáng mặt trời, như trong ví dụ đầu tiên, nên chúng vẫn tối.
      Những đám mây đen thường thấy cao hơn so với những đám mây sáng và được mặt trời chiếu sáng, bị đẩy vào trong bóng bởi những đám mây chen vào giữa chúng và mặt trời.
      Hơn nữa, những dạng mây hình tròn đối diện với mặt trời cho thấy diềm của chúng sẫm bởi chúng nằm ngược với nền sáng; và để thấy điều này là đúng, bạn nên quan sát sự trội bật của toàn bộ đám mây trên màu lam của bầu khí quyển vốn sẫm hơn bản thân nó.   

Những màu sắc ở giữa cầu vồng hỗn hợp vào nhau. Hình cung [của cầu vồng] bản thân nó không ở trong mưa cũng không ở trong con mắt nhìn thấy nó; tuy nó được phát sinh bởi mưa, mặt trời, và mắt. Cầu vồng luôn được nhìn thấy ở giữa mưa và thực thể mặt trời; vì thế, nếu mặt trời ở phía đông và mưa ở phía tây, cầu vồng sẽ xuất hiện trên cơn mưa ở phía tây.
  
Vào giờ đầu tiên trong ngày, khí quyển ở phía nam gần đường chân trời có một lớp sương mờ từ những đám mây đỏ hừng; ở hướng tây trời tối hơn, còn hướng đông ở hơi ẩm bốc lên từ chân trời cho thấy sáng hơn chính chân trời thực sự, và màu trắng của những ngôi nhà ở phía đông hầu như không nhận ra được; trong khi đó ở phía nam, càng ở khoảng cách xa hơn, chúng càng khoác màu hồng đậm, sắc hừng hực, và thậm chí còn hơn như thế nữa ở phía tây; và với những bóng thì ngược lại, vì những bóng này biến mất trước màu trắng...

Nếu bạn thắp ánh sáng và đặt nó vào trong một chiếc lồng đèn có màu lục hoặc một số màu trong suốt khác, bạn sẽ thấy nhờ thực nghiệm mà mọi vật thể được chiếu sáng gần như nhuốm màu sắc từ chiếc lồng đèn.   
      Bạn có thể cũng thấy ánh sáng xuyên qua cửa sổ kính màu của những giáo đường thì mang màu sắc của những kính cửa sổ ấy. Và nếu điều này chưa đủ thuyết phục, bạn nhìn ngắm mặt trời lúc hoàng hôn khi nó hiện màu đỏ qua hơi nước, và nhuộm đỏ tất cả những đám mây phản chiếu ánh sáng của nó.


2.     SỰ SỐNG VÀ CẤU TẠO CỦA VẬT THỂ

Mặc dù con mắt của hoạ sĩ chỉ nhìn thấy bề mặt của vật thể, nhưng khi thể hiện bề mặt y phải hiểu rõ và thông giải được sự cấu tạo hữu cơ nằm ở bên dưới. Việc miêu tả nhân hình đòi phải có một tri thức về cơ thể học và tỉ lệ. Những phong cảnh đòi hỏi sự nghiên cứu về hình thái học (morphology) của thực vật, về sự cấu tạo của địa cầu, về những chuyển động của nước và gió.

Tác phẩm này phải bắt đầu với sự hoài thai ra con người, và miêu tả tính chất của tử cung và bào thai sống trong đó bằng cách nào, và nó cư ngụ ở đó tới giai đoạn nào và nó máy động sự sống và sinh dưỡng ra sao. Cũng vậy, sự tăng trưởng của nó và khoảng cách nào giữa một giai đoạn tăng trưởng này và một giai đoạn khác. Điều gì buộc bào thai xuất ra khỏi cơ thể người mẹ, và nguyên nhân đôi khi nó ra khỏi tử cung người mẹ sớm trước thời hạn.     
      Tiếp theo, tôi sẽ miêu tả chi thể nào sau khi bé trai sinh ra, sẽ tăng trưởng hơn những chi thể khác, và quyết định những tỉ lệ của một bé trai được một tuổi. Rồi miêu tả người nam, nữ đã trưởng thành hoàn toàn, với tỉ lệ của họ, sắc diện, màu da và tướng mạo. 
      Sau đó, nói về huyết quản, gân, cơ bắp, và xương kết hợp ra sao. Và trong bốn bức vẽ trình bày bốn điều kiện phổ biến của con người. Đó là, tiếng cười với những hành vi khác nhau của người cười; và miêu tả nguyên nhân tiếng cười. Khóc trong những khía cạnh khác nhau với những nguyên nhân của chúng. Sự xung đột với những hành vi giết người khác nhau: đào thoát, sợ hãi, hung bạo, dũng cảm, tàn sát, và mọi thứ liên quan đến những điều kiện như thế. Tiếp đến, trình bày sự Lao động qua việc kéo, đẩy, khiêng vác, ngăn chận, chống đỡ, và những động tác đại loại như thế.
      Hơn nữa, tôi miêu tả những tư thế và những vận động. Tiếp theo, phối cảnh quan hệ đến chức năng của mắt; và thính giác—ở đây tôi sẽ nói về âm nhạc—và về những giác quan khác—và miêu tả tính chất của ngũ quan. Cơ chế này của con người, chúng ta sẽ chứng minh bằng hình vẽ.
 

(a)  Tỉ lệ
  
Lí thuyết về tỉ lệ có một sức quyến rủ lớn đối với những nghệ sĩ thời Phục hưng. Tác phẩm của họ không chỉ chủ tâm phô bày kĩ năng nghệ thuật, họ còn muốn đạt được sự hài hoà. Những tỉ lệ trong hội hoạ, điêu khắc, và kiến trúc đều giống như hoà âm trong âm nhạc và đưa đến một khoái cảm cực kì.  
     Tỉ lệ không chỉ tìm thấy trong những con số và những đo lường mà cũng còn trong âm thanh, trọng lượng, thời gian, và vị trí, và có thể là bất kì năng lực nào.
      Nhà kiến trúc La-mã Vitruvius đã truyền một số dữ liệu từ quy điển (canon) Hi-lạp với những tỉ lệ về nhân thể và những dữ liệu này tái lưu hành trong thời Phục hưng. Một bản vẽ của Leonardo được gọi là “Con người theo Vitruvius” (hiện bảo tồn ở Học viện ở Venice), được in lại trong một ấn bản sách của Vitruvius, phát hành năm 1511, để minh hoạ cho phát biểu rằng một thân thể hoàn hảo với hai cánh tay và hai chân dang ra có thể vẽ nội tiếp trong một hình vuông; trong khi cũng thân thể này dang thẳng chân tay chiếm một vòng tròn vạch quanh rốn làm trung tâm. Những tỉ lệ của nhân thể ở đây liên hệ tới những hình kỉ hà hoàn hảo nhất và có thể nói rằng được phối hợp thành vũ trụ hình cầu. 

Leonardo nỗ lực xác minh và trình bày cặn kẽ công thức toán học của Vitruvius để đặt chúng vào trong cơ sở khoa học qua việc quan sát thực nghiệm, và vì mục đích này, ông đã thu thập dữ liệu từ những người mẫu thực.



Hình học thì vô hạn bởi mọi số lượng liên tục có thể phân chia đến vô hạn theo phương hướng này hoặc phương hướng khác. Nhưng số lượng bất liên tục mở đầu bằng “một” và gia tăng tới vô hạn, và như đã nói, số lượng liên tục gia tăng tới vô hạn và giảm đến vô hạn. Và nếu bạn cho tôi một tuyến 20 thước Ý (braccia), tôi sẽ bảo cho bạn làm cách nào làm cho một tuyến thành 21 thước Ý.

Mọi bộ phận trong toàn thể phải tỉ lệ với cái toàn thể... tôi cho rằng cùng nguyên tắc này được xem là thích dụng với tất cả động vật và thực vật.

Khởi từ hội hoạ vốn phục vụ mắt, giác quan cao quý nhất, nảy sinh sự hài hoà về tỉ lệ; hệt như nhiều giọng khác nhau kết hợp và đồng thanh hợp xướng, sinh ra một tỉ lệ hài hoà dẫn tới sự thoả mãn cơ quan thính giác mà người nghe bị say mê trong niềm thán phục như thể đang trong cơn ngất ngây. Nhưng hiệu quả của tỉ lệ đẹp từ một gương mặt thiên thần trong hội hoạ thì lớn hơn nhiều, vì những tỉ lệ này sản sinh ra sự hoà hài đồng thời truyền tới mắt, hệt như một hợp âm trong âm nhạc tác động tới tai nghe; và nếu sự hoà hợp đẹp đẽ này được phô bày tới người yêu của nàng khi vẻ đẹp của nàng được miêu tả, thì chàng chắc chắn sẽ mê mẩn chiêm ngưỡng trong niềm hoan lạc vô song vượt trên mọi xúc cảm khác.

Người hoạ sĩ bằng những tỉ lệ hài hoà tạo nên những phần tổ hợp có tác dụng đồng thời, vì vậy có thể tức thời thấy chúng, tác động tới nhau như là hợp nhất, đồng thời vừa là chung và riêng; chung, nhìn xem thiết kế của bố cục như một toàn bộ; và riêng, nhìn xem thiết kế từ những phần tổ hợp.        

Vitruvius, nhà kiến trúc, phát biểu trong tác phẩm luận về kiến trúc của ông rằng những số đo về nhân thể được phân phối theo tự nhiên như sau: 4 ngón tay làm thành 1 lòng bàn tay; 4 lòng bàn tay thành 1 lòng bàn chân; 6 lòng bàn tay thành 1 cubit; 4 cubit tạo thành chiều cao của một con người; và 4 cubit thành một bước; và 24 lòng bàn tay thành một người; và ông sử dụng những đơn vị đo này trong kiến trúc. 
      Nếu bạn dang chân tới độ giảm chiều cao của bạn xuống còn 1/14 và dang và giơ hai cánh tay lên để cho những ngón giữa ngang bằng với chóp đầu của bạn, bạn phải biết rằng cái rốn sẽ tạo thành trung tâm của một vòng tròn và tứ chi dang ra chạm vào chu vi của vòng tròn; và không gian ở giữa hai cẳng chân sẽ tạo thành một tam giác đều.
      Sải tay của một người dang hai cánh tay thì bằng với chiều cao của người ấy.

Từ chân tóc đến đáy cằm là một phần mười chiều cao của một người; từ đáy cằm đến đỉnh đầu là một phần tám chiều cao của một người. Từ chóp ngực đến chân tóc là một phần bảy của tổng thể chiều cao; từ núm vú đến đỉnh đầu là một phần tư của một người. Bề ngang tối đa của đôi vai là một phần tư của chiều cao; từ khuỷu tay tới đầu ngón tay giữa là một phần năm; từ khuỷu tay đến cuối vai là một phần tám. Toàn bộ bàn tay là một phần mười. Dương vật bắt đầu ở trung tâm của một người. Bàn chân là một phần bảy của một người. Từ lòng bàn chân đến ngay dưới đầu gối là một phần tư của một người. Từ bên dưới đầu gối đến nơi dương vật bắt đầu là một phần tư của một người.

      Khoảng cách giữa cằm và mũi và khoảng cách giữa lông mày và chỗ tóc bắt đầu thì bằng với chiều cao của tai và là một phần ba của khuôn mặt.

Đầu af lớn hơn nf một phần sáu.

Bàn chân từ chỗ tiếp giáp với cẳng tới chóp đầu ngón cái, thì cự li bằng khoảng giữa phần trên của cằm và chân tóc ab; và bằng năm phần sáu của khuôn mặt.                                                                                                                                                                   
                                                                                                                
Đối với mỗi người, khoảng cách giữa ab bằng với cd.

 

Độ dài của bàn chân từ đầu những ngón chân tới gót thì gấp hai lần từ gót tới đầu gối, tức là từ chỗ xương cẳng nối với xương đùi. Bàn tay tới cổ tay thì gấp bốn lần khoảng cách từ đầu ngón tay dài nhất tới khớp vai.   



Chiều rộng ở hông người đàn ông thì bằng khoảng cách từ đỉnh hông tới đáy của mông, khi người ấy đứng cân bằng trên hai bàn chân; và cũng có cùng khoảng cách từ đỉnh hông tới nách. Thắt lưng, hay phần hẹp hơn ở trên hông, sẽ là nửa chừng giữa nách và đáy mông.

Mọi người lúc ba tuổi thì bằng nửa chiều cao trọn vẹn sau này tăng trưởng.

Có dị biệt lớn về độ dài giữa những khớp nối ở người thành niên và nhi đồng. Ở người thành niên, khoảng cách từ khớp vai tới khuỷu tay, và từ khuỷu tay tới đầu ngón cái, và từ vai này tới vai kia, trong mỗi ví dụ là hai đầu, trong khi đó ở thiếu nhi chỉ có một đầu; bởi Tự nhiên hình thành cho chúng ta kích thước này vốn là ngôi nhà của trí tuệ trước khi hình thành những gì chứa đựng những nguyên tố thiết yếu.   

Hãy nhớ rất cẩn thận khi vẽ tứ chi, chúng nên tỉ lệ với kích thước của thân thể và tương xứng với tuổi tác. Vậy, một người trẻ có tứ chi cơ bắp không nhiều lắm và không gân guốc lắm, còn bề mặt thì mịn và đầy đặn, còn màu sắc thì nhu hoà. Ở người thành niên, tứ chi nhiều cơ bắp và vạm vỡ; trong khi đó trên bề mặt người già thì nhăn nheo, gồ gề và nhiều mấu, và các tĩnh mạch thì nổi lên.      


(b) Cơ thể học và sự vận động của cơ thể

Nhân thể là một thể thống nhất phức hợp bên trong một trường tự nhiên lớn hơn, là một tiểu vũ trụ mà trong đó những nguyên tố và những năng lực của vũ trụ được phối hợp. Để nghiên cứu sự cấu tạo của cơ thể, Leonardo đã mổ xẻ những tử thi để khảo sát xương, khớp, và cơ bắp vừa riêng rẽ vừa trong tương quan với nhau, và phác hoạ từ nhiều góc nhìn và dùng những bản vẽ này cho sự chứng minh bằng thị giác, vì một sự miêu tả thích đáng không thể nào nêu ra bằng ngôn từ. Theo Leonardo, những chứng minh bằng thị giác đưa ra “những khái niệm hoàn chỉnh và chính xác về những hình dạng khác nhau bất luận tác giả là người xưa hoặc người hiện đại có thể nào nêu ra mà không bị tẻ nhạt và rối rắm vô cùng vì sự  rườm rà trong việc viết và mất thời gian”. Hơn nữa, không chỉ là những góc nhìn khác nhau, mà là vô vàn những khía cạnh phải xem xét, và cũng còn là những chuỗi liên tục của những giai đoạn khi vận động. Những vận động tròn của vai, cánh tay, và bàn tay, chẳng hạn, gợi lên một tính liên tục bằng hình ảnh như chúng ta có thể thấy trên một đoạn phim.
      Việc nghiên cứu về cấu tạo nhân thể bao gồm nghiên cứu về chức năng, về cách thức mà những hành vi và những động tác được thực hiện, những cơ bắp khác nhau tác động cùng nhau như thế nào khi cong và duỗi thẳng những khớp; trọng lượng của một cơ thể được chống đỡ và giữ thăng bằng ra sao. Leonardo nhìn cơ thể học bằng con mắt của nhà cơ học. Mỗi chi thể, mỗi cơ quan ông tin rằng được thiết kế và thích nghi hoàn toàn để thực hiện chức năng đặc biệt của nó. Như vậy, những cơ của lưỡi được tạo ra để sản sinh ra vô số những thanh âm bên trong miệng khiến con người phát âm được nhiều ngôn ngữ. Trong thời đại của Leonardo, không có sự phân chia giữa những ngành khác nhau của cơ thể học. Ông đã khảo sát những vấn đề của sinh lí học và bào thai học, và những hệ thống dây thần kinh và những động mạch. Ông đã dự kiến những nguyên lí về sự tuần hoàn của máu và chuẩn bị nền tảng cho những phân tích đi xa hơn về nhiều bộ môn. 

Bạn cho rằng tốt hơn cả là quan sát một cuộc chứng minh về cơ thể học hơn là xem những bản vẽ này, hẳn là bạn đúng nếu có thể quan sát tất cả những chi tiết cho thấy trong những bản vẽ ấy trong một bức hình đơn độc, trong đó, bằng tất cả sự thông minh, bạn sẽ không nhìn thấy hoặc hấp thu được tri thức hơn vài tĩnh mạch, trong khi đó để đạt được một tri thức đích thực và hoàn chỉnh về những tĩnh mạch này, tôi đã mổ xẻ hơn mười thi thể, huỷ mọi chi thể khác nhau và loại bỏ những mẩu thịt nhỏ nhất bao quanh những tĩnh mạch này, mà không làm máu tuôn ra ngoài những ống mao quản. Và vì một cơ thể đơn độc đã không đủ đáp ứng suốt một thời gian dài, cho nên cần thiết xúc tiến từng giai đoạn với thật nhiều cơ thể để giúp cho kiến thức của tôi được hoàn hảo; điều này tôi đã lập lại hai lần để phát hiện ra những dị biệt. Mặc dù bạn có một tình yêu đối với những thứ như thế, bạn có thể bị nhụt chí bởi cảm xúc ghê tởm có tính tự nhiên, và nếu điều này không cản trở bạn, bạn có thể bị nhụt chí do nỗi sợ trải qua bao nhiêu giờ trong đêm giữa những tử thi, bị phanh thây, bị róc lột và trông thật kinh khủng; và nếu điều này không làm bạn nhụt chí, vậy thì có thể là bạn thiếu kĩ năng về hình hoạ, nó cần thiết cho việc miêu tả; còn nếu bạn có kĩ năng về hoạ hình mà không kết hợp với kiến thức về phối cảnh; và nếu đã có kết hợp như thế, có thể bạn không hiểu những phương pháp chứng minh hình học và phương pháp ước lượng những lực và sức mạnh của những cơ bắp; hoặc có thể là bạn thiếu kiên nhẫn cho nên bạn sẽ không có sự chuyên cần.
      Về những tố chất ấy, chúng có trong tôi hay không, một trăm hai mươi quyển sách mà tôi đã soạn sẽ đưa ra phán xét “có” hay “không”. Trong những sách này, tôi đã không bị trở ngại bởi sự bần tiện hoặc cẩu thả, mà chỉ thiếu thời gian. Tạm biệt.


Hoạ sĩ cần phải biết sự cấu tạo nội tạng của con người

Hoạ sĩ có một tri thức về tính chất của gân, cơ, và dây chằng sẽ hiểu rất rõ về sự vận động của một chi thể có bao nhiêu và gồm những gân nào tạo ra nó, và những cơ nào khi gồng lên là nguyên nhân của sự co rút từ gân đó; và những gân nào mở rộng thành lớp sụn mong manh bao quanh và chống đỡ cho cơ.    
      Như vậy, người hoạ sĩ sẽ theo những cung cách khác nhau và phổ biến, biểu thị những tư thái khác nhau trong những hình tượng của mình; và sẽ không làm như nhiều người, trong những vận động đa dạng, vẫn phô bày cùng những thứ này nơi cánh tay, lưng, ngực, và cẳng chân. Và những thứ này không thể xem là những khuyết điểm nhỏ.  

Trong toàn bộ 15 đồ hình sẽ cho bạn thấy cái tiểu vũ trụ nằm trên cùng bình diện như trước đây, Ptolemy đã tiếp thu trong vũ trụ học của ông;  và tôi sẽ chia chúng thành những chi thể như ông đã chia đại vũ trụ thành những địa hạt; và tiếp theo, tôi sẽ xác định những chức năng của những bộ phận trong mỗi hướng của chúng, đặt trước mắt bạn sự miêu tả toàn bộ hình thể con người và khả năng vận động nhờ những bộ phận của y. Và có lẽ điều ấy làm hài lòng đấng Tạo hoá của chúng ta khi tôi có thể phơi mở tính chất của con người và những tập tính của y ngay cả khi tôi miêu tả về hình thể của y.

Hãy nhớ, để chắc chắn về đầu mối của mỗi cơ khi kéo dây gân đã được cơ này sản sinh sao cho cơ này được vận động, và sự liên kết của nó với dây chằng của xương. Bạn sẽ rất dễ bị lầm lẫn khi chứng minh những cơ và những vị trí, đầu mối và tận cùng của chúng, trừ phi đầu tiên bạn chứng minh những cơ mảnh kiểu như sợi chỉ; và theo cách này bạn sẽ có thể miêu tả với cơ này chồng lên cơ kia như tự nhiên đã sắp đặt chúng; và như vậy, bạn có thể đặt tên chúng tuỳ theo chi thể mà chúng phục vụ, ví dụ, cơ vận đầu ngón chân cái, và của xương giữa hoặc của xương đầu tiên, v.v... Và khi bạn đã đưa ra thông tin này, bạn sẽ nhìn nghiêng cái hình dạng, kích thước và vị trí đích thực của mỗi cơ; nhưng hãy nhớ làm cho những sợi biểu thị những cơ này trong cùng những vị trí như tuyến trung tâm của mỗi cơ; và như thế, những sợi này sẽ chứng minh hình dạng của cẳng chân và khoảng cách của chúng theo một cách rõ ràng.


Cấu tạo bên trong bàn tay

Khi bạn bắt đầu vẽ cấu tạo bên trong bàn tay, đầu tiên hãy tách rời tất cả xương cốt ra với nhau một chút, như thế bạn có thể nhanh chóng nhận ra hình dạng thực sự của mỗi cái xương từ lòng bàn tay và cũng nhận ra số mục và vị trí thực sự trong mỗi ngón; và có một số ngón cưa theo chiều dọc để xem cái nào rỗng và cái nào đặc. Sau việc này, đặt lại vị trí xương vào đúng khớp của chúng và miêu tả toàn bộ bàn tay mở banh ra từ bên trong. Chứng minh tiếp theo sẽ là những bắp cơ bao quanh cổ tay và phần còn lại của bàn tay. Việc thứ năm sẽ là miêu tả những sợi gân làm di động những khớp thứ nhất của ngón tay. Thứ sáu, những sợi gân di động những khớp thứ hai của ngón tay. Thứ bảy, gân làm di động các khớp thứ ba của ngón tay. Thứ tám, miêu tả những dây thần kinh đem lại xúc giác cho chúng. Thứ chín, tĩnh mạch và động mạch. Thứ mười, cho thấy toàn bộ bàn tay hoàn chỉnh với da và kích thước; và kích thước của xương cũng nên đo. Và bất kể những gì bạn làm với phía này của bàn tay, bạn cũng nên làm với ba phía kia—đó là với phía lòng bàn tay, với phía mặt lưng, và với những phía các cơ duỗi và cơ gấp. Như vậy, trong chương về bàn tay, bạn sẽ trình ra 40 bức chứng minh; và bạn cũng làm y như thế với mỗi chi thể. Theo phương pháp này, bạn sẽ có được tri thức toàn diện. Sau đó, bạn nên có một luận văn liên quan đến bàn tay của từng động vật, để cho thấy chúng khác biệt như thế nào. Chẳng hạn, trong loài gấu, những dây gân chằng từ những ngón chân đều gắn vào bên trên mắt cá của bàn chân.    

Trọng lượng, sức, và vận động của những vật thể và những chấn động là bốn năng lực cơ bản trong đó mọi tác động hữu hình của loài người đều có hiện hữu và mục đích.

Sau việc chứng minh tất cả những bộ phận chi thể của con người và của những động vật khác, bạn sẽ trỉnh bày đúng cách thức động tác của những chi thể này, từ nằm cho tới trỗi dậy, khi di động, chạy, và nhảy trong nhiều động tác khác nhau, khi nhấc và mang những trọng vật, khi ném đồ vật đi xa, và khi bơi; và trong mọi động tác bạn cho thấy những chi thể và những cơ bắp nào vận dụng nó, và đặc biệt xét về vai trò của những cánh tay.

Về, khuynh hướng của chi thể khi vận động, bạn sẽ phải xem xét khi bạn muốn thể hiện một người vì lí do nào đó phải quay ra đằng sau hoặc quay nghiêng, bạn đừng làm cho y dời hai bàn chân và tất cả chi thể hướng tới phía mà y quay đầu sang. Đúng hơn, bạn phải làm cho động tác xúc tiến theo những cấp độ và thông qua những khớp khác nhau, của bàn chân, của đầu gối, của hông, và của cổ. Nếu bạn cho y trụ ở bàn chân phải, bạn phải làm cho đầu gối trái uốn vào trong và bàn chân trái hơi nhấc lên ra phía ngoài; và cho vai trái hơi thấp hơn vai phải; và cho cái gáy thì nằm một đường chạy thẳng trên mắt cá phía ngoài bàn chân trái. Và vai trái sẽ nằm theo tuyến thẳng góc ở bên trên ngón chân phải. Và luôn sắp đặt hình thể người sao cho phía đầu quay sang không phải là phía lồng ngực hướng tới, bởi thiên nhiên vì sự tiện lợi khi ban cho chúng ta một cái cổ có thể uốn dễ dàng theo nhiều hướng khi mắt nhìn sang những điểm khác nhau và những khớp nối khác phần nào đều phục tùng nó.       


Tính uyển chuyển của chi thể

Tứ chi sẽ thích nghi với thân thể bằng tính uyển chuyển và bằng sự tương quan với hiệu quả mà bạn muốn nhân hình tạo ra. Nếu bạn muốn tạo ra một nhân hình trông nhẹ nhàng và duyên dáng, bạn phải làm cho tứ chi thanh nhã và duỗi ra, và không phô bày quá nhiều cơ bắp; và bạn cần thể hiện một số cơ một cách mềm mại, ẩn ước và bóng không đậm lắm; tứ chi và đặc biệt là cánh tay phải thoải mái, và không nên theo một tuyến thẳng với những bộ phận tiếp giáp. Hai bên hông, vốn là cột trụ của một người, nên được sắp đặt sao cho bên phải cao hơn bên trái, rồi cho vai bên phải thấp hơn vai trái và cho khớp nối của bên vai cao hơn theo một tuyến thẳng ở trên phía hông cao nhất. Hãy cho cuống họng luôn ở trên trung tâm của mắt cá bàn chân đang trụ. Còn cẳng chân không chịu lực thì đầu gối nên thấp hơn bên kia, và gần cẳng chân kia. Những vị trí của đầu và cánh tay thì biến thiên vô kể và vì thế tôi sẽ không bổ sung thêm bất cứ quy tắc nào cho chúng. Tuy nhiên, hãy để chúng thoải mái và thư giãn, với những việc quay và vặn khác nhau và những khớp cong lại duyên dáng, và trông không giống như những khúc gỗ.

Cái được gọi là vận động giản đơn của một người khi kẻ ấy đơn thuần khom về phía trước, hoặc phía sau, hoặc sang phía bên cạnh.       

Cái được gọi là vận động kết hợp của một người khi kẻ ấy cần phải khom xuống và đồng thời quay sang bên cạnh...


Sự vận động của con người

Khi bạn muốn thể hiện một người làm động tác di chuyển một số vật nặng cho thấy những vận động này được thể hiện theo những phương hướng khác nhau. Một người có thể khom xuống để nhấc một vật nặng với chủ ý nhấc nó lên trong khi duỗi thẳng thân thể; đây là một vận động giản đơn từ dưới lên trên; hoặc người ấy có thể muốn kéo lùi một vật; hoặc đẩy nó tới hoặc kéo nó xuống bằng một sợi dây thừng chạy qua một cái ròng rọc. Ở đây bạn nên nhớ rằng thể trọng của một người khi kéo thì tỉ lệ với trọng tâm của trọng lượng của người ấy là khoảng cách từ điểm tựa của người ấy, và bạn phải bổ sung lực tạo ra từ cẳng chân và khom sống lưng khi người ấy duỗi thẳng thân thể.        


Cơ gân hướng dẫn cẳng chân, và gắn liền với xương bánh chè của đầu gối, cảm thấy nó phải tốn sức nhiều hơn khi mang một người thẳng đứng so với cẳng chân cong hơn; cơ bắp tác động lên góc độ do đùi tạo ra nơi nó gắn với phần thân thì ít khó khăn và ít trọng lượng khi nhấc lên, bởi vì nó không có trọng lượng của chính phần đùi. Và ngoài điều này ra, những cơ của nó khoẻ hơn những cơ hình thành phần mông.   

Điều đầu tiên mà một người làm khi bước lên những bâc thang là giải phóng cẳng chân mà y muốn nhấc lên khỏi trọng lượng của phần thân người vốn đang trụ trên cẳng chân này, và đồng thời y chất cẳng chân kia toàn bộ sức nặng của mình kể luôn sức nặng của cẳng chân nhấc lên. Tiếp theo y nhấc cẳng lên và đặt bàn chân lên bậc mà y muốn leo lên; sau đó, y vận chuyển sang cái bàn chân đặt cao hơn tất cả sức nặng của thân mình và trọng lượng của cẳng chân rồi chống tay lên đùi, lao đầu tới trước và di chuyển hướng tới điểm của cái bàn chân cao hơn, trong khi đó nhấc nhanh gót của cái bàn chân thấp hơn; và bằng động lực tiếp thu được như vậy, y nhấc bản thân lên; và đồng thời bằng việc duỗi rộng cánh tay vốn đang tựa trên đầu gối, y đẩy thân mình và đầu lên phía trên và như vậy làm thẳng đường cong của lưng.

Con người và mọi động vật chịu đựng sự mỏi mệt khi đi hướng lên hơn là hướng xuống, vì khi đi lên thì mang theo trọng lượng của mình, còn khi đi xuống, chỉ việc buông thả nó.       

Một người, khi chạy, thì lao trọng lượng của mình trên đôi cẳng ít hơn là khi đứng yên. Giống như tư thế của con ngựa, khi đang chạy, ít ý thức về trọng lượng của người mà nó đang chở theo; vì thế, nhiều người coi điều đó là tuyệt diệu khi một con ngựa trong cuộc đua có thể tự chống đỡ một chân mà thôi. Do đó, chúng ta có thể nói về trọng lượng khi chuyển động hướng ngang, vận động càng nhanh, thì trọng lực hướng về địa tâm càng ít đi.      

Khi một người đang ngồi trên đất bằng, và đứng lên ra sao.

Kí ức không có khả năng nhớ được mọi phương diện và biến hoá của bất cứ chi thể động vật nào. Chúng ta sẽ chứng minh điều này qua ví dụ về bàn tay. Bởi vì mỗi lượng liên tục có thể chia đến vô hạn qua sự vận động của mắt vốn quan sát bàn tay, di chuyển qua một không gian, và cũng là một lượng liên tục và có thể chia đến vô hạn. Và trong mỗi giai đoạn của vận động, vẻ ngoài và hình dạng bàn tay có biến thiên, và sẽ tiếp tục biến đổi khi mắt di chuyển theo vòng tròn. Và bàn tay lần lượt sẽ tác động theo cung cách tương tự như khi nó nhấc lên trong khi chuyển động, tức là nó sẽ di chuyển qua không gian vốn là một lượng liên tục.  

Có [bốn loại] vận động giản đơn chính yếu nơi khuỷu tay cử động bởi khớp vai, đó là khi cánh tay gắn chặt với khớp vai di chuyển hướng lên và hướng xuống hoặc hướng tới phía trước hoặc phía sau. Tuy vậy, ta có thể nói, những vận động như thế là vô hạn. Vì nếu chúng ta xoay vai hướng tới một bức tường và miêu tả một hình tròn với cánh tay, chúng ta sẽ phải thực hiện tất cả những vận động chứa trong vai nói trên. Và, vì [mỗi vòng tròn là] một lượng liên tục, nên vận động của cánh tay [sản sinh ra] một lượng liên tục. Vận động này sẽ không sản sinh ra một lượng liên tục nếu như nó không được dẫn đạo bởi nguyên tắc của sự liên tục. Vì thế, vận động của cánh tay ấy đã đi qua mọi phần của vòng tròn. Và vì vòng tròn là có thể chia vô hạn nên những biến thiên của vai là vô hạn.
      

Động tác đồng nhất nhìn từ những vị trí khác nhau

Cùng một tư thế được nhìn thấy với vô số những biến thiên, bởi có thể quan sát nó từ vô số những vị trí và những vị trí này là một lượng liên tục, và có thể chia thành vô số những phần. Vì thế, mọi động tác của con người tự cho thấy sự biến thiên vô hạn.   

Những vận động của con người thực hiện trong một trường hợp đơn độc hoặc vì một mục đích đơn độc đều biến thiên vô hạn trong tự thân. Điều này có thể chứng minh như thế này. Ta hãy giả định rằng một người đập vào vật thể nào đó. Vậy tôi cho rằng việc đập vào của y được tạo thành từ hai trạng thái. Hoặc là người ấy nhấc vật ấy lên và phải đi lên để tạo ra việc đập, hoặc là vật thể ấy đã hạ xuống rồi. Bất cứ trường hợp nào, không thể phủ nhận rằng sự vận động xảy ra trong không gian và không gian đó là một lượng liên tục, và lượng liên tục có thể chia đến vô hạn. Kết luận: mọi vận động của vật hạ xuống đều có thể biến thiên đến vô hạn.    


(c)  Sinh lí học

Ở đâu có sự sống ở đó có nhiệt; ở đâu có nhiệt thì có sự vận động của những lưu thể.

Nguyên nhân làm di chuyển nước qua suối ngược lại dòng chảy tự nhiên của hấp lực cũng tương tự nguyên nhân làm di chuyển những dịch thể (humour) trong mọi hình dạng của những sinh vật thể.

[Với bản vẽ quả tim cho thấy những tĩnh mạch và động mạch]
     Hỡi văn sĩ, bạn sẽ miêu tả bằng ngôn từ nào với sự hoàn thiện tương tự toàn bộ cấu tạo của nó trong bức hoạ này đây? Vì thiếu tri thức, bạn sẽ miêu tả nó một cách lẫn lộn khi truyền đạt nhưng mà lại ít am hiểu về những hình dạng đích thực của sự vật; và tự dối mình rằng bạn tìn rằng bạn thoả mãn thính giả hoàn toàn khi bạn nói về hình thể của bất cứ gì có cơ thể và được bao quanh bằng những bề mặt.
      Tôi khuyên rằng, bạn đừng trở ngại mình bằng những ngôn từ trừ phi bạn đang nói với người mù, hoặc nếu bạn muốn chứng minh với đôi tai bằng ngôn từ thay vì bằng đôi mắt của con người đang nói về những thực vật hoặc về những vật thiên nhiên và không mất công rót vào tai những thứ mà lẽ ra phải biểu đạt bằng mắt vì ở đây bạn sẽ bị tác phẩm của hoạ sĩ vượt qua rất xa.     
      Bằng ngôn từ nào bạn có thể miêu tả quả tim này mà không chiếm cả quyển sách? Thế nhưng, bạn càng viết chi tiết bao nhiêu về nó bạn càng làm rối trí người nghe. Và bạn sẽ luôn cần tới những người chú giải hoặc trở lại với kinh nghiệm, và đối với bạn thì ngắn ngủi và chỉ bàn về một vài điều khi so sánh với mức độ của chủ đề liên quan trong những gì bạn mong muốn tri thức toàn diện.


Mắt người
                              
Đồng tử của mắt thay đổi sang nhiều kích thước khác biệt tuỳ theo những khác biệt về mức độ sáng và tối của vật thể ở trước mắt... Trong trường hợp này, thiên nhiên đã ban cho năng lực thị giác, khi bị ánh sáng quá độ kích thích, thì đồng tử thu nhỏ lại và ở đây thiên nhiên tác động giống như người thấy trong nhà quá nhiều ánh sáng, thì khép cửa sổ lại ít nhiều tuỳ mức cần thiết, còn khi đêm xuống, thì mở toang cửa sổ để nhìn thấy rõ hơn...   
      Thiên nhiên ở đây ban sự điều chỉnh không ngừng và tính quân bình liên tục bằng sự giãn nở và thu nhỏ của đồng tử tuỳ theo độ tối hoặc sáng ở phía trước nó. Bạn có thể quan sát quá trình ở những động vật sống về đêm, như mèo, cú mèo, cú tai dài, chúng vốn có đồng tử nhỏ vào ban trưa và rất to vào ban đêm... còn nếu bạn muốn thí nghiệm với một người nhìn chăm chú vào đồng tử của mình trong khi cầm cây nến sáng ở cách một khoảng cách ngắn và cho người ấy nhìn vào ánh nến này trong khi bạn mang nó càng lúc càng tới gần hơn, và bạn sẽ thấy ánh nến càng tới gần hơn thì đồng tử của người ấy sẽ càng co lại.

Đồng tử định vị ở trung tâm của giác mạc vốn có hình dạng của bộ phận hình cầu chọn đồng tử ở trung tâm đáy của nó. Giác mạc (luce) này hình thành bộ phận của khối cầu tiếp nhận tất cả hình ảnh của những vật thể và truyền chúng thông qua đồng tử ở bên trong tới nơi mà thị giác hình thành.     

Trong việc giải phẫu mắt, để có thể nhìn thấy rõ được cấu tạo bên trong mà không làm trào dịch lưu (watery humour) của nó, bạn nên đặt toàn bộ con mắt trong lòng trắng của quả trứng rồi nấu nó cho tới khi rắn lại; rồi cắt ngang quả trứng và con mắt sao cho không bộ phận nào của phần giữa bị trào ra.

Hãy đục hai lỗ thông trong cuống sừng của những tâm thất (ventricle) lớn và bơm sáp chảy vào bằng ống chích, đục một lỗ trong tâm thất của bộ nhớ (memoria), và qua cái lỗ này bơm đầy ba tâm thất của bộ não; và sau đó khi sáp đã tước đi bộ não và bạn sẽ thấy hình dạng chính xác của ba tâm thất.


(d) Lưỡi

Về những cơ làm di chuyển lưỡi [được minh hoạ bằng những bản vẽ]

Không có khí quan nào có số cơ nhiều như lưỡi,—trong những cơ này có hai mươi bốn được biết là tách biệt khỏi những cơ khác mà tôi phát hiện được; và trong tất cả những chi thể di chuyển bằng động tác tự giác thì khí quan này vượt qua tất cả những phần còn lại về số lượng vận động của nó... Công việc hiện tại là khám phá ra bằng cách nào mà hai mươi bốn cơ này được phân chia hoặc phân phối để giúp đỡ lưỡi trong những vận động cần thiết vốn có nhiều và khác biệt; và hơn nữa, nó phải được nhìn thấy những dây thần kinh truyền xuống đáy bộ não ra sao, và bằng cách nào chúng đi vào lưỡi, tự phân phối và chỉa ra những chi nhánh. Và phải ghi nhận thêm hai mươi bốn cơ này tự biến đổi thành sáu trong việc cấu tạo của chúng trong lưỡi. Hơn nữa, bạn nên cho thấy những cơ này phát xuất từ đâu, mà một số cơ trong cột sống nơi cổ... một số trong hàm trên, và một số trong khí quản... và tương tự những tĩnh mạch nuôi dưỡng chúng và những dây thần kinh gây cảm giác cho chúng... lưỡi tác động trong việc phát âm và đọc rõ ràng những âm tạo ra lời. Lưỡi cũng dùng trong những vòng quay cần thiết của thực phẩm trong tiến trình nhai và làm sạch từ bên trong miệng và răng. Lưỡi có bảy loại vận động chủ yếu...
      Hãy xem xét kĩ sự vận động của lưỡi ra sao cùng sự giúp đỡ của môi và răng, việc phát âm tất cả những danh xưng của sự vật mà chúng ta quen biết; và những từ đơn và câu phức của một ngôn ngữ lọt tới tai chúng ta bằng khí cụ này; nếu như mỗi hiệu quả tự nhiên, đều có danh xưng, thì những danh xưng đạt tới vô hạn, cùng vô số những sự vật trong hoạt động và trong cơ năng tự nhiên; với những danh xưng này, người ta không biểu đạt chỉ bằng một ngôn ngữ mà bằng nhiều ngôn ngữ, và chúng có xu hướng tới vô tận; bởi chúng liên tục biến thiên từ thế kỉ này sang thế kỉ khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác, qua sự hỗn dung giữa các dân tộc bởi chiến tranh và những tai biến khác không ngừng pha trộn vào với nhau; và cùng những ngôn ngữ này có khả năng bị lãng quên, và cũng bị tiêu vong như mọi tạo vật; và nếu chúng ta thừa nhận rằng thế giới là bất diệt, chúng ta có thể nói những ngôn ngữ này đã đang, và vẫn còn là, mang tính đa dạng vô hạn, lưu truyền qua bao thế kỉ bền gan với tuế nguyệt. Và đây không phải là trường hợp có bất kì ý nghĩa nào khác; vì những điều này chỉ liên quan tới những sự vật như thiên nhiên không ngừng sản sinh; và những hình dạng thông thường của sự vật do thiên nhiên tạo ra không thay đổi, như những sự vật do con người tạo ra qua các thời đại, và con người là khí cụ vĩ đại nhất của thiên nhiên. 

Tôi có rất nhiều từ ngữ trong tiếng mẹ đẻ mà đáng lẽ tôi phải than phiền về việc thiếu hiểu biết chính xác về sự vật hơn là việc thiếu từ ngữ thể hiện đầy đủ khái niệm trong tâm trí của tôi.


(e)  Môi

Những cơ làm di động đôi môi của miệng

Những cơ làm di động đôi môi của miệng ở con người thì nhiều hơn bất kì ở động vật nào khác; và điều này cần thiết cho con người bởi vì nhiều hành vi mà đôi môi này được sử dụng không ngừng, như trong việc phát âm bốn mẫu tự bfmp, khi huýt sáo, cười, khóc, và những hành vi tương tự. Cũng vậy, trong những việc nhăn nhó kì quái mà những chú hề vận dụng khi họ mô phỏng những khuôn mặt.
      Những cơ nào căng thật chặt miệng và những đường biên ở bên của nó sát lại gần nhau?
      Những cơ làm căng miệng như vậy làm giảm bớt độ dài của nó đều nằm trong đôi môi; hoặc đúng hơn đôi môi này đều là những cơ thực sự tự khép lại. Trên thực tế, cơ này thay đổi kích thước của môi bên dưới những cơ khác vốn liên kết với nó và từ đó cặp môi căng phồng lên và máy động thành nụ cười,... còn cái cơ thu nhỏ lại nó giống như như vành môi dưới được thành hình; và tiến trình tương tự đồng thời diễn ra ở vành môi trên. Có những cơ khác khiến đôi môi đi tới một điểm; những cơ khác làm phẳng chúng; những cơ khác làm méo lệch tất cả; và những cơ khác đem chúng trở về vị trí ban đầu. Vì thế, luôn có nhiều cơ tương ứng với những điệu bộ khác nhau của đôi môi này và nhiều cơ khác giúp phục hồi những điệu bộ này; và mục đích của tôi ở đây là miêu tả và trình bày đầy đủ, chúng minh những sự vận động này nhờ những nguyên tắc toán học.   

Có lần, tôi thấy ở Florence một người đàn ông bị điếc, khi bạn nói thật lớn tiếng, y không hiểu bạn, nhưng nếu bạn nói khẽ và không gây ra tiếng, y hiểu được bạn đơn thuần từ cử động của đôi môi. Giờ đây, có thể bạn sẽ cho rằng đôi môi của một người nói lớn tiếng không cử động giống như đôi môi khi nói khẽ, và nếu chúng cử động giống nhau chúng sẽ không được hiểu giống nhau. Về tranh luận này, tôi để lại quyết định này cho việc thực nghiệm; hãy cho một người nói với bạn nhẹ nhàng và lưu ý đôi môi người ấy.  


(a)  Bào thai

Mặc dù kĩ năng của con người có thể tạo ra những phát minh đa dạng và đáp ứng bằng những máy móc khác nhau cho cùng một mục đích, nhưng nó sẽ chẳng bao giờ nghĩ ra một phát minh nào đẹp hơn, giản đơn và trực tiếp hơn Tự nhiên; bởi trong những phát minh của bà mẹ Tự nhiên không gì thiếu và thừa. Bà mẹ Tự nhiên không cần sự đối trọng nào khi bà sáng tạo các chi thể thích hợp cho vận động trong cơ thể động vật, mà đặt trong chúng linh hồn của thân thể vốn tạo hình  nên chúng, đó là linh hồn của người mẹ đầu tiên tạo dựng trong tử cung hình hài của con người, và đến đúng kì hạn đánh thức cái sẽ là kẻ cư trú trong cái nhân dạng đó. Và linh hồn này ban đầu nằm ngủ dưới sự giám hộ của linh hồn người mẹ, người ban cho nó dưỡng chất và sự sống thông qua tĩnh mạch cuống nhau và toàn bộ những thành phần tâm linh của nó; và điều này vẫn tiếp diễn chừng nào sợ dây rốn nói trên kết nối với nó bởi rau thai và phôi nhờ đó đứa con gắn bó với người mẹ. Đây là những lí do tại sao một mong mỏi, một ước muốn mạnh mẽ, một nỗi sợ hãi mà người mẹ trải qua thì đứa con cảm nhận còn mạnh hơn cả người mẹ nữa; vì có bao nhiêu trường hợp đứa con bị thiệt mạng vì thế...   

          

Do một tinh thần cai quản hai thân thể, cho nên những ước muốn, sợ hãi, và đau đớn của người mẹ là một với nỗi đau, đó là nỗi đau thân xác, cùng những ham muốn của đứa con trong thân thể người mẹ, cũng như thế, cách thức truyền dưỡng chất cho đứa con và nó được nuôi dưỡng cùng nguyên nhân như những phần khác của người mẹ,và những năng lực đời sống của nó được rút từ không khí cũng là nguyên lí sinh tồn chung của loài người và mọi tạo vật khác.  

Người da đen Ethiopia không phải là sản phẩm của mặt trời; vì nếu da đen lấy da đen có con ở Scythia, thì dòng dõi vẫn là da đen; nhưng nếu một người da đen lấy vợ da trắng có con thì dòng dõi có màu tro. Điều này chứng tỏ hạt giống của người mẹ có năng lực trong bào thai ngang với hạt giống của người cha.


Tôi bộc lộ cho con người về dòng dõi đệ nhị của họ—đệ nhị hoặc có thể là đệ nhất—nguyên nhân của tồn tại. Sự phân chia phần tâm linh khỏi phần vật thể. Và đứa con thở và được nuôi dưỡng ra sao qua cuống rốn; và tại sao một linh hồn cai quản hai thân thể, khi ta thấy người mẹ khao khát một thực phẩm nào đó thì đứa con cũng mang những biểu thị đó. Và tại sao đứa con [sinh ra] khi được tám tháng thì không sống được. Ở đây, Avicenna tranh biện rằng linh hồn sinh linh hồn và nhục thể sinh nhục thể và các loại khí quan, nhưng ông sai lầm.


(g)  Cơ thể học so sánh
     
Bạn sẽ trình bày ở đây việc so sánh cặp giò của con ếch, vốn có một sự tương tự lớn với cặp giò của con người, cả về xương và cơ. Rồi thêm nữa, chân sau của con thỏ rừng có nhiều bắp thịt, với những cơ hoạt động mạnh, bởi vì chúng không bị mỡ làm trở ngại.

Hãy lưu ý những khúc cong ở những khớp và quá trình thịt căng phồng lên khi gấp và duỗi; về chuyện này quan trọng nhất là phải viết một chuyên luận: miêu tả vận động của những động vật bốn chân; trong đó kể cả con người trong ấu thời bò bằng cả tứ chi.

Con người luôn bước đi theo cách của những động vật bốn chân hệt như họ di chuyển bàn chân chéo nhau theo kiểu con ngựa phi, con người cũng chuyển động tứ chi chéo nhau như thế; tức là khi bước đi, bàn chân phải của người ta đi tới thì cánh tay trái đánh tới trước và ngược lại, lúc nào cũng vậy.

Con ếch sẽ chết tức khắc nếu cột sống bị đâm xuyên; và trước khi điều này xảy ra, nó vẫn sống không có đầu, không tim hoặc bất kì xương hoặc ruột hoặc da, và vì thế, ở đây cột sống gần như là nguyên nhân nền tảng của sự vận động và đời sống. Tất cả những dây thần kinh của động vật bắt nguồn từ đây: khi bị đâm vào, chúng chết tức khắc.

Tôi đã phát hiện trong cấu tạo của cơ thể con người những cơ quan cảm giác trì độn hơn và thô sơ hơn so với những cơ quan cấu tạo của động vật. Như vậy, nó được cấu thành từ một khí cụ ít tinh xảo và từ những bộ phận ít có khả năng tiếp nhận năng lực của những giác quan. Tôi đã thấy trong đàn sư tử, khứu giác hình thành bộ phận thực chất của não đi xuống lỗ mũi để hình thành một chỗ đón nhận lớn cho khứu giác. Đi vào chỗ đón nhận này là một lượng lớn những tế bào sụn với nhiều thông đạo dẫn tới não bộ nói tới ở trên. Đôi mắt trong đàn sư tử có một bộ phận lớn ở đầu dành cho hốc mắt và những dây thần kinh thị giác liên thông trực tiếp với não bộ; với con người thì ngược lại, hốc mắt chỉ chiếm một phần nhỏ, còn những dây thần kinh thị giác thì mỏng, dài và yếu; và bởi hoạt động yếu cho nên chúng ta ban ngày nhìn thấy rõ, còn ban đêm thì tồi; trong khi đó, sư tử ban đêm nhìn rõ hơn ngày; và bằng chứng có thể thấy là chúng săn mồi vào đêm và ngủ vào ban ngày, như những loài chim sống về đêm.  


Đôi mắt của động vật

Đôi mắt của mọi động vật đều có đồng tử thích nghi với việc giãn nở và co lại tuỳ tỉ lệ ánh sáng mặt trời hoặc nguồn sáng khác nhiều hơn hoặc ít hơn. Nhưng trong loài chim, sự biến thiên lớn hơn, đặc biệt với loài chim ban đêm thuộc chủng loại cú. Như cú sừng, cú trắng và cú nâu. Với những loài cú này, đồng tử giãn nở cho tới khi hầu như nó chiếm trọn con mắt, hoặc co lại kích thước chỉ bằng hạt kê, và luôn giữ lại hình tròn.
      Nhưng ở đàn sư tử, như loài báo đen, báo, báo tuyết, hổ, sói, mèo rừng, mèo Tây-ban-nha, và những động vật tương tự khác, đồng tử khi co lại từ hình tròn xoe sang hình trứng.     
      Tuy vậy, con người có một thị lực yếu hơn bất kì động vật nào khác, lại ít bị ánh sáng quá độ làm tổn thương và đồng tử ít gia tăng ở những chỗ tối. Nhưng trong đôi mắt của những động vật sống ban đêm đã nêu trên, trong loài cú sừng, là loài chim đêm lớn nhất, thị lực gia tăng rất lớn tới nỗi trong màn đêm mờ nhất (gọi là bóng tối) nó có thể thấy rõ rệt hơn là chúng ta nhìn thấy vào giữa trưa chói lọi, khi những loài chim này ẩn trong những chỗ tối; hoặc nếu chúng buộc phải xuất hiện ra ánh mặt trời, thì đồng tử co lại thật nhỏ tới nỗi thị lực của chúng giảm theo lượng ánh sáng.  
      Hãy nghiên cứu cơ thể học về các loại mắt khác nhau và nhìn những đồng tử của các đôi mắt động vật nói trên xem các cơ nào mở và đóng.  

Nếu ban đêm, mắt của bạn ở giữa ánh sáng và mắt của một con mèo, bạn sẽ thấy mắt mèo giống như lửa.

Khi loài chim nhắm mắt lại bằng hai lớp phủ, đầu tiên nó khép lớp thứ nhì, lớp này nằm ở một phía tuyến nước mắt hướng tới đuôi mắt, và lớp phủ ngoài nhắm lại từ dưới lên trên. Hai lớp này  giao nhau và đầu tiên che mắt từ hướng của tuyến nước mắt bởi vì chim đã thấy rằng nó an toàn phía trước và phía sau; nó chỉ bảo toàn phần trên của mắt bởi vì những nguy cơ từ loài chim săn mồi hạ từ trên xuống và sau tới; và trước tiên nó sẽ mở lớp màng theo hướng của đuôi mắt, vì nếu kẻ thù ập tới từ sau thì chim có cơ hội bay tới trước. Cũng vậy, nó giữ lớp màng gọi là thứ nhì vốn có kết cấu trong suốt, nó làm vậy bởi nếu không có tấm chắn này thì nó không thể giữ đôi mắt mở ra chống lại luồng gió đập vào mắt khi bay nhanh.   

Phân tích sự vận động của lưỡi con chim gõ kiến.

Miêu tả lưỡi con gõ kiến và hàm của con sấu châu Phi.

Sau khi một hoạ sĩ đã làm chủ khoa cơ thể học, y có tự do sáng tạo ra những sinh vật dựa theo ý tưởng riêng của mình. Y có thể, chẳng hạn, ráp các bộ phận của nhiều loài vào với nhau để tạo ra một cấu trúc giả tưởng. Những con quái vật của Leonardo là một ví dụ kì lạ về phương thức mà tậm trí ông kết hợp khoa học với hư cấu. Chúng thường là những ý tưởng dành cho những lễ hội hoá trang và những huy hiệu.

Làm sao tạo ra một con vật tưởng tượng trông có vẻ tự nhiên

Bạn biết rằng bạn không thể tạo ra bất cứ con vật nào mà không có những chi thể, như mỗi chi thể mang một số điểm tương tự với chi của một số những động vật khác. Nếu vậy, bạn muốn tạo ra một trong những con vật theo trí tưởng tượng trông có vẻ tự nhiên—ta hãy giả thiết nó là một con rồng—hãy cho cái đầu của nó của loại chó lớn tai cụp hoặc chó săn lông xù, cho mắt như mắt mèo, cho tai của loài nhím, cho mũi của loài chó săn, với lông mày sư tử, và thái dương của con gà trống già và cổ của con rùa nước.    


(h)  Vải vóc

Các loại vải mỏng, dày, mới, cũ, với những nếp gấp đứt đoạn và xếp nếp, ánh sáng nhẹ, bóng tối mờ và ít tối mờ, có hoặc không có những phản chiếu, rõ nét hoặc không rõ nét tuỳ khoảng cách và màu sắc; và những y phục tuỳ theo địa vị xã hội của người mặc, dài hoặc ngắn, phất phới hoặc cứng nhắc tuỳ những di động; bao bọc quanh nhân vật khi khom xuống hoặc đuôi áo phất phới thành dòng nhấp nhô, tuỳ những những nếp gấp; bám chặt bàn chân hoặc tách biệt khỏi, tuỳ theo đôi chân đang nghỉ hoặc gấp, hoặc xoáy hoặc sải bước; bó chặt hoặc tách biệt với những chỗ nối theo bước chân hoặc chuyển động hoặc khi có gió.  
      Và những nếp gấp nên tương ứng với phẩm chất của những vải vóc dù trong suốt hay mờ đục...
      Về y phục mỏng của phụ nữ khi đang bước đi, đang chạy, đang nhảy, và các trạng thái khác.

Nên vẽ tính chất của vải như thế nào: tức là, nếu bạn muốn miêu tả loại vải len thì vẽ những nếp gấp từ đó, và nếu là lụa, hoặc vải mịn hoặc thô, hoặc vải gai hoặc nhiễu đen, làm biến đổi từng nếp gấp và không miêu tả những bộ áo dài, như nhiều người thường làm, từ những người mẫu che phủ bằng giấy hoặc da thuộc mỏng thì sẽ rầt dễ đánh lừa bạn.

Mọi vật thể tự tính chất có xu hướng duy trì thế yên nghỉ. Loại vải có mật độ và độ dầy bằng nhau có xu hướng nằm phẳng; vì thế khi bạn gấp nó lại hoặc xếp nếp để bắt buộc nó không giữ độ phẳng, hãy chú ý hiệu quả của sự kiềm chế ở phần kiên cố nhất; và phần xa nhất ra với sự kiềm chế thì rơi lại trạng thái tự nhiên nhất; tức là trải loang ra một cách tự do.     

Bạn không nên để cho y phục bị quá nhiều nếp gấp lộn xộn, mà nên đưa vào chỉ những nếp gấp tạo ra bởi bàn tay hoặc cánh tay; phần còn lại bạn có thể để cho buông xuống đơn thuần mà bản tính làm nó trôi chảy; và đừng cho những hình thể khoả thân bị vắt ngang bởi quá nhiều đường nét hay những nếp gãy khúc.

Những nhân vật mặc áo choàng không nên cho thấy hình thể quá nhiều tới nỗi cái áo khoác trông như thể sát liền da thịt. Vì chắc chắn bạn không muốn chiếc áo khoác sát với thịt bởi vì bạn phải nhận thức rằng giữa áo choàng và thịt là những bộ y phục khác ngăn những hình dạng của tứ chi không hiển hiện được và xuất hiện qua cái áo choàng. Và những chi thể mà bạn phô ra thì hãy làm nó dày chắc để nó dường như là có những loại trang phục khác dưới lớp áo choàng. Chi thể của một tiên nữ hoặc một thiên sứ nên cho thấy trong trạng thái hầu như nguyên  hình, vì những chi thể này được miêu tả khoác trang phục nhẹ, thướt tha và ép sát vào chi thể của những nhân vật khi gió đang thổi.  


(i)    Thực vật học

Những trang dưới đây bao gồm một tuyển chọn từ bút kí của Leonardo về thảo mộc. Những bút kí khác liên hệ đến phong cảnh, chẳng hạn như những nghiên cứu về sự hình thành nham thạch, những vận động của nước và mây, được nêu ra trong Chương II. Những bút kí về khí quyển, ánh sáng và màu sắc trong phong cảnh được nêu ra trong Chương IV.
      Nhiều bản vẽ về cây cối và hoa thảo bản xứ của nước Ý có thể tìm thấy trong thủ cảo của ông. Ông quan tâm đến tầm ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời và nước đối với việc tăng trưởng của chúng. Ông theo dõi quá trình chín muồi của một quả bầu. Ông quan sát hấp lực của địa cầu đối với những thực vật nhất định (hướng địa tính/geotropism) và tập tính của những thực vật khác quay hướng tới mặt trời (hướng nhật tính/heliotropism). Ông khảo sát nhựa các loại cây và và phát hiện rằng tuổi của chúng tương ứng với số vòng trong thân cây cắt ngang. Sự quan sát của ông về trật tự theo đó lá cây chiếm những vị trí khác nhau trên thân cây hoặc trục là bước đầu tiên để thiết lập những quy tắc về sự sắp xếp lá (phyllotaxis) và việc này đã được phát triển mấy thế kỉ sau đó.  

Người không có tính đại đồng (universal) thì không yêu quý bình đẳng mọi thứ bao gồm trong Hội hoạ. Chẳng hạn có người không quan tâm đến phong cảnh và yêu quý chúng thì chỉ xem xét một đề tài qua loa và đơn giản. Vì thế, Botticelli của chúng ta nói rằng những học tập như thế là vô ích, bởi chỉ việc ném miếng bọt bể tẩm màu sắc khác nhau lên một bức tường thì ở khoảng vấy màu sẽ hình thành một bức phong cảnh thú vị có thể nhận ra rồi. Tôi thừa nhận hoàn toàn đúng là trong một mảng vấy màu đó, người ta có thể dò tìm ra những sáng chế khác nhau nếu người ta tìm kiếm chúng, giống như đầu người, những con vật khác nhau, những trận chiến, nham thạch, biển, mây, cây cối, và những thứ tương tự, hệt như khi lắng nghe những tiếng chuông chùm, ta gần như nghe được bất kể những gì ta chọn. Nhưng mặc dù những mảng vấy màu đó có thể gợi lên với bạn những bố cục, nhưng chúng không dạy cho bạn biết cách nào để hoàn tất bất kì chi tiết nào.
     Và loại hoạ sĩ này chỉ có thể vẽ những bức phong cảnh rất tồi!


Miêu tả bốn mùa trong năm hoặc về những sự vật liên quan

Vào mùa thu, bạn sẽ vẽ những sự vật tuỳ theo tiến triển của mùa, khởi đầu lá cây bắt đầu héo tàn trên những cành già cỗi nhất, ít hoặc nhiều, phụ thuộc vào cây được thể hiện đang sinh trưởng trên đất cằn hay phì nhiêu, và ngay cả những loại cây nhạt màu và có sắc đỏ hơn thì sinh ra quả trước tiên.     
      Không nên, như nhiều người, vẽ tất cả những loại cây, cho dù chúng có cự li đều nhau, có cùng loại màu lục. Nói về những cánh đồng, thảo mộc, những loại đất và đá khác nhau, và thân cây, chúng đều luôn dị biệt. Bởi thiên nhiên thì biến thiên vô hạn, không chỉ về những chủng loại mà ngay cả trong cùng thứ cây có thể thấy màu sắc khác nhau và trên nhánh có lá đẹp và lớn hơn những cành khác. Thiên nhiên hết sức thú vị và phong phú theo những biến thiên, trong số những cây cùng loại sẽ không tìm thấy một cây gần như tương tự với cây khác, và không chỉ cây cối như một toàn thể, mà các cành, lá và quả của chúng, cũng không thể tìm thấy cây này giống hệt như cây kia.
      Vì thế, hãy quan sát điều này và biến hoá chúng hết sức nếu có thể.



Ở những đầu mút cành cây, trừ phi chúng trĩu nặng do quả, nó hướng hết sức lên bầu trời. Mặt trên của lá hướng lên bầu trời để nhận dưỡng chất từ sương rơi ban đêm.
      Mặt trời ban tinh thể và sự sống cho cây cối và mặt đất nuôi dưỡng chúng bằng độ ẩm.

Những cành thấp hơn, sau khi chúng đã hình thành góc tách biệt với thân mẹ, thì luôn cong xuống sao cho không chen chúc với những cành khác sẽ liên tiếp ở phía trên chúng trên cùng một thân và có thể  hấp thu không khí để nuôi chúng dễ dàng hơn.

Mỗi chồi non và mỗi quả được sinh ra bên trên vị trí chen vào (trong nách lá) của lá vốn phục vụ như người mẹ, bằng việc đem nước mưa và độ ẩm của sương rơi ban đêm từ bên trên và bảo vệ chúng khỏi bị quá nhiều sức nóng của ánh mặt trời.


Về việc lá sinh trên cành

Độ dầy cành không bao giờ sút giảm trong khoảng giữa lá này và là khác trừ khi bởi độ dầy của cái mắt ở trên chiếc lá; và độ dầy này lại thiếu hụt trong phần kế tiếp của cành tới khi có cái lá sau.   


      Thiên nhiên đã xắp đặt lá cây từ những chồi mới nhú trong nhiều loại cây, chiếc lá thứ sáu bao giờ cũng ở bên trên lá thứ nhất và tiếp tục như thế nếu quy luật này không bị ngăn chặn.
      Và việc này giúp cây cối hai công dụng, một là khi cành và quả sinh ra trong năm sau từ mầm (hay mắt) vốn ở bên trên để tiếp xúc với sự gắn bó của lá, thì nước làm ướt cành này có thể hạ xuống để nuôi dưỡng chiếc mầm này, giọt nước đọng lại trong nách lá là nơi mà lá nảy sinh; và công dụng thứ hai là khi những chồi này phát triển trong năm tới thì chồi này sẽ không che chồi khác, vì năm cành cây đâm ra theo năm hướng khác nhau, và cành thứ sáu đâm phía trên cành thứ nhất ở một cự li nào đó.

Tất cả đoá hoa tiếp thụ mặt trời trực tiếp mới kết hạt chứ không phải những đoá hoa khác chỉ tiếp thu ánh phản chiếu của mặt trời. 

Nếu bạn tước đi một vòng từ vỏ của một thân cây, nó sẽ héo tàn từ vòng trở lên và vẫn sống từ vòng trở xuống, còn nếu bạn tạo cái vòng trong tuần trăng xấu, rồi cắt cây từ dưới gốc trong một tuần trăng tốt, thì cái cây có vòng cắt trong tuần trăng tốt sẽ sống sót và phần còn lại sẽ héo tàn.   

Những cành cây luôn bắt đầu ở trên lá.

Khởi đầu của cành cây sẽ luôn có tuyến trung tâm với độ dầy [trục] nhắm tới tuyến trung tâm [trục] của cây.

Nói chung, gần như tất cả những bộ phận thẳng đứng của cây hơi cong cong theo độ lồi hướng tới phương nam; và những cành của chúng dài hơn, dầy hơn và nhiều hơn hướng tới phương nam hơn là phương bắc. Và điều này xảy ra vì mặt trời kéo nhựa tới bề mặt của cây vốn gần nhất với nó. Và người ta ghi nhận điều này trừ phi mặt trời bị cây cối khác che chắn.

Tất cả những cành cây ở mỗi tầng phát triển trong độ cao của chúng, kết hợp với nhau, bằng với độ dầy của thân cây.
      Tất cả những nhánh sông ở mỗi tầng trong độ dài của chúng có vận động bằng với kích thước của dòng chủ lưu.


Sự sáp nhập cành lên cây

Khởi đầu chi nhánh của cây trên cành chính, giống như khởi đầu của lá trên chồi của cùng cây ấy. Những lá này có bốn cách sinh trưởng và cách này ở bên trên cách kia; cách thứ nhất, và thông thường nhất, chiếc lá thứ sáu luôn bắt nguồn bên trên lá thứ sáu bên dưới; cách thứ nhì, hai phần ba lá ở bên trên là hai phần ba lá bên dưới; cách thứ ba, chiếc lá thứ ba bên trên ở trên chiếc lá thứ ba bên dưới; và thứ tư, cây linh sam được sắp xếp thành những tầng.

Tất cả hạt đều có cuống rốn khi hạt chín muồi. Và tương tự như thế, chúng có tử cung và rau thai, như thấy trong cỏ và mọi loại hạt sinh trưởng trong những vỏ bọc. Nhưng những loại hạt sinh trưởng trong loại vỏ cứng, như hạt dẻ, hạt hồ trăn và những hạt tương tự có cuống rốn dài và điều này phơi bày trong thời sơ sinh của chúng.     


Cây anh đào (cherry) có đặc tính của cây linh sam (fir) mà các chi nhánh bố trí thành tầng quanh thân; và những cành của nó mọc thành những bốn, những năm, hoặc những sáu đối ngịch với nhau; và chóp của những chồi cao nhất hình thành một hình kim tự tháp từ trung tâm hướng lên; và cây hồ đào và sồi hình thành một bán cầu từ trung tâm hướng lên.    

Chiếc lá luôn quay mặt chính diện lên bầu trời để cho nó có thể tiếp nhận toàn diện bề mặt khi sương rơi nhẹ từ khí quyển; những chiếc lá này được phân bố trên cây cối sao cho lá này phủ lên lá khác thật ít, nhưng chúng nằm luân phiên cái này trên lá kia như thấy trong dây thường xuân phủ những bức tường. Và sự luân phiên này giúp hai mục đích; một là để lại những khoảng trống sao cho không khí và mặt trời có thể thâm nhập vào giữa chúng,—và mục đích thứ hai là những giọt nước rơi xuống từ lá thứ nhất có thể rơi lên lá thứ tư, hoặc lá thứ sáu trong trường hợp của những loại cây khác.  

Khi miêu tả gió, ngoài việc cho thấy những cành bị uốn cong và lá lật ngược khi gió thổi tới, bạn nên trình bày những đám mây bụi mịn trộn lẫn vào không khí bị xao động.  

Những cây non có lá trong suốt hơn và vỏ cây bóng láng hơn những cây già cỗi; và đặc biệt cây hồ đào có màu nhạt hơn vào tháng Năm so với tháng Chín.

Những vòng mặt cắt ngang của cành cây cho thấy số năm của nó, độ rộng lớn hơn hoặc nhỏ hơn của những vòng này cho thấy năm nào ẩm hơn và khô hơn. Chúng cũng cho thấy hướng cành cây xoay về, vì phần quay tới hướng bắc dầy hơn phần quay tới hướng nam vì thế trung tâm của thân thì gần với cái vỏ xoay về hướng nam hơn là xoay về hướng bắc.
      Mặc dù điều này không quan trọng trong hội hoạ, tuy nhiên, tôi muốn miêu tả nó, ngõ hầu bỏ sót thật ít những gì tôi biết về cây cối.


3.     BIỂU HIỆN CỦA TINH THẦN
   
Tri thức về cơ thể học không đủ và vì thế người nghệ sĩ phải đào sâu hơn. Những hành vi gợi lên những động lực dẫn tới chúng; những gương mặt và những động tác phải tiết lộ những trạng thái tinh thần. Nhân thể là một biểu hiện ra ngoài và hiển hiện của linh hồn. Nó được tạo hình bởi tinh thần của nó. Người hoạ sĩ phải đảo ngược tiến trình và bằng việc dựng một cơ thể biểu lộ một tinh thần.
      Leonardo coi đây là mục đích cao nhất của người nghệ sĩ và bản thân ông sở trường về nó. Bức chân dung Mona Lisa của ông đã luôn được coi là một kiệt tác vì sự biểu lộ đời sống nội tâm, và những bức tranh khác của ông cũng trong cùng phạm trù, với bức Bữa tiệc li là một ví dụ thượng thặng. Trong số những bản vẽ còn sót lại có một loạt những bức biếm hoạ về những gương mặt, cho thấy những thái cực của những biểu hiện.

Bàn tay và cánh tay trong mọi động tác phải phô bày ý đồ tinh thần khiến chúng vận động, trong mức độ có thể, bởi nhờ chúng, bất cứ ai có sự phán đoán đồng cảm tuân theo những ý đồ tinh thần trong mọi vận động của chúng. Những nhà hùng biện giỏi, khi họ muốn thuyết phục thính giả điều gì, thường thường kèm theo lời lẽ của họ bằng những động tác bàn tay và cánh tay, tuy vậy có một số người ngu coi thường những nét văn hoa đó, nên ở diễn đàn họ gần như là những pho tượng gỗ, qua miệng của họ, tiếng nói của một người núp nơi diễn  đàn, được dẫn bởi một ống nói. Lối thực hành này là khuyết điểm lớn trong cuộc sống, và thậm chí trong cả những hình tượng hội hoạ, vì, nếu chúng không được kẻ sáng tạo ban cho những động tác sinh động dựa theo ý định mà bạn hình dung có trong một nhân vật như thế, sẽ được đánh giá là chết hai lần; chết vì nó không sống động, và chết trong động tác.   
      Nhưng hãy quay lại với chủ đề của chúng ta, dưới đây sẽ trình bày và bàn luận về nhiều cảm xúc; đó là: cảm xúc giận dữ, đau đớn, hốt hoảng, khóc, trốn chạy, ham muốn, hiệu lệnh, xao nhãng, lo âu, và đại loại.

Một hoạ sĩ giỏi có hai đối tượng chính để vẽ, con người và ý hướng tâm linh của con người, việc trước thì dễ, việc sau thì khó, bởi y phải thể hiện linh hồn đó bằng những thái độ và động tác của tứ chi. Tri thức về những thứ này nên được hấp thu qua việc quan sát người câm, bởi những động tác của họ có tính tự nhiên hơn bất kì những loại người khác.

Việc xem xét quan trọng nhất trong hội hoạ là những động tác của từng nhân vật biểu lộ trạng thái tinh thần, như sự ham muốn, khinh miệt, giận dữ, thương xót, và những trạng thái tương tự.

Trong hội hoạ, những động tác của nhân vật ở trong từng trường hợp biểu lộ mục đích tư tưởng của họ.

Mỗi động tác phải nhất thiết được biểu lộ bằng sự vận động.
Nhận biết và chí hướng là hai vận hành của tư tưởng con người.
Biện biệt, phán đoán, phản ánh đều là những hoạt động của tư tưởng con người. 
      Thân thể của chúng ta quy phục trời, và trời quy phục tinh thần.

Một bức tranh hay đúng hơn những nhân vật trong đó nên thể hiện sao cho người xem dễ dàng nhận ra mục đích trong tư tưởng qua những thái độ của họ... như trong trường hợp của người điếc và câm khi nhìn xem hai người đang trò chuyện—tuy bị mất khả năng thính giác, tuy vậy y vẫn có thể  hiểu được nội dung cuộc trò chuyện bằng những thái độ và cử chỉ của những người nói.

Tứ chi tuỳ từng việc lao động thì phải có gân guốc, còn tứ chi không lao động, bạn làm cho không có cơ bắp và mềm.   
      Hãy thể hiện những nhân vật có động tác thích hợp với việc biểu lộ mục đích tư tưởng của họ; nếu không, tác phẩm của bạn sẽ không được tốt.

Một bức tranh nhân vật không đáng khen ngợi trừ phi động tác xuất hiện trong nó cũng biểu đạt được tâm tình thiết tha của y. Nhân vật đáng khen ngợi nhất là do những động tác của nó, những biểu đạt một cách tuyệt vời nhất cái nhiệt tình sôi động.

Những người già nên được miêu tả bằng những động tác chậm và nặng nề, đầu gối của họ cong cong, khi họ đứng yên thì đôi bàn chân đặt song song và cách nhau; khi khom xuống thì đầu chúi về phía trước, và cánh tay của họ duỗi ra ít. Phụ nữ phải được miêu tả  bằng những thái độ khiêm tốn, hai cẳng chân khép sát lại, hai cánh tay khoanh lại, đầu họ nghiêng ít nhiều về một bên. Phụ nữ già nên miêu tả bằng những cử chỉ háo hức, nhanh nhẹn, và nóng nảy, như những cơn giận dữ ghê gớm; nhưng động tác nên mãnh liệt hơn ở cánh tay và đầu hơn là ở chân. Trẻ con, với những vận động hoạt bát và vặn vẹo, còn khi ngồi thì điệu bộ e thẹn và rụt rè.


Nội dung và hình thức

Người yêu thì bị xúc động bởi cái mình yêu, như giác quan xúc động bởi điều nó nhận thức, và nó kết hợp và trở thành một và đồng nhất. Tác phẩm là thứ đầu tiên sinh ra từ sự kết hợp này; nếu vật được yêu là hạ cấp, thì kẻ yêu trở thành hạ cấp. Khi sự vật được đem vào kết hợp mà hài hoà với cái đón nhận nó, thì sẽ có hoan lạc, thú vui, và thoả mãn. Khi người yêu được kết hợp tới người được yêu, thì tìm thấy niềm an nghỉ ở đó; khi gánh nặng trút xuống thì nó tìm thấy niềm an nghỉ... 


4.     BỐ CỤC TRANH

Khi một nghệ sĩ được uỷ thác vẽ một bức tranh để tưởng nhớ một sự kiện nhất định, y không sao chép một bối cảnh cho sẵn; mà phải bố cục nó. Những nhân vật xếp theo nhóm và được đặt trên một hậu cảnh và phải thích hợp với một không gian nhất định. Leonardo khuyên một hoạ sĩ tìm cảm hứng cho một bố cục khi nhìn vào một bức tường bị vấy lốm đốm, cho thấy ông chuộng trò chơi tự do của trí tưởng tượng trong việc phối hợp những sự vật thành những dạng thức hai chiều. Tuy thế, ông đòi phải có một bối cảnh giống thật. Việc miêu tả những cơ thể trong không gian, những vị trí tương đối của chúng, độ chiếu sáng, màu sắc, tỉ lệ cân đối, cấu trúc, và những tư thế phải được phối hợp thành một toàn thể hài hoà.


Trật tự nghiên cứu

Tôi cho rằng đầu tiên bạn phải học những chi thể và về cơ chế của chúng, và sau khi đã hoàn tất việc nghiên cứu này, bạn nên học những động tác của chúng tuỳ theo những hoàn cảnh xảy ra ở con người; và thứ ba, bố cục về những chủ đề, những nghiên cứu nên rút ra từ những động tác tự nhiên và làm nhiều lần, tuỳ theo hoàn cảnh cho phép; và chú ý tới chúng trên đường phố, quảng trường và những cánh đồng, và ghi chú chúng bằng biểu thị vắn tắt về những hình thể của chúng; như vậy, cái đầu  biểu thị bằng một dấu O, cánh tay là một đường thẳng hoặc cong, và cũng vậy đối với cẳng chân và cơ thể và khi bạn trở về nhà hãy làm việc với những ghi chú này dưới một hình thức hoàn chỉnh. Và những ý kiến chống đối cho rằng để thực hành và thực hiện được nhiều tác phẩm, tốt hơn là thời kì học đầu tiên nên luyện vẽ từ những bố cục khác nhau của các bậc thầy khác nhau trên giấy hoặc trên tường. Và nếu thực hành theo lối này và những phương pháp tốt đều lĩnh hội nhanh chóng; đối với ý kiến ấy, tôi đáp rằng phương pháp này sẽ tốt nếu căn cứ trên những tác phẩm có bố cục tốt do các bậc thầy thiện xảo thực hiện. Nhưng bởi những bậc thầy như thế rất hiếm tới nỗi chỉ kiếm ra một vài người, cho nên cách chắc chắn nhất là đi thẳng tới những đối tượng của thiên nhiên hơn là những đối tượng mô phỏng từ thiên nhiên đã bị biến chất nhiều, và cũng bị hấp thu những tập quán xấu; vì người nào có thể đi tới suối nguồn thì không đi ra vũng nước.  


Miêu tả một người đang nói chuyện giữa một nhóm người

Khi bạn muốn miêu tả một người đang nói chuyện giữa một nhóm người, hãy xem xét chủ đề mà y đang bàn tới rồi phỏng theo động tác của y với chủ đề. Tức là, nếu chủ đề có tính thuyết phục, hãy cho động tác của y duy trì, nếu chủ đề đưa ra một cuộc tranh luận, hãy cho diễn giả với những ngón tay phải ôm một ngón tay bên trái và giữ những ngón tay nhỏ hơn khít chặt; và gương mặt của y cảnh giác quay tới hướng mọi người, miệng hơi mở ra như thể y lên tiếng; và nếu y ngồi, hãy cho y có vẻ như  sắp đứng lên, với đầu hướng phía trước. Nếu bạn miêu tả y đang đứng, cho y ngả nhẹ về tới trước với đầu và vai về phía mọi người. Những điều này bạn nên miêu tả sự yên lặng và chú tâm, tất cả ngắm dương mặt của diễn giả bằng những cử chỉ khâm phục; và cho những người già kinh ngạc trước những gì họ nghe thấy, với khoé miệng trễ xuống kéo bên má xuống thành những nếp với đôi lông mày nhướng lên chỗ chúng giao nhau và tạo thành những nếp nhăn trên trán; một số ngồi với các ngón tay siết chặt lấy đầu gối mệt mỏi; và một số ông lão khòm lưng, vắt chân chữ ngũ và một bàn tay đặt lên đầu gối và giữ khuỷu tay và bàn tay kia chống lấy cằm.


Bút kí về Bữa tiệc li

Một người vừa uống xong, để cái li về vị trí rồi quay đầu sang người đang nói.
      Một người khác vặn cổ tay, cặp lông mày nghiêm nghị quay về phía đồng bạn. Một người khác dang đôi bàn tay ra cho thấy lòng bàn tay, và nhún vai lên tới tai, miệng tỏ ra kinh ngạc. Một người khác nói vào tai người bên cạnh, khi người kia đang nghe, ông quay sang người nghe trong khi đang cầm con dao, và bên kia thì ổ bánh mì đã cắt dở dang. Một người khác đang xoay con dao trong tay thì làm đổ cái li trên bàn. Một người khác đặt hai tay lên bàn và đang nhìn. Một người khác phồng miệng thổi. Một người khác chồm tới trước để xem người đang nói chuyện lấy tay che mắt. Một người khác lui ra sau lưng người đang chồm tới trước, và nhìn người nói chuyện giữa bức tường và người đang chồm tới.        

Người hoạ sĩ phải luôn xem xét, khi có một bức tường mà y phải thể hiện trên đó một câu chuyện, y sẽ định vị các nhân vật theo chiều cao thế nào, và khi y vẽ trực tiếp từ cảnh thực cho bố cục này, y phải chọn một vị trí mà mắt nhìn ở phía dưới đối tượng đang vẽ, còn đối tượng, khi sáp nhập vào bố cục, sẽ ở trên con mắt của người quan sát. Nếu không, tác phẩm có thể bị chỉ trích.


Tại sao nên tránh sự trùng điệp những nhóm nhân vật

Lối thực hành này, vốn được các hoạ sĩ hấp thu phổ biến trên các bức tường nhà thờ, do đó nên bị chỉ trích nghiêm khắc vì họ miêu tả một cảnh trên một bình diện với phong cảnh và kiến trúc, và khi họ leo lên tầng bên trên để miêu tả một cảnh khác nữa và như thế làm thay đổi điểm nhìn của cảnh đầu tiên, và rồi tạo cảnh thứ ba và cảnh thứ tư cứ theo cách đó, trên một bức tường mà có tới bốn điểm nhìn thì hết sức là ngu xuẩn đối với những danh sư như thế.     
      Chúng ta biết rằng điểm nhìn thì đối diện với tầm mắt của khán giả với quang cảnh, và nếu bạn hỏi tôi nên miêu tả thế nào cuộc đời của một vị thánh được chia thành một số cảnh giới hạn trên cùng một bức tường, tôi trả lời rằng, bạn phải thiết đặt tiền cảnh với điểm nhìn trên một bình diện cùng với tầm mắt nhìn của khán giả tới quang cảnh. Và trên mặt bằng này, miêu tả giai đoạn quang cảnh đầu tiên với một tỉ lệ lớn. Và tiếp theo, giảm dần những nhân vật và kiến trúc trên những ngọn đồi và đồng bằng khác nhau, bạn có thể miêu tả mọi biến cố của câu chuyện. Còn phần còn lại của bức tường cho tới chóp đỉnh, bạn sẽ làm cho cây cối có kích thước tỉ lệ tuỳ theo những nhân vật hoặc những thiên thần nếu những nhân vật này thích hợp với câu chuyện, hoặc chim muông hoặc những áng mây hoặc những thứ tương tự; bằng không, đừng có tốn công làm gì vì toàn bộ cả tác phẩm của bạn sẽ bị sai lạc.

Tôi không thể không lưu ý trong số những quy tắc này, một sáng kiến mới để học tập, tuy nó có vẻ tầm thường và gần như buồn cười, tuy vậy lại hết sức hữu dụng trong việc đánh thức đầu óc cho những phát kiến khác nhau. Đó là, khi bạn nhìn vào một bức tường loang lổ hoặc hỗn hợp các loại đá, nếu bạn sửa soạn nghĩ ra một quang cảnh nào đó, bạn có thể nhìn thấy trong đó một sự tương tự với những phong cảnh khác nhau được tô điểm với núi, sông, nham thạch, cây cối, đồng bằng, thung lũng và những vùng đồi; hoặc bạn cũng nhìn thấy những trận đánh và những nhân vật đang hành động; hoặc những gương mặt và y phục kì dị và vô số sự vật mà bạn có thể giảm trừ thành hình dạng riêng biệt và vẽ kĩ. Và những thứ này xảy ra trên những bức tường như thế một cách mơ hồ, như tiếng chuông, và trong hồi chuông đó bạn có thể tìm thấy bất cứ cái tên và từ ngữ nào mà bạn tưởng tượng ra.


Làm sao tăng tiến tài năng và kích thích những phát minh khác nhau

Hãy nhìn vào những bức tường tung toé nhiều vết loang lổ, hoặc những viên đá có những màu sắc khác nhau. Nếu bạn muốn phát minh một cảnh nào đó, bạn có thể nhìn ở đó những sự tương tự với nhiều phong cảnh, tô điểm với núi, sông, nham thạch, cây cối, những đồng bằng rộng lớn, thung lũng và đồi, theo những cách khác nhau. Bạn cũng có thể thấy những trận đánh khác nhau, và những tư thế của những nhân vật kì lạ sống động. Điều này xảy ra trên những bức tường và những viên đá màu sắc khác nhau, (vốn tác động) như tiếng chuông, và trong hồi chuông đó bạn có thể tìm thấy từng cái tên và từ ngữ mà bạn tưởng tượng tượng ra.
      Đừng khinh thường ý kiến của tôi, khi tôi nhắc nhở bạn rằng sẽ không khó khăn với bạn đôi khi ngừng lại để nhìn vào những khoảng loang lổ trên tường, hoặc tro tàn từ ngọn lửa, hoặc những đám mây, hoặc bùn lầy hoặc những chỗ nào ở đó nếu bạn thấy hay hay, bạn có thể thực sự tìm thấy những ý tưởng làm ngạc nhiên. Đầu óc của người hoạ sĩ được kích thích với những khám phá mới, bố cục cho những trận đấu của động vật và con người, những bố cục khác nhau cho phong cảnh và những vật quái dị, chẳng hạn như ma quỷ và những thứ tương tự, có thể đem vinh dự cho bạn, bởi vì qua những thứ không rõ ràng, tâm trí được kích thích cho những phát minh mới.


Cách thức miêu tả một trận đánh

Đầu tiên hãy miêu tả khói của hoả pháo, trong không khí trộn lẫn bụi mù tung lên do chuyển động của ngựa và chiến sĩ. Sự hỗn hợp này, bạn phải thể hiện như sau: bụi, là một thứ từ mặt đất, có trọng lượng; Mặc dù do độ tinh mịn nên nó có thể dễ dàng bốc lên và trộn lẫn vào không khí, tuy nhiên lại sẵn sàng rơi xuống lại. Nó là thành phần đầu tiên trỗi lên cao nhất; vì vậy thành phần đó sẽ thấy ít nhất và gần như mang màu sắc không khí. Khói trộn lẫn vào không khí nhiễm bụi, khi nó bốc lên tới một độ cao nhất định, sẽ trông giống đám mây đen; và ở phần cao nhất khói sẽ hiển hiện rõ rệt hơn bụi. Khói sẽ nhuốm màu lam, còn bụi vẫn giữ màu của nó. Sự hỗn hợp của không khí, khói, và bụi, trông sẽ sáng hơn nhiều từ phía ánh sáng chiếu tới hơn là phía đối diện. Các chiến sĩ càng hỗn độn bao nhiêu thì càng ít thấy được họ, và tương phản giữa ánh sáng và bóng của họ càng ít đi. Bạn nên tạo vẻ hồng hào bừng sáng trên những gương mặt cùng những nhân vật và không khí bao quanh họ, và đối với những pháo thủ và những người gần họ. Và vẻ bừng sáng này sẽ càng yếu đi khi nó xa khỏi nguyên nhân. Những nhân vật ở giữa bạn và ánh sáng, nếu ở xa, sẽ có vẻ tối trên nền sáng, và chân của họ càng tới gần hơn trên mặt đất thì càng khó nhìn thấy hơn, vì ở đó bụi hạt thô hơn và dầy đặc hơn. Nếu bạn làm cho bầy ngựa phi nước kiệu xa khỏi đám đông, hãy tạo những đám mây bụi nhỏ có khoảng cách với nhau tuỳ khoảng cách giữa những bước sải của con ngựa, và đám mây xa nhất khỏi vó ngựa nên sẽ ít thấy rõ nhất, vì nó sẽ lên cao và lan toả và mỏng, còn đám mây càng gần hơn sẽ dễ thấy, nhỏ hơn và đặc hơn. Cho không trung mũi tên bay loạn xạ, một số bắn lên trên, một số rớt xuống, một số bay ngang. Những quả đạn từ khẩu pháo phải có một luồng khói đi theo dòng. Với những nhân vật ở tiền cảnh, bạn phải cho tóc và lông mày họ lấm bụi, còn ở những chỗ phẳng khác thì có thể ngăn được. Bạn sẽ cho những kẻ chinh phục xông lên phía trước với tóc và những vật thể nhẹ khác phất phới trong gió, những đôi lông mày cụp xuống; và họ lao về phía trước với tứ chi đối ngược nhau; tức là nếu một người bàn chân phải tiến tới, thì cánh tay trái cũng nên tiến tới. Còn nếu bạn cho một kẻ nào đó ngã xuống bạn phải tạo dấu chỗ kẻ ấy trượt chân trên bụi trở thành vũng bùn vấy máu; và xung quanh khoảng đất lầy nhầy cho thấy dấu vết dẫm đạp của người và ngựa băng qua. Hãy miêu tả một con ngựa kéo lê xác chủ nhân, để lại đằng sau y trong bụi và bùn dấu vết thi thể bị kéo theo. Hãy miêu tả kẻ bị chinh phục và nhợt nhạt bầm dập, với cặp lông mày giao nhau, và da bên trên lông mày bị có những nếp; hai bên cánh mũi những nếp nhăn thành một vòng cung từ hai lỗ mũi và chấm dứt ở đầu mắt; lỗ mũi bị kéo lên—do những đường nhăn này; đôi môi hình cung để lộ hàm răng trên; và hàm răng cách ra cùng với tiếng kêu than. Hãy cho thấy có người đang dùng bàn tay như tấm khiên che đôi mắt kinh hoàng với lòng bàn tay quay hướng tới kẻ thù; trong khi bàn tay kia chống tựa trên mặt đất để chống đỡ thân thể gắng gượng dậy. Hãy miêu tả những kẻ khác đang thét lớn với miệng mở lớn, và đang chạy đi. Hãy đặt mọi loại khí giới giữa bàn chân của những chiến sĩ, như khiên vỡ, giáo, gươm gẫy, cùng những vật thể khác. Hãy cho người chết bị bụi phủ lên một phần hoặc hoàn toàn, và trộn lẫn với máu me rỉ ra và biến thành bùn đỏ thắm, và cho máu được nhìn thấy bằng màu sắc chảy tuôn thành một dòng ngoằn ngoèo từ thi thể vào bụi đất. Những người khác khắc khoải hấp hối đang nghiến răng, đảo mắt, nắm chặt tay lại chống đỡ thân thể, và cẳng chân bị biến dạng. Có thể cho thấy một số người bị tước khí giới và bị kẻ thù đánh đập đang hướng lên kẻ cừu địch, dùng răng và móng tay muốn một sự báo thù tàn bạo và thảm thiết. Bạn có thể nhìn thấy một con ngựa mất chủ đang chạy với bờm trong gió phất phơ và móng guốc của nó làm cho kẻ thù kinh hoàng. Bạn có thể thấy một chiến binh nào đó bị trọng thương ngã xuống đất, đang dùng khiên che mình, còn kẻ thù thì đang cúi xuống và rán sức giáng cú trí mạng. Ở đó cũng có thể thấy nhiều người ngã xuống chồng chất lên một con ngựa đã chết. Bạn sẽ thấy một số kẻ chiến thắng đang rời bỏ trận đánh và rút khỏi đám đông, và hai bàn tay đang lau mắt và đôi má lấm lem do bụi làm nhức mắt họ.
     Bạn sẽ thấy những đội kị binh dự bị đang đứng tràn trề hi vọng và cặp lông mày nhướng lên theo dõi, lấy tay che mắt theo dõi trong lớp sương mù dày đặc và xáo trộn, sẵn sàng đợi lệnh của vị chỉ huy; còn vị chỉ huy cũng vậy, giương cao quyền trượng, hối thúc nhóm dự bị, chỉ đạo cho họ hướng tới nơi người ta đang cần họ. Và cho thấy một dòng sông nơi đó đàn ngựa đang phi nước đại làm khuấy nước xung quanh với những con sóng cuồn cuộn, bọt, và nước tung toé lên không trung và lên chân và thân mình của lũ ngựa. Và bạn cũng xem xét bức tranh bạn vẽ, không địa điểm đất bằng nào mà không bị dẫm đạp lẫn với máu.   


Cách miêu tả cảnh Đêm

Khi ánh sáng bị mất hoàn toàn thì tất cả tối tăm; vì đó là điều kiện của bóng đêm, nếu bạn muốn miêu tả một cảnh trong đó, hãy bố trí để đem vào một ngọn lửa lớn. Vậy thì vật nào gần ngọn lửa này nhất sẽ nhuốm màu lửa nhiều nhất. Vì bất cứ gì gần nhất với nguyên tố này đều mang tính chất của nó nhiều nhất; và khi làm cho ngọn lửa màu đỏ bạn phải làm cho mọi vật được chiếu bằng sắc điệu đỏ hồng; trong khi những vật thể xa ngọn lửa hơn thì nhuốm sắc đen của bóng đêm. Những nhân vật in trên nền ngọn lửa trông có vẻ tối sẫm trong ánh chói loà của ánh lửa bởi vì bộ phận của vật thể mà bạn thấy bị nhuốm do bóng tối của đêm, chứ không do lửa; những người đứng cạnh nhau sẽ nửa tối và nửa trong ánh đỏ hồng; trong khi những người có thể thấy được bên kia những đường biên của ngọn lửa thì tất cả được chiếu sáng bằng ánh đỏ bừng trên nền đen. Còn về động tác của họ, hãy cho những người gần lửa lấy bàn tay và áo khoác che như chống lại sức nóng dữ dội, cùng những gương mặt quay đi như thể sắp rời bỏ. Còn những người xa hơn nữa, miêu tả đa số bàn tay giơ lên che mắt bị loá do ánh sáng quá chói.
Hãy miêu tả cơn gió trên đất liền và trên biển.
Hãy miêu tả một cơn mưa bão.


Cách miêu tả bão tố

Nếu bạn muốn miêu tả bão tố, hãy xem xét và bài trí những hiệu quả của nó khi gió đang thổi qua bề mặt biển cả và đất liền, nó nhấc lên và đem theo mọi thứ không bám cố định nói chung. Và để miêu tả cơn giông bão này, trước tiên bạn phải cho thấy những đám mây tan tác bay theo gió, cùng với bão cát thổi lên từ bờ biển, cành và lá cây bị cuốn theo bởi sức mạnh và cuồng nộ của cơn gió mạnh và gieo rắc những vật thể nhẹ khắp không trung. Cây cối và thảo mộc bị cong rạp xuống đất, y như thể chúng tuân theo luồng của gió, cành vặn vẹo khỏi sự sinh trưởng tự nhiên, lá thì lắc lư và lộn ngược. Còn những người đang ở đó, một số ngã xuống và nằm cuộn với y phục, còn những người đang đứng sẽ ở đằng sau môt số cây với cánh tay ôm vòng quanh để gió không thể kéo họ ra khỏi; còn những người khác nên cho thấy họ đang cúi mình, bàn tay của họ đang che lên mắt bởi vì bụi, quần áo của họ và tóc phất phới theo gió. Hãy miêu tả biển dữ dội và bão táp, đầy bọt trắng xoáy cuộn giữa những đợt sóng lớn, và gió mang theo một lớp bụi nước qua không trung bão tố tương tự một lớp sương mù dày đặc bao phủ tất cả. Còn những chiếc tàu ở đó, một số nên cho thấy những cánh buồm bị rách và mảnh rách bay phần phật trong khí quyển cùng với những sợi dây thừng đứt và một số cột buồm bị chẻ đôi và đổ xuống, còn con tàu tự nó nằm bất lực và bị vỡ do những đợt sóng dữ, với những kẻ kêu thét và bám chặt vào những mảnh vỡ của con tàu đắm. Hãy cho những đám mây bị những cơn gió dữ dội xua đi, và nhào vào những chỏm núi cao, và từ đó cuồn cuộn và xoáy như những con sóng đánh vào những tảng đá; ngay cả không trung cũng nên tạo nỗi kinh sợ bằng bóng tối dầy đặc gây ra do bụi, sương mù và những đám mây trĩu nặng.           


MIÊU TẢ TRẬN HỒNG THUỶ
    
Chủ đề dưới đây là sự bất lực của con người khi đối mặt với luật tàn nhẫn của thiên nhiên. Leonardo lấy cảm hứng từ việc nghiên cứu của ông về sự vận động của nước trong những sơn cốc, về thuỷ lưu, và khi ở bên bờ biển để viết một tường thuật liên tục bao gồm những cảnh sắc khác nhau, được miêu tả sống động, hết việc này đến việc khác theo quan hệ nhân quả. Khi một dòng cuồng lưu trỗi lên từ một nguồn nhỏ, như thế gần như một tai biến nhỏ ở cạnh dốc núi dần dần dẫn tới một thảm hoạ lớn, bởi đó toàn thể phong cảnh cuối cùng bị nhấn chìm. Có thể ông đã muốn cho thấy sự huỷ diệt thế giới ra sao, đã dự ngôn trong sách Khải thị (Apocalypse), và được tin là sắp xảy đến, và có thể là đã kết liễu.     
      Thủ cảo nguyên bản được minh hoạ bằng những bức vẽ ở bên lề về những đợt sóng, thuỷ triều, thác nước, v.v... để làm rõ ràng hơn về sự vận động.

Đầu tiên, cần miêu tả đỉnh của một quả núi lởm chởm với những thung lũng bao quanh chân, và ở các sườn của nó, cho thấy bề mặt của đất bị sụt lở cùng với rễ và đám cây bụi và một bộ phận lớn những nham thạch bao quanh bị trơ trụi. Sự tàn phá theo dốc xuống từ những vách đứng này, hãy cho nó đi theo dòng chảy xô tới, trơ ra đám rễ xoắn và xù xì từ những cây lớn bị lật nhào và hư hại nghiêm trọng; và cho những quả núi khi đã trở nên trơ trụi để lộ ra những kẽ nứt sâu do những cơn địa chấn cổ đại còn lưu giữ; và cho một bộ phận lớn chân núi được bao phủ và bọc với tàn tích của những bụi cây vốn đổ xuống từ những sườn núi cao chót vót; và cho những thứ này hỗn hợp với bùn, rễ, cành cây cùng các loại lá khác nhau dồn lại trong bùn, đất và đá. Và cho các mảnh vỡ của núi lăn sâu xuống thung lũng và ở đó tạo nên bờ ụ bên những dòng nước sông cuồn cuộn; và những bờ sông đã bị vỡ tung cuốn trôi theo những đợt sóng cực kì lớn, chúng tấn công và tàn phá tường thành của các thành phố và các nông trại nơi thung lũng. Và hãy miêu tả những tàn tích dinh thự cao của những thành phố này tốc lên một cơn bụi lớn có dạng như khói hoặc những đám mây quấn quanh tương phản với cơn mưa đang trút xuống. Và khi khối lượng lớn tàn tích lăn xuống từ những quả núi cao hoặc những dinh thự lớn lao xuống những mặt nước của những hồ lớn, thì một lượng nước lớn dội lại vào không trung theo hướng ngược lại; tức là góc của phản xạ sẽ bằng với góc tới. Còn những vật thể trôi theo những dòng nước, sẽ xuất hiện ở một cự li xa hơn từ những bờ sông đối diện và chúng nặng hơn và to lớn hơn. Nhưng những dòng nước cuồn cuộn sẽ lượn quanh hồ và lưu giữ chúng và đánh vào bằng những xoáy nước dội vào những chướng ngại vật khác nhau, vọt lên không trung với bọt vấy bùn; rồi rơi xuống trở lại khiến cho nước bị đánh lại lao vào không trung. Và những đợt sóng cuộn tròn rút khỏi nơi chấn động bị đẩy qua dòng của những đợt sóng khác đang cuộn tròn chuyển theo hướng ngược lại và sau khi đánh vào những đợt sóng này chúng dâng lên trong không trung mà không bị tách khỏi phần đáy của chúng.    
      Và ở đâu nước từ hồ tuôn ra thì những đợt sóng bị xúc tác lan tới chỗ thoát ra; từ đó nước đổ xuống hoặc hạ xuống qua không trung hấp thu trọng lượng và động lực và khi khi đánh vào nước ở bên dưới, nó xâm nhập, xé toang ra và cuồng nộ xô xuống để vươn tới độ sâu; và không trung này vẫn đầy bọt lẫn với những khúc gỗ và những vật thể khác nhẹ hơn nước; và xung quanh những thứ này bắt đầu tạo ra khởi đầu những đợt sóng với chu vi càng gia tăng khi có đà hơn; và sự vận động này khiến cho chúng xuống thấp hơn tỉ lệ với phần chân đáy rộng hơn của chúng; và vì thế thấy ít rõ rệt khi chúng dịu đi. Nhưng nếu những đợt sóng dội lại vào những vật thể khác nhau, vậy thì chúng vọt lùi trở lại đánh vào những đợt sóng khác đang tới gần tuân theo cùng quy luật phát triển theo độ cong trong khi chúng đã cho thấy sự vận động nguyên thuỷ của chúng. Cơn mưa khi rơi xuống từ những đám mây có cùng màu sắc như những đám mây bị rợp bóng, trừ khi những tia mặt trời chiếu vào đó, trong trường hợp ấy, mưa sẽ có vẻ ít sẫm hơn mây. Và nếu trọng lượng lớn tàn tích từ những quả núi khổng lồ hoặc những toà nhà lớn khi giáng xuống sẽ gây nên những vũng nước lớn, tiếp theo một lượng nước lớn sẽ dội lại không trung và dòng của nó sẽ sẽ ở hướng ngược lại với vật chất đánh xuống nước; tức là góc phản xạ sẽ bằng với góc tới. Còn những vật thể trôi theo dòng và chúng nặng hơn hoặc to lớn, sẽ giữ một khoảng cách xa hơn từ hai bờ sông đối diện. Trong những vùng xoáy, nước quay tròn nhanh hơn khi tới gần trung tâm hơn. Ngọn sóng biển đổ tới phía trước rơi xuống chân sóng khi đánh lên với các bong bóng ma sát tạo trên bề mặt của chúng. Và do sự ma sát này, nước rơi xuống làm thành những hạt li ti, biến thành lớp bụi mù rồi lẫn vào với gió mạnh như luồng khói cuồn cuộn và những đám mây ngoằn ngoèo và cuối cùng bốc lên vào trong không khí, bị vùi dập và chao đảo do những luồng gió thưa hoặc dày tuỳ theo độ thưa hoặc mật độ của những con gió này, và như vậy có sự phát sinh trong khí quyển một sự tràn ngập những đám mây trong suốt vốn hình thành do cơn mưa nói trên và được thấy qua những tuyến làm bằng mưa rơi gần với con mắt của người nhìn.
      Những đợt sóng biển vỡ tung trên sườn núi dồn lại, nổi bọt từ tốc độ chúng đánh lên những ngọn đồi và lần lượt gặp đợt sóng kế tiếp bắt đầu và sau tiếng ầm ầm vang dội thì quay về thành một đợt cơn lũ lớn ra biển là nơi chúng tới.   
      Hãy cho một đám đông cư dân, người và động vật đủ mọi loại, cho thấy họ bị xua đi bởi trận hồng thuỷ đang dâng lên hướng tới những đỉnh núi bao quanh những dòng nước này.


Về trận Hồng thuỷ và miêu tả về nó trong tranh

Hãy cho không trung tối sẫm và u ám bị vùi dập bởi những trận cuồng phong trái chiều và dày đặc từ cơn mưa liên tục trộn lẫn với mưa đá và đây đó có vô số cành cây bị gẫy lìa và lẫn vào với vô vàn lá cây. Tất cả xung quanh hãy cho thấy những cây cổ thụ bị bật rễ và bị tước lột do cuồng nộ của gió; hãy cho thấy những mảng núi lở bị xói trơ trụi bởi những dòng cuồng lưu và làm tắc nghẽn những thung lũng; cho tới khi những dòng sông cuồn cuộn ngập lụt và nhận chìm những vùng đất rộng cùng với cư dân. Cũng vậy, bạn có thể thấy trên nhiều đỉnh núi, nhiều loại động vật khác nhau túm tụm lại, chịu khuất phục và trở nên thuần tính cùng ở với những người đàn ông đàn bà, họ chạy trốn tới đó cùng với con cái. Còn những dòng nước bao phủ đồng ruộng bằng những đợt sóng, phần lớn làm vương vãi giường tủ bàn ghế, ghe thuyền và các loại dụng cụ khác chế ra cấp thiết để cứu sinh mạng, và trên đó những người đàn bà, đàn ông cùng con cái họ kêu than, và thét lên kinh hoàng do cuồng phong khiến những dòng nước chảy cuồn cuộn trong cơn bão lốc, mang theo chúng những tử thi chết đuối; hầu như không có vật thể nào nhẹ hơn nước mà không bị các loài động vật khác nhau tìm chỗ núp, chúng đứng tụm lại với nhau đầy sợ hãi, trong đó có sói, chồn cáo, rắn, và các loài khác đang trốn tránh cái chết. Và mọi đợt sóng đánh vào bên cạnh chúng đều giáng xuống bằng những cú va đập từ những thi thể chết đuối, những va đập ấy giết chết những ai còn sống sót.                 
      Bạn có thể nhìn thấy những nhóm người với vũ khí trong tay đang bảo vệ những địa điểm nhỏ còn lại trước lũ sư tử, sói, và dã thú săn mồi đang tìm chỗ an toàn. Ôi chao! Những tiếng thét thật kinh hoàng trong không trung tăm tối bị xé toạc bởi sấm sét cuồng nộ loé lên xuyên thủng những đám mây mang theo sự huỷ hoại và giáng xuống tất cả kẻ nào còn cầm cự! Ôi chao, bạn có thể thấy nhiều người dùng tay bịt tai lại để không nghe thấy những âm thanh khủng khiếp trong không trung tối đen bởi sự cuồng nộ của gió lẫn vào với mưa, tiếng sấm từ trời, và những tiếng sét thịnh nộ! Những người khác, không muốn nhắm mắt, họ đặt tay lên mắt, tay này áp lên tay kia che mắt để cầm chắc không nhìn thấy cuộc tàn sát nhẫn tâm đối với loài người do cơn thịnh nộ của Thượng đế... Ôi chao, biết bao tiếng ai oán! Biết bao nỗi kinh hoàng khi buông mình vào những tảng đá! Những cành cây to lớn từ những cây sồi đồ sộ chất đầy những người đung đưa trong không trung bị cơn cuồng nộ dữ dội của gió. Biết bao thuyền bè bị lật úp, một số bị toàn bộ, những cái khác bị vỡ tan thành từng mảnh với người ta trên đó rán sức thoát khỏi bằng những cử chỉ và động tác đau đớn báo trước một cái chết kinh hoàng! Những người khác có những cử chỉ tuyệt vọng đang tự kết liễu đời mình, họ vô vọng vì không thể chịu đựng được sự khắc khoải như vậy; một số những người này lao xuống từ nham thạch chót vót, những người khác đang dùng tay tự siết cổ; những kẻ khác túm lấy con cái và giết chúng một cách hung bạo bằng chỉ một nhát; một số tự đả thương hoặc tự sát bằng các loại vũ khí; những kẻ khác quỳ sụp xuống tự phó mình cho Thượng đế. Chao ôi! Biết bao người mẹ đang nức nở trên xác những đứa con bị chết đuối và vực con mình trên đầu gối, hai cánh tay dang ra và giơ lên lên trời cao, và với những tiếng kêu khóc và thét lên thoá mạ cơn thịnh nộ của những thần linh! Những kẻ khác với tay nắm chặt và ngón tay siết lại day dứt, ngấu nghiến chúng thành những vết cắn tuôn máu, họ co quắp với ngực sát vào với đầu gối trong sự vật vã dữ dội không kham nổi.
      Những bầy động vật, như ngựa, bò, dê, và cừu, cũng đã bị những dòng nước bao bọc và bị bỏ rơi cô lập trên những đỉnh núi cao, chúng tụm lại với nhau, những con vật ở giữa đang trèo lên đỉnh, dẫm đạp lên những con khác, và chúng đánh nhau kịch liệt; nhiều con đang hấp hối vì thiếu ăn.
      Và các loài chim cũng đã bắt đầu đậu trên con người và trên những động vật khác vì chúng không còn tìm ra bất cứ mảnh đất nào còn lại không bị nhận chìm mà không bị những sinh vật khác chiếm cứ; bởi vì cái đói là sứ giả của tử thần đã lấy đi phần lớn sinh mạng của động vật và rồi những thi thể trương lên, từ đáy nước sâu bắt đầu nổi lên mặt nước giữa những đợt sóng vùi dập; và chúng đánh vào nhau; như những quả bóng được gió thồi phồng lên, dội lại từ vị trí nơi chúng đánh vào, đè lên những thi thể khác.
      Và ở bên trên những cảnh phán xét này, thiên không mây đen che phủ bị xé toạc bởi những luồng chớp thịnh nộ của thiên đình, ánh chớp loé lên đây đó, bóng tối mênh mang.

Giữa những luồng gió xoáy là vô số những bầy chim đang đến từ những vùng đất xa xôi, và những bầy chim này xuất hiện hầu như không thể phân biệt, vì trong những vận động quay tròn của chúng, có lúc, cả bầy chim trong một đàn ở sát bên cạnh, cho thấy phía hẹp nhất, và có lúc lại cho thấy tầm rộng cực kì ở chính diện; và thoạt đầu xuất hiện, chúng có hình dạng như một đám mây không thể nhận dạng, và tiếp theo là nhóm thứ hai và thứ ba trở nên rõ rệt hơn khi chúng tới gần mắt người xem. 

Lũ chim gần nhất trong những đoàn chim đang hạ xuống bằng một vận động nghiêng, và đậu trên những thi thể, đang bập bềnh theo những đợt sóng của trận hồng thuỷ, rồi rỉa rói; chúng làm việc này cho tới khi sức nặng của chúng làm những thi thể trương phình bị phân huỷ, lại dần chìm xuống đáy nước.         
  
                  .
Những phân đoạn

Bóng tối, cuồng phong, bão biển, ngập lụt, rừng cháy, mưa, chớp từ trời, động đất, và núi băng lở, những thành phố san thành bình địa.
      Gió lốc mang theo nước và cành cây cùng con người qua không trung. Cành cây, có người trên đó, bị kéo giật đi bởi những trận cuồng phong xô xát nhau.
      Cây cối gẫy đổ chất nặng người.
      Tàu bè lao vào những tảng đá bị vỡ nát.
      Những bầy cừu.
      Mưa đá, sấm chớp, gió lốc.
      Người trên cây cối không thể chống đỡ cho họ được, cây, đá, tháp, và đồi chật ních người, thuyền, bàn, máng xối và những dụng cụ để thả nổi khác,—những quả đồi ngập đàn ông, đàn bà và động vật, với loé chớp từ mây bật sáng quang cảnh. 

____

Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.
http://librafalas.weebly.com/uploads/6/6/7/9/6679074/notebook_of_da_vinci.pdf

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét