Umberto Eco
Hà Vũ Trọng dịch
Nội
dung
Dẫn nhập
Chương I Cái xấu trong thế giới Cổ điển
1. Một thế giới do cái đẹp làm chủ tể?
2.
Thế giới Hi Lạp và sự kinh hãi
Chương II Sự thụ
nạn, cái chết, sự tuẫn đạo
1.
Quan điểm ‘duy mĩ’ về thế giới
2.
Sự thụ nạn của Chúa Kitô
3.
Người tuẫn đạo, ẩn sĩ, người sám hối
4.
Sự chiến thắng của Thần Chết
Chương III Khải thị, địa ngục và ma quỷ
1.
Một thế giới kinh hoàng
2.
Địa ngục
3.
Sự biến hoá của ma quỷ
Chương IV Những quái vật và điềm gở
1.
Kì quan và quái vật
2.
Mĩ học về sự vô độ
3.
Luân lí hoá quái vật
4.
Mirabilia
(kì
tích)
5.
Số phận của những quái vật
Chương V Xấu xí, khôi hài và tục tĩu
1.
Thần dương vật Priapus
2.
Trào phúng về nông dân và hội hoá trang
3.
Phục Hưng và sự phóng túng
4.
Trào lộng và hí hoạ
Chương VI Vẻ xấu xí của phụ nữ giữa thời Cổ đại và
Baroque
1.
Truyền thống phản nữ tính
2.
Chủ nghĩa Phong cách và Baroque
Chương VII Ma quỷ trong thế giới hiện đại
1.
Từ Satan nổi loạn tới Mephistopheles khốn
khổ
2.
Sự ma quỷ hoá kẻ thù
Chương VIII Pháp thuật, Satan giáo, chứng bạo dâm
1. Phù thuỷ
2.
Satan giáo, chứng bạo dâm và sở thích cuồng
bạo
Chương IX Sự hiếu kì đối với thân thể
1.
Mổ xẻ tử thi
2.
Diện mạo
Chương X Chủ nghĩa Lãng mạn và sự cứu chuộc cái xấu
1.
Triết học về cái xấu
2.
Xấu xí và đoạ địa ngục
3.
Xấu xí và bất hạnh
4.
Bất hạnh và bệnh tật
Chương XI Cái lạ lẫm
Chương XII Tháp sắt
và tháp ngà
1.
Cái xấu của kĩ nghệ
2.
Chủ nghĩa Suy đồi và sự phóng túng của cái
xấu
Chương XIII Avant-Garde và sự chiến thắng của cái xấu
Chương XIV Cái xấu của kẻ khác, Kitsch và Camp
Chương XV Cái xấu
ngày nay
*
Dẫn nhập
Trong mỗi thế kỉ, các triết gia và nghệ sĩ
đều đề xuất những định nghĩa về cái đẹp, và nhờ tác phẩm của họ chúng ta có thể
tái cấu trúc một lịch sử về những quan niệm thẩm mĩ qua các thời đại. Nhưng điều
này đã không xảy ra với cái xấu. Hầu hết các thời đại, cái xấu bị xem là phản
diện với cái đẹp mà hầu như chưa ai viết một chuyên luận dài dành cho cái xấu, và
nó bị giảm xuống thành cái gì đó ngẫu nhiên trong các tác phẩm bên lề. Vì thế,
trong khi lịch sử về cái đẹp có thể dựa vào nhiều nguồn lí thuyết (từ đó ta có
thể suy ra những thị hiếu của một thời kì nhất định) thì phần lớn lịch sử về
cái xấu phải tìm kiếm manh mối riêng trong những miêu tả bằng hình ảnh hoặc tài
liệu viết về sự vật hoặc về con người mà theo một cách nào đó bị coi là ‘xấu
xí’. Tuy vậy, lịch sử về cái xấu cũng chia sẻ một số những đặc điểm chung với lịch
sử cái đẹp. Đầu tiên, chúng ta có thể giả
định rằng thị hiếu của người bình thường tương đồng theo một cách nào đó với
thị hiếu của các nghệ sĩ cùng thời với họ.
Pablo Picasso, Người đàn bà khóc, 1937, Tate Gallery, London
Giả sử có một vị khách từ ngoài hành tinh bước vào một phòng trưng bày nghệ thuật đương đại, nhìn thấy những khuôn mặt phụ nữ do Picasso vẽ và cảm thấy người thưởng lãm đánh giá là đẹp, vị khách có thể nhầm tưởng rằng trong thực tế hàng ngày, đàn ông ở thời đại chúng ta xem những sinh vật nữ với khuôn mặt như được Picasso vẽ là đẹp và đáng mơ ước. Thế nhưng vị khách đến từ vũ trụ ấy có lẽ thay đổi quan điểm khi đến xem một buổi trình diễn thời trang hoặc cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ, trong đó vị khách được chứng kiến những người mẫu sắc đẹp khác được tán dương. Thật không may, đây là điều chúng ta không thể làm được khi muốn nhìn lại những thời đại đã qua lâu đời – dù liên quan đến cái đẹp hay cái xấu – bởi tất cả những gì còn để lại về những thời kì đó chỉ là những tác phẩm nghệ thuật.
Một đặc điểm khác chung cho cả lịch sử của
cái xấu lẫn cái đẹp đó là chúng ta bị hạn chế thảo luận về câu chuyện của hai
giá trị này trong các nền văn minh phương Tây. Đối với những dân tộc được gọi
là nguyên thủy chúng ta có những phát hiện về nghệ thuật nhưng chúng ta không
có các văn bản lí thuyết nào để cho biết liệu những giá trị này có dụng
ý gây ra niềm vui thẩm mĩ, nỗi sợ hãi thiêng liêng, hay sự vui nhộn hay không.
Mặt
nạ vũ đạo, Ekoi (Đông Nigeria), Tishman
Collection, New York
Đối với người phương Tây, một chiếc mặt nạ nghi lễ châu Phi trông rất kinh hoàng – trong khi đối với người thổ dân nó có thể tượng trưng cho một vị thần nhân từ. Ngược lại, những tín đồ theo một số tôn giáo ngoài châu Âu có thể ghê tởm trước hình ảnh của Chúa Kitô thụ nạn, chảy máu và bị sỉ nhục, trong khi vẻ xấu xí về nhục thể này rõ ràng có thể khơi dậy sự cảm thông và xúc động của một tín đồ Kitô.
Trong trường hợp của các nền văn hoá khác,
giàu văn bản thơ ca và triết học (như văn hoá Ấn Độ, Trung Quốc hoặc Nhật Bản),
chúng ta thấy các hình ảnh và hình thức, nhưng khi dịch các tác phẩm văn học và
triết học của họ, hầu như luôn luôn khó xác lập mức độ sao cho các khái niệm ấy
có thể được đồng nhất với của chúng ta, ngay cả khi truyền thống đã khiến chúng
ta phải dịch chúng sang các thuật ngữ phương Tây thành beautiful hay ugly. Và ngay
cả khi các bản dịch đáng tin cậy, cũng không đủ để biết chắc rằng trong một nền
văn hoá nhất định, một thứ được hiểu là đẹp sẽ thể hiện ra sao, ví dụ, tỉ lệ và
sự hài hoà được coi là đẹp. Tỉ lệ và hài hoà. Chúng ta muốn nói điều gì bằng
những thuật ngữ này? Ngay cả trong quá trình lịch sử phương Tây, ý nghĩa của
chúng đã thay đổi. Chỉ bằng cách so sánh các tuyên bố lí thuyết với một bức
tranh hoặc một công trình kiến trúc vào thời đó, chúng ta mới nhận ra rằng những
gì được coi là tương xứng trong thế kỉ này đã không còn được nhìn nhận như vậy
trong một thế kỉ khác; về chủ đề tỉ lệ, chẳng hạn, một triết gia thời trung cổ
sẽ nghĩ tới các kích thước và hình dạng của một nhà thờ kiểu gothic, trong khi
một nhà lí thuyết thời Phục hưng sẽ nghĩ tới một đền thờ thế kỷ XVI, có các bộ
phận được quy định bởi tỉ lệ vàng – và cho đến thời Phục hưng, thì những tỉ lệ của
các đại giáo đường ấy là man rợ, như thuật ngữ ‘Gothic’ gợi ý rõ rệt.
Những quan niệm về đẹp và xấu đều liên
quan đến các giai đoạn lịch sử khác nhau hoặc với các nền văn hóa khác nhau và,
để trích dẫn Xenophanes Colophon (dựa theo Clementa Alexandria, Stromata, V, 110), ‘Giả sử bò hoặc sư tử
có bàn tay và chúng có thể miêu tả một tác phẩm giống như loài người, và giả sử
những cầm thú này muốn vẽ hình ảnh thần linh, thì bầy ngựa tất sẽ vẽ thần giống
ngựa, bò vẽ thần giống bò, và hình mạo cơ thể cũng giống y như của chúng.'
Vào thời Trung cổ, James Vitry, khi ca ngợi cái Đẹp của mọi kì công thần thánh, đã thừa nhận rằng có lẽ Cyclops, vốn chỉ có một mắt sẽ kinh ngạc trước những người có hai mắt, hệt như chúng ta ngạc nhiên về họ và với những sinh vật có ba mắt… chúng ta coi người Ethiopia da đen là xấu xí, nhưng trong số họ, người đen nhất được coi là người đẹp nhất. Nhiều thế kỉ sau, điều này đã được Voltaire (trong Từ điển triết học) nhắc lại: Hãy hỏi một con cóc vẻ đẹp là gì, vẻ đẹp thực sự. Nó sẽ trả lời rằng bạn tình của nó là đẹp, nàng có hai con mắt tròn xinh xinh lồi ra khỏi cái đầu nho nhỏ, cổ họng rộng và bằng, bụng màu vàng và lưng màu nâu. Hãy hỏi một người da đen ở Guinea: với anh ta cái đẹp là nước da đen bóng, đôi mắt trũng sâu và cái mũi tẹt. ‘Hãy hỏi ma quỷ: nó sẽ nói cái đẹp là một cặp sừng, bốn móng vuốt và một cái đuôi.’
Trong tác phẩm Mĩ học, Hegel lưu ý: ‘Có thể thấy không phải người chồng nào cũng xem
vợ mình là đẹp, thế nhưng ít ra thì mọi chàng trai trẻ đều xem người yêu của
mình là đẹp, đẹp độc quyền trong số mọi người nữ khác; và nếu sở
thích chủ quan về cái Đẹp này không có những quy tắc cố định, thì chúng ta có
thể coi đây là điều tốt cho cả hai bên… chúng ta thường nghe người ta nói rằng
một mĩ nữ châu Âu sẽ không làm hài lòng một người Trung Quốc, hoặc ngay với một
người bộ tộc Hottentot (Nam Phi) cũng vậy, bởi người Trung Quốc quan niệm về cái
Đẹp hoàn toàn khác với người Da Đen… Trên thực tế, nếu chúng ta ngắm tác phẩm
nghệ thuật của những dân tộc ngoài châu Âu này, chẳng hạn như hình ảnh các vị thần
của họ, vốn nảy sinh ra từ trí tưởng tượng được họ xem như là siêu phàm và đáng tôn
kính, nhưng chúng có thể gây ấn tượng với chúng ta là vô cùng gớm guốc trong số
những ngẫu tượng. Cũng vậy, âm nhạc của những dân tộc ấy có thể khiến chúng ta
thấy ồn ào đáng ghét, và đến lượt họ, họ sẽ coi các tác phẩm điêu khắc, hội hoạ và
âm nhạc của chúng ta là vô nghĩa hoặc xấu xí.’
Thường thì việc gán cho là đẹp hay cái
xấu không phải do tiêu chuẩn thẩm mĩ mà là do các tiêu chuẩn chính trị và xã
hội. Có một đoạn văn của Marx (Bản thảo kinh tế và triết học, 1884), trong đó ông vạch ra việc sở
hữu tiền có thể bù đắp cho sự xấu xí ra sao: ‘Vì đặc tính của tiền là có thể mua
được tất cả, có thể chiếm hữu mọi vật, do đó nó là vật có giá trị ưu việt… Quyền
lực của tiền lớn bao nhiêu thì quyền lực của tôi cũng lớn bấy nhiêu… Tôi là gì
và tôi làm gì hoàn toàn không phải do cá tính của tôi quyết định. Tôi xấu xí
nhưng tôi có thể mua cho mình người đàn bà đẹp nhất. Do đó tôi không phải xấu
xí, vì tác động của cái xấu xí, sức mạnh gây cản trở của nó, đã bị tiền làm cho
vô hiệu. Xét về cá nhân, tôi là người què, nhưng đồng tiền mang lại cho tôi hai
mươi bốn chân: vì thế tôi không què… Vậy chẳng phải tiền của tôi đã biến mọi
khiếm khuyết của tôi thành ngược lại hay sao?'
Từ trái sang phải:
Thất danh, John Vô uý, Công tước xứ Burgundy, khoảng đầu Tk. 19, Paris, Louvre
Diego Valázquez, Chân dung Vua Philip IV của Tây Ban Nha, 1655, Madrid, Prado
Museum
Trường phái Pháp, Chân dung Vua Louis XI, Tk. 17, Paris
Luca Giordano, Chân dung Vua Charles II của Tây Ban Nha, 1692, Madrid, Prado Museum
Chân dung Vua Henry IV, Vua nước Pháp và xứ Navarre, Tk. 19, Versailles et de Triannon
Bây giờ, nếu chúng ta mở rộng những quan
sát này từ tiền bạc sang tới quyền lực nói chung, chúng ta có thể hiểu một số bức
chân dung của các nhà quân chủ trong nhiều thế kỉ trước, được các họa sĩ cúc cung
tận tụy làm nên bất tử, và nhất định là hoạ sĩ không có ý quá cường điệu những
khiếm khuyết của họ, thậm chí ráng hết sức trau chuốt những nét nổi bật của họ.
Không nghi ngờ rằng những nhân vật này gây cho ta ấn tượng trông rất xấu xí (và
có lẽ đương thời họ cũng bị cho là vậy) nhưng do quyền lực vô hạn đã phú cho họ
sức thu hút và mị lực đến nỗi các thần dân nhìn họ bằng ánh mắt ngưỡng mộ.
Agnolo Bronzino, Chú lùn Morgante nhìn sau lưng với con cú đậu trên vai, Tk 16,
Florence, Galleria Palatina
Cuối cùng, hãy đọc một trong những truyện
ngắn hay nhất của thể loại viễn tưởng đương đại, ‘Lính canh’ (Sentinel) của Fredric
Brown, chúng ta sẽ thấy mối quan hệ giữa bình thường và quái dị, chấp nhận được
và khủng khiếp, có thể đảo ngược như thế nào tùy thuộc vào mắt nhìn: chúng ta
đang nhìn vào quái vật vũ trụ hay quái vật đó đang nhìn chúng ta: ‘Tôi ngâm
mình trong bùn ngập tới mắt, tôi đói và rét, và cách xa quê nhà năm vạn năm ánh
sáng. Một mặt trời lạ toả ra ánh sáng xanh băng giá. Lực hấp dẫn ở đây gấp đôi trọng
lực mà tôi đã quen, ngay cả một cử động nhỏ nhất cũng khiến tôi mệt mỏi và đau
đớn... Rất dễ cho lực lượng không quân với phi thuyền và siêu vũ khí, nhưng khi
đã đến đó, thì bộ binh phải chiếm lĩnh cứ điểm và bằng máu, tiến từng li từng
tí. Trước khi hạ cánh xuống hành tinh này, chúng tôi chưa từng nghe nói về máu
me như vậy. Nơi này bây giờ là thánh địa vì kẻ thù đã đến. Kẻ thù này, loài thông
minh duy nhất bên ngoài chúng ta trong thiên hà… sinh vật độc ác, đáng ghét, gớm
guốc, những quái vật đáng sợ.’
‘…Tôi
ngâm mình trong bùn ngập tới mắt, tôi đói và rét; ngày nắng gắt, gió thổi mạnh
làm rát mắt tôi. Nhưng kẻ thù đang cố gắng xâm nhập và tất cả các cứ điểm đều
đang bị đe doạ. Tôi cảnh giác, sẵn sàng nổ súng… sau đó, tôi thấy một trong số
họ trườn về phía tôi. Tôi nhắm và bắn. Kẻ thù phát ra tiếng kêu kì lạ ớn lạnh, cảnh
tượng xác chết khiến tôi rùng mình. Theo thời gian, nhiều người trong chúng tôi
đã quen, không còn để ý đến nó nữa; nhưng không phải tôi. Họ là những sinh vật
ghê tởm khủng khiếp, chỉ có hai chân, hai tay, hai mắt, làn da trắng bệch và
không có vảy…’
Khi nói rằng đẹp và xấu đều tuỳ vào các thời
đại và các nền văn hóa khác nhau (thậm chí với những hành tinh khác nhau) không
có nghĩa là con người không phải lúc nào cũng cố gắng coi đẹp xấu như đã được định
nghĩa theo một mô hình ổn định.
Người ta thậm chí có thể nêu lên, như Nietzsche
đã nói trong Hoàng hôn của các thần tượng,
rằng ‘khi nói đến cái đẹp, con người tự coi mình là chuẩn mực hoàn hảo’ và ‘ở mặt
này, y sùng bái bản thân... Về cơ bản, con người dùng sự vật như tấm gương soi
mà mọi thứ đẹp phản ánh hình ảnh của y… Xấu xí bị coi là một dấu hiệu và triệu
chứng của sự thoái hóa… mọi triệu chứng về sự kiệt sức, nặng nề, già nua, mệt mỏi,
hoặc bất kì sự thiếu tự do nào, chẳng hạn như cơn co giật hoặc tê liệt, đặc biệt
là mùi, màu sắc, sự thối rữa của hình thể… khi tất cả những điều này gây ra một
phản ứng giống nhau, thì sự phán đoán giá trị là xấu’… Vậy con người ghét điều gì? Không nghi ngờ gì nữa: y ghét buổi hoàng hôn của chính mình.’
Luận điểm này của Nietzsche là về tính ái
kỉ của nhân loại, nhưng nó cho chúng ta biết rằng cái đẹp và cái xấu được định
nghĩa dựa trên một mô hình ‘đặc định’ và khái niệm về loài có thể được mở rộng
từ con người sang vạn vật, như Plato đã nói trong Cộng hòa: nếu một cái chậu được làm đúng theo các quy tắc của nghệ
thuật thì được coi là đẹp, hoặc như Thomas Aquinas (Summa Theologica/Tổng luận thần
học, I, 39, 8) đã nói rằng cái đẹp không chỉ là kết quả của tỉ lệ phù hợp,
độ sáng hoặc độ trong mà còn của tính toàn vẹn (integrity) – vì vậy, một vật thể
(dù là cơ thể người, cây cối hoặc cái bình) phải có tất cả các đặc tính mà hình
thức của nó đã áp đặt lên vật liệu. Theo nghĩa này, thuật ngữ xấu không chỉ được áp dụng cho bất cứ thứ
gì không cân đối, chẳng hạn như một người có cái đầu to bất thường và đôi chân
ngắn tịt, nó còn được áp` dụng để mô tả những sinh vật mà Aquinas định nghĩa là
‘đáng xấu hổ’ vì chúng bị ‘suy giảm’, hoặc - như cách nói của William Auvergne
(trong Luận về thiện và ác) – người
thiếu một chi hoặc chỉ có một mắt (hoặc thậm chí ba mắt, thì cũng có thể thiếu
tính toàn vẹn nếu bị thừa). Do đó, cái nhãn hiệu ‘xấu’ đã được áp dụng một cách
tàn nhẫn cho những hình ảnh dị dạng của tự nhiên, thường được các nghệ sĩ khắc
họa một cách tàn nhẫn. Cũng đúng như vậy trong thế giới động vật với những con nào
có vẻ bên ngoài là sự lai tạo vô tội vạ giữa hai loài kết hợp với nhau.
Do đó, liệu cái xấu có thể nào tiếp tục được
định nghĩa đơn giản là đối lập với cái đẹp, mặc dù điều này cũng trái ngược với
sự thay đổi quan niệm về cái đẹp? Lịch sử của cái xấu liệu có thể được xem như
cái nền đối xứng với lịch sử về cái đẹp hay không?
Cuốn sách đầu tiên và hoàn chỉnh nhất được
Karl Rosenkranz viết vào năm 1853, Mĩ học
về cái xấu, vẽ nên một sự tương đồng giữa cái xấu xí với cái xấu xa về đạo
đức. Cũng như cái ác và tội lỗi là những mặt đối lập của cái thiện, và chúng thể
hiện cho địa ngục, vì thế cái xấu cũng là ‘địa ngục của cái đẹp’. Rosenkranz trở
lại quan niệm truyền thống cho rằng cái xấu là đối lập với cái đẹp, và là một loại
lỗi lầm có thể mắc phải bên trong tự thân cái đẹp, do đó bất kì mĩ học hay khoa
học về cái đẹp nào cũng buộc phải xử lí quan niệm cái xấu. Nhưng chính khi ông
đi từ các định nghĩa trừu tượng sang hiện tượng học về các hiện thân khác nhau
của cái xấu, ông cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về một loại ‘quyền tự trị
của cái xấu’, và điều này khiến nó trở nên phong phú và phức hợp hơn nhiều so với
một loạt các phủ định đơn giản về nhiều hình thức khác nhau của cái đẹp.
Rosenkranz phân tích tỉ mỉ cái xấu trong tự
nhiên, cái xấu về tinh thần, cái xấu trong nghệ thuật (và các dạng nghệ thuật khác
nhau không được diễn đạt chính xác), sự thiếu hình thức, không đối xứng, không hòa
hợp, sự biến dạng và dị dạng (khốn khổ, thấp hèn, vô vị, ngẫu nhiên và tuỳ tiện,
thô thiển), các hình thức ghê tởm khác nhau (vô duyên, chết chóc và trống rỗng,
kinh khủng, rỗng tuếch, bệnh hoạn, trọng tội, ma quái, quỷ dữ, phù thủy và satan).
Có rất nhiều thứ để chúng ta không còn có thể nói rằng cái xấu chỉ đơn thuần là
đối lập với cái đẹp được hiểu là sự hài hòa, cân đối hoặc toàn vẹn.
Nếu chúng ta xem xét các từ đồng nghĩa với
đẹp và xấu, chúng ta sẽ thấy những gì được coi là đẹp: xinh, dễ thương, dễ chịu, hấp dẫn, vừa ý, đáng yêu, thú vị,
lôi cuốn, hài hòa, tuyệt diệu, tinh tế, duyên dáng, mê hoặc, tráng lệ, lạ thường,
trác tuyệt, xuất sắc, lộng lẫy, thần kì, tuyệt vời, huyền diệu, đáng ngưỡng mộ,
thanh tú, ngoạn mục, rực rỡ và siêu phàm; những gì bị coi là xấu: tởm, khiếp, khủng khiếp, ghê, khó
chịu, kì cục, dễ ghét, gớm guốc, kinh tởm, khó ưa, hôi hám, bẩn thỉu, tục tĩu, tởm
lợm, đáng sợ, đáng khinh, quái dị, dễ sợ, kinh hoàng, đáng ghét, kinh khủng, rung
rợn, hoảng sợ, ác mộng, làm chán ghét, bệnh hoạn, ghê sợ, ti tiện, vô duyên, bất
mãn, chán, phản cảm, dị dạng và biến dạng (chưa kể đến mức độ kinh dị cũng có thể
tự thể hiện trong các lãnh vực thường được gán cho cái đẹp, như các thứ hoang
đường, kì quái, ma thuật và siêu phàm).
Sự nhạy cảm của người đánh giá bình thường
cho thấy, trong khi tất cả các từ đồng nghĩa với đẹp có thể được coi là phản ứng của sự tán thưởng vô tư lợi, thì hầu
hết các từ đồng nghĩa với xấu đều chứa
đựng phản ứng ghê tởm, nếu không nói là sự cự tuyệt dữ dội, kinh hoàng hoặc sợ
hãi.
Trong tiểu luận Biểu lộ cảm xúc ở con người và động vật, Darwin chỉ ra rằng những
gì gây ra cảm giác ghê tởm ở một nền văn hoá này thì không gây ra ghê tởm ở một
nền văn hoá khác, và ngược lại, nhưng ông kết luận rằng ‘những động tác hiện nay
được mô tả là biểu lộ sự khinh bỉ và ghê tởm dường như giống nhau trong phần lớn
các nơi trên thế giới.’
Mathias Grunewald, Sự cám dỗ Thánh Anthony, chi tiết trang thờ tại Isenheim, 1515,
Colmar. Musée Unterlinden
Chúng ta chắc chắn đã thấy những cách khen
trắng trợn điều gì đó khiến có vẻ là đẹp với chúng ta vì nó mang sự thèm muốn về
nhục thể, hãy nghĩ đến những lời nhận xét
tục tĩu thốt ra khi một phụ nữ xinh đẹp vừa đi ngang qua hoặc biểu hiện khó coi
của kẻ háu ăn khi nhìn thấy món yêu thích. Nhưng trong trường hợp này, chúng ta
không xét tới những biểu hiện của khoái cảm thẩm mĩ như một thứ gì đó tương tự
như những tiếng rên rỉ hài lòng hoặc thậm chí là những tiếng ợ hơi phát ra
trong một số nền văn hóa nhất định để thể hiện sự thưởng thức đối với một món
ăn (ngay cả trong những trường hợp đó, nó là một dạng trong phép xã giao). Nói
chung, trong mọi trường hợp, có vẻ như kinh nghiệm về cái đẹp khơi dậy điều mà
Kant (trong Phê phán sự phán đoán)
đã định nghĩa là khoái cảm vô tư: khi chúng ta muốn có tất cả những gì có vẻ dễ chịu với mình hoặc tham
dự vào tất cả những gì có vẻ tốt, thì sự phán đoán về sở thích khi nhìn thấy một
bông hoa mang lại khoái cảm mà không có bất kì mong muốn sở hữu hoặc sự tiêu thụ
nào.
Do đó, một số triết gia đã tự hỏi liệu có
thể đưa ra phán đoán thẩm mĩ về cái xấu hay không, khi nó khơi dậy những phản ứng
cảm xúc chẳng hạn như sự ghê tởm mà Darwin đã mô tả.
Thật ra, trong quá trình lịch sử của chúng
ta, chúng ta nên phân biệt giữa những biểu hiện của cái xấu tự thân (chẳng hạn như phân, xác thối rữa hoặc những vết lở
loét bốc mùi buồn nôn) với cái xấu hình
thức, được hiểu là sự thiếu cân bằng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ
phận trong một tổng thể.
Hãy tưởng tượng chúng ta nhìn thấy một người
trên phố mà cái miệng hầu như không có răng: điều làm chúng ta khó chịu không
phải là hình dạng của đôi môi hay một vài chiếc răng còn lại, mà thực tế là vài
chiếc răng sót lại đó không đi kèm với những chiếc răng khác đáng lẽ ở trên cái
miệng đó. Chúng ta không biết người này, và sự xấu đó xí không liên quan đến cảm
xúc, tuy nhiên khi đối mặt với sự không nhất quán hoặc không hoàn thiện của tổng
thể - chúng ta cảm thấy có quyền nói một cách khinh bỉ rằng khuôn mặt đó thật xấu
xí.
Domenico Ghirlandaio, Chân dung ông cụ với cháu trai, kh. 1490, Paris, Louvre
Đây là lí do tại sao phản ứng ghê tởm khơi dậy cảm xúc trong chúng ta chỉ đơn giản là vì một con côn trùng nhầy nhụa hoặc một trái cây thối rữa, trong khi đó lại là một vần đề khác khi mô tả một người không cân đối hoặc nói rằng một bức chân dung xấu theo nghĩa nó được vẽ rất tồi (đây là cái xấu về nghệ thuật và cái xấu về hình thức).
Và, khi nói về cái xấu trong nghệ thuật, chúng ta hãy nhớ rằng trong hầu hết các lí thuyết mĩ học, ít nhất từ thời Hi Lạp cổ đại cho đến nay, người ta đã thừa nhận rằng bất kì hình thức xấu nào cũng có thể được cứu chuộc bằng cách thể hiện nghệ thuật cho trung thực và hiệu quả. Aristotle (Thi pháp) nói rằng việc mô phỏng thuần thục những gì coi là đáng tởm có khả năng tạo ra cái đẹp. Còn Plutarch nói (trong De audiendis poetis/ Nghiên cứu thơ ca), trong việc miêu tả nghệ thuật, cái xấu được mô phỏng vẫn cứ xấu nhưng nhận được sự vang dội của cái đẹp nhờ tài nghệ của người nghệ sĩ.
Như vậy, chúng ta đã xác định được ba hiện
tượng khác nhau: xấu tự thân, xấu hình thức và miêu tả nghệ thuật của cả hai hiện
tượng. Điều cần ghi nhớ khi đọc cuốn sách này là trong một nền văn hoá nhất định,
chúng ta hầu như luôn luôn suy ra hai loại hình xấu đầu tiên như thế nào chỉ
căn cứ trên loại hình thứ ba.
Nhưng khi làm điều này, chúng ta có nhiều
nguy cơ bị hiểu lầm. Vào thời Trung Cổ, Bonaventura Bagnoregio đã nói rằng hình
ảnh của con quỷ sẽ trở nên đẹp nếu đó là một miêu tả tốt vẻ xấu xí của nó:
nhưng liệu các tín đồ có nghĩ như vậy hay không khi họ nhìn thấy những cảnh tượng
cực hình tàn khốc dưới địa ngục thấy trên cửa hoặc trên tranh tường của nhà thờ?
Chẳng phải họ phản ứng bằng sự kinh hoàng và thống khổ, như thể họ đã nhìn thấy
cái xấu của loại hình đầu tiên, sự hung hãn và ghê tởm như cảnh một loài bò sát
đe dọa dành cho chúng ta hay sao?
Các nhà lí thuyết thường không tính đến vô
vàn các biến số riêng, tính cách cá nhân và hành vi lệch lạc. Mặc dù đúng là trải
nghiệm cái đẹp ngụ ý sự chiêm ngưỡng vô tư lợi, tuy nhiên một thiếu niên gặp rối
loạn có thể có phản ứng cuồng nhiệt ngay cả khi ngắm pho tượng Venus de Milo. Cái xấu cũng tương tự: một
em bé có thể gặp ác mộng về mụ phù thủy thấy trong cuốn truyện cổ tích, trong
khi với những đứa bé khác xem đó chỉ là một hình ảnh hài hước. Có lẽ nhiều người
cùng thời với Rembrandt, thay vì đánh giá cao tài nghệ mà ông mô tả một tử thi bị
mổ xẻ trên bàn giải phẫu, có thể đã có những phản ứng kinh hoàng như thể là xác
chết có thật - cũng giống như một số người từng sống qua trận oanh tạc bom có
thể không thể xem được bức tranh Guernica
của Picasso theo cách vô tư về mặt thẩm mĩ, mà có thể chỉ sống lại nỗi kinh
hoàng của trải nghiệm trong quá khứ của mình.
Do đó, chúng ta nên thận trọng khi theo
dõi lịch sử cái xấu, cái xấu trong mọi hình thức và đa dạng của nó, những phản ứng
trái ngược mà những hình thức khác nhau đó khơi dậy, và những sắc thái hành vi
mà chúng ta phản ứng với chúng. Chúng ta cũng nên xem coi, cứ mỗi lần, các phù
thuỷ có đúng hay không và nếu quả họ đúng, khi mà trong hồi đầu tiên của Macbeth, họ kêu lên: ‘Đẹp là xấu và xấu
là đẹp ...’ (‘Fair is foul and foul is fair.’)
Heinrich Fusuli, Macbeth đang hỏi ý kiến bóng ma hiện hình đầu đội nón sắt, 1783,
Washington DC,
Folger Shakespeare Library
______________________
*Dịch theo bản tiếng Anh:
On Ugliness, do Alastair McEwen dịch, Harvill Secker, London 2007
Nguyên tác:
Storia della bruttezza, Umberto Eco biên tập, Bompiani 2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét