Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2025

E. M. Cioran - NƯỚC MẮT VÀ CÁC THÁNH

 

Nguyên tác tiếng Rumani: Lacrimi şi Sfinţii

E.M. Cioran viết và xuất bản năm 1937 tại Bucarest

Hà Vũ Trọng dịch theo bản Anh ngữ của Ilinca Zarifopol-Johnson:  

Tears and Saints, The University of Chicago Press 1995 


*

Khi tìm kiếm nguồn gốc của nước mắt, tôi nghĩ đến các thánh.  Phải chăng họ là mạch nguồn của thứ ánh sáng đắng cay từ châu lệ? Ai biết được? Có thể chắc chắn rằng, những giọt lệ là dấu vết của họ. Nước mắt không đi vào thế giới này qua các thánh, nhưng nếu không có họ, chúng ta sẽ mãi mãi không hiểu rằng mình khóc vì khao khát một thiên đường đã mất. Hãy cho tôi thấy một giọt lệ nào đã bị mặt đất nuốt chửng! Không, tất cả đều bay lên bầu trời theo những cách mà chúng ta không biết được. Nỗi đau đến trước nước mắt, và các thánh đã đảo ngược thứ tự này.

Không thể biết được thánh nhân. Chỉ khi nào ta đánh thức những giọt lệ đang ngủ yên trong sâu thẳm, và hiểu được qua chúng, ta mới có thể biết được cách một người từ bỏ làm một phàm nhân.  

Phận thánh (sainthood) tự thân không có gì thú vị, chỉ cuộc đời của thánh nhân mới thú vị. Làm sao một người có thể từ bỏ chính mình và bước đi trên con đường nên thánh?  Nhưng làm thế nào để trở thành người viết tiểu sử các thánh? Bằng cách lần theo dấu vết các thánh, ướt đẫm bàn chân mình trong dòng nước mắt của họ!

*

Djelal-eddin-Rumi: “Tiếng vĩ cầm là âm thanh khi cánh cửa thiên đường mở ra.” 

Vậy tiếng thở dài của thiên sứ nên được so sánh với điều gì?

*

Người phụ nữ mù trong bài thơ của Rilke than thở: “Tôi không thể sống chung với bầu trời trên đầu được nữa.” Chúng ta nên nói gì với cô ta? Nếu nói rằng chúng ta cũng không thể sống chung với mặt đất dưới chân, liệu có khiến cô ta cảm thấy chút an ủi không?

*

Nhiều thánh nhân (đặc biệt là thánh nữ) đã bày tỏ nỗi khao khát được an nghỉ trong trái tim Chúa Giêsu. Tất cả họ đều được toại nguyện. Giờ đây tôi cuối cùng đã hiểu tại sao trái tim của Đấng Cứu Thế lại không ngừng đập suốt hai ngàn năm qua. Lạy Chúa tôi! Ngài đã lấy máu các thánh làm thức ăn nuôi trái tim ngài, lấy mồ hôi trên trán họ để tắm rửa nó!

Làm sao chúng ta không yêu thánh nữ Teresa cho được? Vào ngày Chúa Jesus tỏ mình ra là vị hôn phu, bà đã chạy ra sân tu viện, nhảy múa điên cuồng, đánh trống, mời các tỉ muội cùng tham gia vào niềm hoan lạc xuất thần của mình?

Năm sáu tuổi, cô bé đọc hạnh tích các thánh, trong tim cô cất lên tiếng kêu lặp đi lặp lại: “Vĩnh cửu, vĩnh cửu!”. Sau đó, bà quyết tâm đến với người Moor để cải đạo họ, đối mặt với nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nguyện vọng không thành, nhưng lòng nhiệt thành của bà ngày càng mãnh liệt hơn. Ngay cả cho đến hôm nay, ngọn lửa trong linh hồn bà vẫn không tắt, vì chúng ta vẫn sống nhờ hơi ấm của nó.

Để giành được nụ hôn tội lỗi của một vị thánh, tôi sẽ vui vẻ đón nhận bệnh dịch như một phước lành.

*

Liệu tôi có bao giờ thanh khiết đến mức chỉ có thể soi gương trong nước mắt của các thánh?

*

Thật kì lạ khi có nhiều vị thánh sống trong cùng một thời đại. Tôi cố tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ của các vị thánh, nhưng cả trí tưởng tượng lẫn nhiệt tình của tôi có vẻ hơi vô ích. Thánh Teresa Avila, 52 tuổi, nổi tiếng và được nhiều người ngưỡng mộ, đã gặp Thánh Gioan Thánh Giá, 25 tuổi, vô danh nhưng đầy nhiệt huyết, ngay tại Medina del Campo! Chủ nghĩa thần bí Tây Ban Nha: một khoảnh khắc thiêng liêng trong lịch sử nhân loại.

Một cuộc đối thoại của các vị thánh? Chỉ có Shakespeare, với trái tim của một trinh nữ, hoặc một Dostoyevsky khi lưu đày ở Siberia thiên đường, mới có thể viết nên tác phẩm này. Tôi sẽ lẽo đẽo theo sau các vị thánh suốt đời.

Không ai có thể sánh với Jalal al-Din Rumi, người đã tạo ra nhiều con đường dẫn đến Chúa qua âm nhạc và vũ điệu, một thánh nhân mà những người ngưỡng mộ đã phong thánh từ lâu. Cuộc gặp gỡ của ông với một người hành hương vô danh, một nhà hiển triết mù chữ, Shams-eddin, đầy hấp lực kì lạ. Sau cuộc gặp gỡ, họ đã tự khoá mình trong nhà của Rumi ở Konya suốt ba tháng, không rời nửa bước. Một sự xác tín theo bản năng đã khiến tôi tin rằng mọi điều đã được nói ra ở đó.

Vào thời đó, mỗi người đều giữ kín những bí mật của mình. Bạn có thể nói chuyện với Chúa vào bất cứ lúc nào, và Ngài sẽ chôn vùi tiếng thở dài của bạn trong cõi hư vô của chính Ngài. Ngày nay chúng ta không còn được an ủi vì không có ai để tâm sự. Chúng ta đã đến mức phải thú nhận nỗi cô đơn của mình với những người phàm. Thế giới này hẳn đã từng sống trong Chúa. Lịch sử tự chia thành hai giai đoạn: từng có một thời khi con người cảm thấy bị thu hút về phía hư vô đầy màu sắc của thần linh; và hiện tại, khi sự hư vô của thế giới bị trống rỗng tinh thần linh thiêng.

*

Âm nhạc khiến tôi trở nên không còn sợ hãi trước Chúa nữa. Đây chính là điều khiến tôi xa cách với những nhà thần bí phương Đông.

*

Trong Ngày Phán xét, chỉ có nước mắt mới được cân đong.

                                                                          *

Trái tim Chúa Jesus là chiếc gối của các tín đồ. Tôi hiểu những nhà thần bí khao khát được gối đầu lên đó! Nhưng sự hoài nghi chỉ đưa tôi tới cái bóng của trái tim Ngài. 

Không ai thực sự hiểu được phận thánh (sainthood) nếu không cảm nhận rằng trái tim là thế giới của nó. Trái tim là vũ trụ—đây là ý nghĩa sâu sắc nhất của phận thánh. Mọi thứ xảy ra trong trái tim: đó là huyền học và sự thánh khiết (saintliness). Nhưng điều này không có nghĩa trái tim người thường, mà là trái tim của các thánh.

*

Phận thánh là sinh lí học biến hình, hay thậm chí là sinh lí học thiêng liêng. Mỗi quan năng thân thể đều trở thành một chuyển động hướng lên cõi trời. Máu là một trong những nỗi ám ảnh thường trực. Thánh khiết là sự chiến thắng của máu.

Máu tinh khiết của Chúa Jesus là nước tắm và nước uống của các thánh. Vì thế, những lời cuối cùng của Thánh Catherine Siena: ‘Ôi máu, máu!’ Bà đang kêu cầu đến công đức của máu Đấng Cứu Thế.

*

Sự khác biệt giữa nhà thần bí với vị thánh là nhà thần bí dừng lại ở một thị kiến nội tại, trong khi vị thánh thì đưa nó vào thực hành. Tính thánh khiết phải chịu hệ quả của chủ nghĩa thần bí, đặc biệt là về mặt đạo đức. Một thánh nhân là một nhà thần bí, nhưng một nhà thần bí không nhất thiết phải là một vị thánh. Bác ái (charity) không phải là thuộc tính cần thiết của chủ nghĩa thần bí; nhưng chúng ta không thể nào hình dung thánh khiết mà không có bác ái. Đạo đức cộng với huyển học tạo ra hiện tượng thú vị của phận thánh. Những nhà thần bí nuôi dưỡng một nhục cảm thiên đường, một sự khoái lạc sinh ra từ sự giao tiếp với cõi trời; chỉ có các thánh mới gánh trên vai gánh nặng của người khác, nỗi đau khổ của những người không quen biết; chỉ có họ mới hành động. So với nhà thần bí thuần tuý, thánh nhân là một chính trị gia. Ngoài là nhà thần bí, thánh nhân là người hết sức năng động. Tuy nhiên, cuộc sống đầy rắc rối của họ không phải là tiểu sử vì chúng chỉ có một chiều, là những biến tấu trên một chủ đề duy nhất: niềm đam mê tuyệt đối.

“Nhà thần bí là người tiết lộ bí mật của bạn trong khi bạn vẫn im lặng”. (Tôi không nhớ một đại sư phương Đông nào đã đưa ra định nghĩa này).

*

Đôi mắt không nhìn thấy. Catherine Emmerich đã đúng khi nói rằng bà chỉ nhìn thấy qua trái tim. Đó là cách nhìn của các vị thánh. Chúng ta chỉ nhìn thấy bằng giác quan, làm sao họ không thể nhìn thấy nhiều hơn chúng ta? Mắt có tầm nhìn hạn chế: nó luôn nhìn từ bên ngoài. Nhưng với thế giới trong trái tim bạn, nội quan là cách duy nhất để nhận biết. Không gian trực quan của trái tim = Chúa + thế giới + hư vô. Nghĩa là, tất cả mọi thứ.

Con mắt có thể phóng đại (magnify); trong trái tim mọi thứ đều vĩ đại (magnificent)! Tôi hiểu Mechthild Magdeburg khi bà than thở rằng cả vẻ đẹp của thế gian lẫn các vị thánh đều không thể an ủi bà, không gì ngoài Chúa Jesus và trái tim của Ngài. Cả những nhà thần bí lẫn các vị thánh đều không cần mắt; họ không nhìn ra thế giới. Trái tim chính là mắt của họ.

*


“Tôi không thể phân biệt được nước mắt với âm nhạc” (Nietzsche). Ai không tức khắc ngộ ra điều này thì chưa hề sống thân thiết với âm nhạc. Tôi không biết gì ngoài âm nhạc của nước mắt. Âm nhạc bắt nguồn từ sự tiếc nuối thiên đường, nảy sinh ra biểu tượng của sự tiếc nuối: nước mắt.

*

Âm nhạc hút máu chúng ta như thế nào? Con người không thể sống mà không có một điểm tựa trong không gian; loại điểm tựa này bị âm nhạc tiêu huỷ hoàn toàn. Âm nhạc là nghệ thuật duy nhất có khả năng mang lại nguồn an ủi, nhưng nó cũng mở ra nhiều vết thương hơn bất kì nghệ thuật nào khác!

*

Âm nhạc làm nền (soundtrack) cho sự khổ hạnh (askesis). Ai có thể làm tình trong nền nhạc của Bach? Ngay cả với nhạc của Handel cũng không thể, tuy sự thoát tục của ông không có hương thơm của thiên đàng.

Âm nhạc là nấm mồ của hoan lạc, là phúc lành vùi chôn chúng ta.

*

Không tâm thái nào kém sáng tạo hơn nỗi buồn dịu dàng, chính là sự phủ định của cảm hứng. Mọi thứ phụ thuộc vào mức độ nỗi buồn, vào tần số của những rung động của nó. Ở một mức độ nhất định, nó mang tính thơ ca, ở mức độ khác, mang tính âm nhạc, và trong biểu hiện cuối cùng, mang tính tôn giáo. Do đó, có những loại nỗi buồn khác nhau của các nhà thơ, nhạc sĩ, và thánh nhân. Nỗi buồn của các nhà thơ hoặc nhạc sĩ rời khỏi trái tim và đi vòng quanh thế giới rồi trở lại như một dư âm. Nỗi buồn của các thánh nhân cũng rời khỏi trái tim nhưng dừng lại ở Chúa, từ đó thực hiện ước nguyện bí ẩn của bất kì thánh nhân nào là trở thành tù nhân của Chúa.

*

Beethoven thường xuyên vượt qua cơn cám dỗ của nỗi buồn. Sự kiềm chế đó khiến ông xa lạ với tôi. So với ông, Chopin và Schumann là những người sành điệu trong nỗi buồn đầy khoái cảm. Beethoven dường như tự hào về những chiến thắng của ý chí trước nỗi buồn. Ông là một người sành điệu hơn về nỗi tuyệt vọng, cái tự hào bị tổn thương của ý chí đang chiến đấu với thế giới.

*

Phong cảnh nào mà không gợi lên chủ đề âm nhạc thì không thể trở thành kí ức. Ai chưa từng dạo qua công viên trong tâm trạng hân hoan, u sầu thì không thể hiểu được âm hưởng phong nhã của Mozart. Những buổi tối trang nghiêm nào mà không có Brahms, hay thiên nhiên hùng vĩ mà không có Beethoven? Âm nhạc mang tính vũ trụ. Niềm đam mê âm nhạc sẽ thiếu cơ sở nếu không có tình yêu thiên nhiên.

*

Âm hưởng tang lễ trong sự phong nhã của Mozart: ai chưa khám phá ra điều đó thì không biết rằng sự phong nhã là một chiến thắng trước nỗi buồn, và rằng chỉ có phong nhã âu sầu. Một chương Andante của Mozart không phải lúc nào cũng mời gọi chúng ta đến với niềm vui.

Concerto cung La Trưởng cho piano và dàn nhạc của ông, có thể mang một linh hồn La Trưởng, nhưng với tất cả những cám dỗ của giọng thứ.

Tôi ước chi tất cả sự thật được sinh ra trên những hoà âm của Mozart, mỗi âm thanh tương đương với hương thơm của một đoá hồng. Nhưng vì sự thật không có âm điệu hay âm hưởng, cho nên một linh hồn trống rỗng cũng có thể lạnh lùng tiếp nhận chúng vốn như chúng là.

*

Anna Magdalena Bach kể cho chúng ta trong biên niên sử gia đình, rằng J. B. Bach thường trầm tư về cái chết. Ngay cả khi không có sự chứng kiến của bà, rõ ràng rằng đối với Bach, sự ưu tư về cái chết và nỗi tiếc nuối thiên đàng là nguồn mạch của cái siêu phàm. Mozart không có cả hai điều ấy. Đó là lí do tại sao âm nhạc của ông có thể được coi là thiêng liêng, nhưng không thể nào là siêu phàm. Tôi không biết có nhạc sĩ nào ít tính vũ trụ hơn Mozart.

*

Có một phổ màu sắc u buồn: nó bắt đầu bằng một nụ cười, một phong cảnh và kết thúc bằng tiếng chuông vỡ vang trong tâm hồn.

*

Trong khi sáng tác Đấng Messiah Handel thấy mình như đang ở trên thiên đường. Chính ông cũng thú nhận rằng chỉ sau khi hoàn thành nó, ông mới nhận ra mình đang sống dưới trần gian. Tuy nhiên, mặc dù vậy, Handel so với Bach lại thuộc về thế giới này. Những gì ở Bach là thần thánh, ở Handel là hùng tráng. Sự hùng vĩ trần thế (terrestrial grandeur) là đặc điểm nổi bật của Handel. Cảnh tượng thiên đường phản ánh khắp nơi trong tác phẩm của ông: sự biến hình từ ngoài vào trong.

Bach kết hợp sức mạnh bi tráng của Grunewald với linh tính của Holbein; vẻ uy nghi tuyến tính của Durer với thị kiến táo bạo của Hans Baldung. Mozart là một Botticelli u sầu: Primavera (Nguyên xuân) phủ đầy những giọt sương châu lệ.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét