Nguyên tác: François Cheng, Cinq méditations sur la beauté, Éditions Albin Michel, 2006
Hà Vũ Trọng dịch
Trầm tư thứ nhất
Trong một thời đại đầy dẫy khổ đau, bạo lực mù quáng, thiên tai và thảm hoạ sinh thái
toàn cầu, việc nói về cái đẹp có thể trở nên không thích hợp, không đúng đắn,
thậm chí khiêu khích—gần như giật gân. Nhưng chính vì lí do đó chúng ta thấy rằng
cái đẹp, như là điều đối lập với cái ác, cái đẹp thực sự nằm ở cực đối diện của
một thực tại mà chúng ta phải đối mặt. Tôi tin rằng nhiệm vụ khẩn cấp và thường
xuyên của chúng ta là phải nhìn thẳng vào hai bí ẩn này vốn tạo thành hai cực của
thế giới sự sống: ở một đầu là cái ác; ở đầu kia là cái đẹp.
Chúng
ta biết cái ác là gì, đặc biệt cái ác mà con người gây ra cho đồng loại. Do trí
thông minh và tự do của mình, khi con người rơi vào hận thù và tàn bạo, họ có
thể chìm xuống những vực thẳm không đáy, mà ngay cả loài thú dữ nhất cũng không
làm được. Trong đó có một bí ẩn ám ảnh lương tâm của chúng ta,
gây ra một vết thương dường như không thể chữa lành.
Cái đẹp, chúng ta cũng biết là gì. Tuy nhiên, chỉ cần suy ngẫm một chút, chúng ta không thể không ngạc nhiên: vũ trụ không bắt buộc phải đẹp, thế nhưng nó vẫn đẹp. Dựa trên quan sát này, vẻ đẹp của thế giới, bất chấp mọi thảm hoạ, cũng hiện ra với chúng ta như một bí ẩn.
Sự tồn tại của cái đẹp có ý nghĩa gì đối với sự tồn tại của chính chúng ta? Và trước cái ác, câu nói của Dostoyevsky, “Cái đẹp cứu rỗi thế giới,” có ý nghĩa gì? Cái ác và cái đẹp: đó là hai thách thức mà chúng ta phải đối diện. Đừng quên rằng cái xấu và cái đẹp không chỉ nằm ở hai cực đối lập: chúng đôi khi còn đan xen vào nhau. Bởi vì chỉ ở cuối trục của nó, cái đẹp mới không thể bị cái ác biến thành một công cụ của sự lừa dối, thống trị, hoặc cái chết. Khi một cái đẹp không được xây dựng trên cái thiện thì nó có còn được coi là “đẹp” không? Liệu cái đẹp chân chính có phải là cái thiện? Một cách trực giác, chúng ta biết rằng việc phân biệt cái đẹp thật với cái đẹp giả là một phần nhiệm vụ của chúng ta. Những gì đang bị de doạ không gì khác ngoài sự thật về số phận con người, một số phận liên quan đến những sự kiện cơ bản về tự do của chúng ta.
Có
lẽ đáng để tôi dừng lại một chút ở đây để đưa ra lí do sâu xa hơn khiến tôi đề
cập đến vấn đề cái đẹp và không bỏ qua vấn đề cái ác. Bởi vì ngay từ khi còn nhỏ,
trong khoảng ba, bốn năm, tôi đã bị “sét đánh” bởi hai hiện tượng cực đoan này.
Cái đẹp đã đến trước.
Tổ
tiên tôi có quê gốc ở tỉnh Giang Tây, nơi có dãy Lư Sơn. Mỗi năm vào mùa hè,
cha mẹ tôi đều dẫn chúng tôi đến đó để nghỉ mát. Lư Sơn thuộc một dãy núi, có độ
cao gần một nghìn năm trăm mét, nằm ở vị trí cao, một bên nhìn ra sông Dương Tử
và bên kia là hồ Bà Dương.
Do vị trí đặc biệt, nơi đây được coi là một trong những địa điểm đẹp nhất Trung Quốc. Do đó, trong suốt khoảng mười lăm thế kỉ, nơi đây đã thu hút các thiền sư, hoà thượng, thi nhân và hoạ sĩ. Khi được người phương Tây phát hiện, đặc biệt là các nhà truyền giáo Tin Lành, vào cuối thế kỉ 19, nơi đây đã trở thành khu nghỉ dưỡng của họ. Họ tập trung quanh một ngọn đồi trung tâm, rải rác những ngôi nhà gỗ và nhà nghỉ. Mặc dù có những di tích cổ và những ngôi nhà hiện đại, Lư Sơn vẫn tiếp tục có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Những ngọn núi xung quanh vẫn giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ, một vẻ đẹp mà truyền thống mô tả là huyền bí, đến mức câu nói của người Trung Quốc, “vẻ đẹp Lư Sơn” mang nghĩa “sự huyền bí khôn dò.”
Tôi sẽ không mô tả vẻ đẹp này dài dòng. Nói ngắn gọn rằng nó bắt nguồn từ
một vị trí đặc biệt, như vừa đề cập, điều này khiến mang lại nhiều góc nhìn mới
mẻ và những trò chơi ánh sáng biến hoá vô tận. Vẻ đẹp của nó cũng bắt nguồn từ
những lúc mây mù sương che khuất hoặc hiển lộ một “Lư Sơn chân diện mục” ; từ
những tảng đá kì dị hoà quyện với thảm thực vật dày đặc và đa dạng, từ những
thác nước và dòng suối chảy tạo ra một bản nhạc hoà quyện không ngừng suốt ngày
đêm qua bốn mùa. Vào những đêm hè giữa dòng Trường Giang và dải Ngân Hà, đom
đóm thắp sáng, núi rừng toả nồng hương tinh dầu của mọi loại cây cối; những con thú
hoang say sưa bừng dậy đắm mình trong ánh trăng, những con rắn cũng trải dài lớp
da lượt là của chúng, lũ ếch rải những hạt ngọc trai, giữa hai tiếng kêu, đàn chim
phóng ra như những mũi tên đen tuyền…
Tôi không có ý mô tả phong cảnh. Tôi chỉ muốn nói rằng Thiên nhiên, qua Lư Sơn, với tất cả sự hiện diện đáng sợ của nó, đã phô bày trước đứa bé sáu hoặc bảy tuổi là tôi khi ấy, như một bí mật vô tận, và trên hết, như một cơn mê đắm không thể cưỡng lại. Dường như nó gọi tôi tham gia vào cuộc phiêu lưu của nó, và tiếng gọi đó đã làm tôi choáng ngợp, khiến tôi gục ngã. Dù tôi còn trẻ, tôi cũng nhận thức được rằng Thiên Nhiên cũng ẩn chứa nhiều bạo lực và tàn nhẫn. Tuy nhiên, làm sao tôi lại không nghe thấy thông điệp vang vọng bên trong mình: cái đẹp tồn tại!
Một lần nữa trong cái thế giới gần như nguyên sơ này, thông điệp đó sẽ sớm được xác nhận bởi vẻ đẹp của thân thể con người, hay cụ thề hơn là thân thể phụ nữ. Khi lang thang trên đường núi, tôi bắt gặp những cô gái phương Tây mặc đồ bơi, họ đang đi tới những hồ nước được tạo thành bởi thác nước để tắm. Những bộ đồ bơi vào thời đó rất kín đáo. Nhưng nhìn cảnh đôi vai trần và cặp đùi trần dưới ánh nắng mùa hè, thật là sốc! Chưa kể tiếng cười vui vẻ của những cô gái trẻ đó đáp lại tiếng gầm thét của thác nước! Có vẻ như ở đây, Thiên nhiên đã tìm thấy một ngôn ngữ riêng để ca ngợi nó. Ca ngợi—đó chính là chiếc chìa khoá. Con người cần phải tạo ra thứ gì đó từ vẻ đẹp này mà Thiên nhiên đã ban tặng.
Tôi đã sớm khám phá ra điều kì diệu đó mang tên Nghệ thuật. Mắt mở to, tôi bắt đầu nhìn chăm chú hơn vào hội họa Trung Quốc, chúng tái hiện một cách tuyệt vời những cảnh mây và sương mù trên núi. Và, một khám phá trong những khám phá: tôi đã sớm tình cờ phát hiện ra một loại hội hoạ khác. Một trong những người dì của tôi trở về từ Pháp, đã mang đến cho chúng tôi những ấn bản tranh từ Bảo tàng Louvre và những nơi khác. Tôi bị sốc một lần nữa khi nhìn thấy hình ảnh phụ nữ khoả thân được thể hiện một cách đầy nhục cảm và lí tưởng: những nữ thần Vệ nữ Hi Lạp, những người mẫu của Botticelli, Titian và đặc biệt, gần gũi hơn với chúng tôi, là Chassériau, Ingres. La Source (Nguồn suối) của Ingres mang tính biểu tượng đã thấm sâu vào trí tưởng tượng của đứa bé, khiến nó rơi nước mắt, làm xao động dòng máu.
Lúc đó là cuối năm 1936. Chưa đầy một năm sau, chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ. Những kẻ xâm lược Nhật Bản dự tính cuộc chiến sẽ ngắn ngủi, nhưng sự kháng cự của người Trung Quốc đã khiến họ bất ngờ. Khi, sau vài tháng, họ chiếm được thủ đô, một cuộc thảm sát kinh hoàng ở Nam Kinh diễn ra. Tôi vừa tròn tám tuổi.
Chỉ
trong hai hoặc ba tháng, quân đội Nhật Bản, điên cuồng, đã thành công trong việc
giết chết ba trăm nghìn người, bằng những phương thức tàn bạo và khác nhau: xả
súng máy vào những đám đông đang chạy trốn; hành quyết hàng loạt bằng cách chém
đầu bằng kiếm; ném thường dân vô tội xuống những cái hố lớn rồi chôn sống.
Những cảnh kinh hoàng khác: lính tù binh Trung Quốc bị bắt trói đứng vào các cột để lính Nhật tập dùng lưỡi lê. Lính Nhật, xếp thành một hàng, đối mặt với họ. Lần lượt, từng người lính bước ra khỏi hàng, hét lớn và đâm lưỡi lê vào máu thịt người sống…
Cũng kinh khủng không kém là số phận dành cho phụ nữ: hiếp dâm cá nhân, hiếp dâm tập thể thường kèm theo hành vi cắt xẻo, và giết người. Một trong những cơn cuồng trí của lính hiếp dâm: chụp ảnh người phụ nữ bị cưỡng hiếp và bắt cô ta phải đứng trần truồng cạnh mình. Một số bức ảnh đó đã được công bố trong các tài liệu Trung Quốc tố cáo tội ác của Nhật Bản. Từ đó trở đi, trong tiềm thức của đứa trẻ tám tuổi như tôi, chồng thêm lên hình ảnh vẻ đẹp lí tưởng bức tranh La Source của Ingres là hình ảnh người phụ nữ bị xâm hại, bị thương tật bởi kẻ bạo hành.
Khi gợi lên những sự kiện lịch sử này, tôi hoàn toàn không muốn ám chỉ rằng những hành động tàn bạo là riêng biệt của một dân tộc nào. Sau đó, tôi có thời gian để tìm hiểu về lịch sử Trung Quốc và thế giới. Tôi biết rằng cái ác, khả năng làm điều ác, là một thực tế phổ quát thuộc về toàn thể nhân loại.
Hai
hiện tượng nổi bật và cực đoan này giờ đây liên tục ám ảnh nhận thức của tôi.
Sau này, tôi dễ dàng nhận ra rằng cái ác và cái đẹp là hai thái cực của vũ trụ
sống, tức là thực tế. Vì vậy, tôi biết rằng, từ nay trở đi, tôi sẽ phải chấp nhận
cả hai đầu cực này: nếu chỉ xử lí một đầu này mà bỏ qua đầu kia, chân lí của
tôi sẽ không có giá trị. Bằng trực giác, tôi hiểu rằng nếu không có cái đẹp, cuộc
đời có lẽ không đáng sống, và mặt khác, một hình thức cái ác nhất định xuất
phát chính từ việc sử dụng cái đẹp một cách vô cùng bại hoại.
Đây
là lí do tại sao hôm nay tôi đến trước mặt các bạn, rất muộn màng trong cuộc đời
tôi, để xem xét vấn đề về cái đẹp, mà không quên sự tồn tại của cái ác. Tôi biết
đây là một nhiệm vụ khó khăn và bạc bẽo. Trong thời đại hỗn loạn về những giá
trị, người ta cho rằng thà giễu cợt, hoài nghi, châm biếm, thất vọng hoặc thờ
ơ. Sự can đảm đối mặt với nhiệm vụ này, tôi cho rằng, xuất phát từ mong muốn của
tôi để thực hiện một nghĩa vụ đối với những người đã khuất, đang đau khổ, cũng
như những người trong tương lai.
Tuy
nhiên, tôi phải thừa nhận rằng mình đầy nghi ngại, nếu không muốn nói là khắc
khoải? Đứng trước mặt các bạn, tôi lo sợ rằng những câu hỏi mà các bạn đặt ra mặc
dù tôi thấy hợp lí, như: “Bạn đang trình bày từ quan điểm nào? Bạn xuất phát từ
vị trí nào? Bạn dựa vào sự hợp pháp nào?” Đối với những câu hỏi như vậy, tôi trả
lời một cách rất đơn giản rằng tôi không có tư cách đặc biệt nào. Tôi chỉ tuân
theo một quy tắc duy nhất: không bỏ qua bất cứ điều gì tạo nên một phần của đời
sống; không bao giờ từ chối lắng nghe người khác, và suy nghĩ độc lập.
Không
thể phủ nhận rằng tôi đến từ một vùng đất và một nền văn hoá nhất định. Hiểu rõ
hơn về về nền văn hoá này, tôi tự giao cho mình nhiệm vụ trình bày mặt tốt nhất
của nó. Nhưng do đời sống lưu vong đã khiến tôi trở thành một người không thuộc
về nơi nào, hoặc thuộc về mọi nơi. Vì vậy, tôi không nói dưới danh nghĩa cho một
truyền thống hay một lí tưởng nào đó được truyền lại từ những bậc tiền bối mà
danh sách có giới hạn, càng không phải là một siêu hình học đã được định sẵn,
hoặc một niềm tin cố định.
Thay
vào đó, tôi tự nhận mình là một nhà hiện tượng học ngây thơ, người quan sát và
chất vấn không chỉ những sự kiện đã được lí tính phát hiện và xác định, mà còn
về những gì ẩn giấu và bao hàm, chúng nảy sinh theo những cách không tiên liệu
và bất ngờ, hiện xuất như một món quà và lời hứa. Tôi nhận thức rằng, trong thế
giới vật chất, người ta có thể và cần phải thiết lập các định lí. Nhưng mặt
khác, tôi biết rằng trong lĩnh vực đời sống, chúng ta nên học cách nắm bắt các
hiện tượng khi chúng xảy ra, mỗi lần là độc nhất, khi chúng tự hiển hiện thuận
theo Đạo, tức là đang hướng tới đời sống khai phóng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét